Bạch Thoại Phật Pháp – Quyển 2
(白话佛法二)
Lời Mở Đầu
BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP
Bài giảng Video
Quyển 2
Tác giả: Đài Trưởng Lư Quân Hoành
LỜI MỞ ĐẦU
Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm. Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày. Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí. Khởi dậy Phật tánh của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta. Mời quý vị đón đọc bài giảng Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư.
Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:
“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”.
31. giữ vững chánh niệm rời xa lừa dối
Tập 31
GIỮ VỮNG CHÁNH NIỆM RỜI XA LỪA DỐI
(01/04/2020)
Quý vị quá chấp vào những gì bản thân mình đang có và những gì mình đã làm nên, một khi mất đi, quý vị sẽ trở nên rất yếu đuối. Quý vị quá chấp vào những gì mình đã làm sai, “Tại sao cho đến hôm nay tôi vẫn chưa sửa được tật xấu của mình”, một khi quý vị đã không sửa đổi tốt, thì sẽ làm tăng năng lượng tiêu cực của bản thân và khiến cho nội tâm của quý vị trở nên rất yếu đuối. Hy vọng rằng tất cả mọi người có thể tiêu trừ nghiệp chướng, tăng Phước Huệ, và học Phật bất kể thuận cảnh hay nghịch cảnh. Quý vị là người quang minh, trong tâm quý vị là cả một bầu trời, cho dù đó là phiền não trong xã hội, nhân gian, gia đình, hay bị người khác phỉ báng, bị đối xử tệ, bị đố kị với quý vị đi chăng nữa, thì những điều đó cũng giống như một ngọn lửa bùng cháy trong không trung mà thôi, ngọn lửa rất nhanh đã lụi tàn rồi.
Ở nhân gian muốn có nhân duyên, có phước, có quý nhân, thì phải quảng kết thiện duyên. Muốn tu tâm tu đạo, tu thoát lục đạo thì phải giữ vững Chánh niệm. Chánh niệm là gì? Chánh niệm là Bồ-đề tâm và từ bi tâm của quý vị. Vì vậy, phải tuân theo lời dạy của Đức Phật, tôn trọng lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, tích phước tích đức, quảng kết thiện duyên và cứu độ tất cả chúng sinh ở nhân gian. Như vậy quý vị mới có thể 1 kiếp tu thành, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi.
Một người ở nhân gian, thiện căn là quan trọng nhất, phước đức là gốc rễ của sự tu tâm, nhân duyên và phước đức là mối liên hệ gắn kết với nhau. Nếu quý vị có phước đức thì quý vị mới có được thiện duyên. Nếu quý vị có ác niệm và ác ý trong đời trước vậy thì quý vị sẽ có ác duyên trong đời này. Nếu chúng ta muốn về thế giới Tây Phương Cực Lạc thì phải tu thoát Lục Đạo, trong “Kinh A Di Đà” có nói “không thể thiếu thiện căn, phước đức, nhân duyên”, chúng ta phải có thiện căn thì mới có được phước đức, nhân duyên, và trước hết phải trở thành một người có phước ở nhân gian. Hiện nay có rất nhiều đệ tử được nghe thấy Phật Pháp, người nào cũng tu tâm niệm kinh, quý vị là những người có phước. Người có phước thì ít bệnh tật, ít phiền não, cộng thêm sự từ bi phù hộ độ trì của Quán Thế Âm Bồ Tát, thì quý vị mới có thể tu thành – nhân thành tức Phật thành. Mọi người hãy nhớ, làm sao có được phước duyên, làm sao có được Phật duyên, tất cả đều là duyên phận. Nguyện lực càng mạnh, thì thiện duyên của quý vị tự nhiên quy tụ. Người có thể giữ giới thì thân tâm an định, không sợ hãi,
nhờ giữ giới mà được định, nhờ định mà mở được tuệ, thì tâm mới có thể chứa đựng hư không (Tâm bao thái hư).
Thầy kể cho mọi người nghe một câu chuyện Phật giáo, từ đó có thể nhận được rất nhiều sự giác ngộ của đạo Phật rằng “Nhân thành tức Phật thành”. Ngày xửa ngày xưa, tại thành Ba-la-nại thuộc đất nước Kashi (伽尸Jiā shī), có một vị Bà-la-môn tên là Phất-Lô-Hê (弗卢醯Fú lú xī) (Bà-la-môn là bậc quý tộc), dưới quyền của ông có 500 đệ tử và là một quốc sư được mọi người kính trọng. Một ngày nọ, một người hầu trong gia đình Phất-Lô-Hê sinh được một cậu con trai tên là Ca-La-Ha (迦罗呵Jiā luō hē). Ca-La-Ha từ nhỏ đã có thiên phú, thông minh lanh lợi, trí nhớ đặc biệt tốt, phàm là nghe qua được những gì cũng đều ghi nhớ. Cậu ta ở trong nhà Quốc sư làm người hầu cho con cái của các bậc quý tộc. Năm này qua năm khác, ngày này qua ngày khác, cho đến một hôm, đứa trẻ này mâu thuẫn với một trong những đứa con của các bậc quý tộc khác trong nhà, trong cơn tức giận đã bỏ trốn khỏi thành Ba-la-nại và đi đến các nước khác.
Khi Ca-La-Ha đến nước láng giềng, cậu ta nghĩ: “Mình phải làm sao đây? Mình là thân phận gì đây?” Vì vậy, cậu ta nói dối rằng mình là Da-Nhược-Đạt-Đa (耶若达多Yé ruò dá duō/Yajn~adatta) — con trai của người Bà-la-môn, cậu là người đã rời xa quê hương và đặc biệt đến đây để học Pháp Bà-la-môn từ vị quốc sư này. Quốc sư nước láng giềng vô cùng cảm động, nghĩ “con nhà quyền quý như vậy đến để học hỏi mình”, nên ông đồng ý ngay lập tức. Không ngờ chàng Ca-La-Ha thông minh lanh lợi đã từng nghe pháp Bà La Môn khi còn ở Ba-la-nại, nay còn được nhận thêm sự dạy dỗ của Quốc sư, tất nhiên cậu ta đã hiểu hết và biểu hiện rất xuất sắc. Thành tích của cậu ta đều tốt, cậu nhỏ hiểu chuyện lại rất thông minh, quốc sư rất vui mừng, không chỉ giao cho cậu ta dạy dỗ 500 đệ tử, mà còn hứa gả đứa con gái duy nhất của ông cho cậu ta. Kể từ đó, cuộc sống của Ca-La-Ha dần trở nên sung túc, đủ đầy và hạnh phúc. Nhưng Ca-La-Ha, người đang ở trong phúc, nhưng không những không biết đủ mà còn thường xuyên chê bai những bữa ăn do vợ nấu không hợp khẩu vị của mình. Người vợ tốt bụng không một lời phàn nàn, thậm chí còn sẵn sàng học hỏi chế độ ăn uống ở quê hương Ba-la-nại của cậu ta, để làm hài lòng chồng.
Sau đó, Phất-Lô-Hê biết được tung tích người hầu Ca-La-Ha của mình, nên đã lên kế hoạch ra nước ngoài để bắt cậu ta. Vào ngày này, Ca-La-Ha tình cờ đang đi du lịch cùng các đệ tử của mình thì từ xa nhìn thấy Phất-Lô-Hê và nhóm của ông ta đang tiến về phía mình, “Ai da, còn gì tệ hơn nữa” cậu ta hớt hãi không
thôi, vội vàng xua đuổi các đệ tử đi cùng: “Tất cả mọi người mau rời đi, nhanh chóng rời đi”. Ngay sau đó, chính cậu ta đã đến trước mặt Phất-Lô-Hê, đảnh lễ cúi lạy và van xin một cách cay đắng: “Tôi đến đây nói dối rằng ông là cha tôi, để tôi dựa vào quốc sư của đất nước này để học kinh điển, tôi đã cưới con gái của ông ấy, xin đừng tiết lộ bí mật của tôi, tôi nhất định sẽ phụng dưỡng ông trong tương lai”. Phất-Lô-Hê là người chính nghĩa, ông ta cho rằng Ca-La-Ha đã ăn năn nên sẽ không truy xét nữa và còn nói an ủi cậu ta: “Con đúng là con trai của ta!” rồi cùng Ca-La-Ha về nhà. Ngay khi bước vào nhà, Ca-La-Ha đã nói với gia đình rằng họ hàng của cậu đã đến thăm mọi người. Vợ của Ca-La-Ha vui mừng khôn xiết và chuẩn bị đủ loại cao lương mỹ vị để chiêu đãi Phất-Lô-Hê.
Sau bữa ăn, nhân lúc Ca-La-Ha đi vắng, vợ Ca-La-Ha đợi đúng thời điểm, hỏi riêng Phất-Lô-Hê rằng: “Con lo cơm nước ba bữa, phục vụ chồng nhưng anh ấy không hài lòng, mong lão nhân có thể chỉ bảo cho con. Trước đây Da-Nhược-Đạt-Đa thích ăn món gì ở nhà, con sẵn sàng học và nấu cho anh ấy ăn”. Phất-Lô-Hê nhìn thấy tấm lòng chân thành của vợ Ca-La-Ha, khổ sở vì Ca-La-Ha quá kén chọn — ông nghĩ, làm sao một người hầu có thể đối xử với người khác như vậy? Ông ta rất tức giận nên nói với vợ của Ca-La-Ha: “Ta dạy con một phương pháp, nếu như cậu ta còn chê bai thức ăn không ngon, con có thể ở bên cạnh cậu ta thì thầm bài kệ này, con hãy nghe cho rõ :
Vô thân du tha phương khi cuốn
Thiên hạ nhân thô thực thị thường thực
Tế thực phục hả hiềm.
Bài kệ này rất đơn giản :
Một đứa trẻ không có người thân đi đến một nơi khác (nước khác) và lừa dối người trong thiên hạ, nói rằng nó là con của ai, là quý tộc, và ngũ cốc thô anh ăn cũng là thức ăn, vậy thức ăn tinh thì có làm sao? Thức ăn tinh và thức ăn thô có gì khác nhau? Chúng đều là thức ăn cho anh dùng”.
Sau khi tiễn Phất-Lô-Hê, Ca-La-Ha vẫn chứng nào tật nấy và nói với vợ: “Anh không muốn ăn món này, không ngon…”. Cậu ta vẫn kén ăn và tức giận khi dùng bữa. Người vợ không còn lựa chọn nào khác, vì vậy cô ấy đã đọc bài kệ
này một cách bình tĩnh theo phương pháp Phất-Lô-Hê đã dạy. Ngay khi đọc bài kệ, Ca-La-Ha nhận ra rằng vợ đã biết lai lịch của mình, và khuôn mặt cậu ta đầy tức giận, nhưng cậu ta không dám nói nhiều hơn, vì cậu ta sợ vợ sẽ vạch trần danh tính của mình. Kể từ đó, Ca-La-Ha ăn nói khép nép tùy thuận trăm chiều theo vợ mình, không bao giờ dám nổi giận hay chê bai. Câu chuyện này được trích từ “Pháp Uyển Châu Lâm”.
Câu chuyện này muốn nói với mọi người rằng, dùng cách lừa dối để tìm kiếm phú quý tiền đồ cho bản thân, kết quả là lời nói dối bị vạch trần và họ bị những lời nói dối đó kìm hãm suốt đời. Có tin thời sự báo rằng có người đã từng giết người, và ông ta đã xuất gia, để che giấu thân phận của mình, đến khi làm trụ trì rồi, cuối cùng ông ta vẫn không thoát khỏi lưới pháp luật và bị bắt. Trong mấy mươi năm, ông ta bị sự gian dối và những lời nói dối trá kìm hãm lại tâm mình, và không nhận được thanh thản.
Tại sao chúng ta phải học theo Quán Thế Âm Bồ Tát? Quán Thế Âm Bồ Tát có tự tại không? Tự tại, rất an nhàn. Tại sao chúng ta làm người lại phải nói dối lừa gạt người khác, để rồi luôn bị sự dối trá ấy kìm hãm chính bản thân mình? Ngược lại, người vợ của Ca-La-Ha, cô ấy không màng đến sự đối xử vô lý của chồng mà sẵn sàng học hỏi, thay đổi và tiến bộ. Người thứ nhất, Ca-La-Ha tự cho mình là trung tâm, “tôi” muốn đạt được một mục đích nào đó, lừa dối và tạo nghiệp, không biết nhìn lại bản thân và hay chỉ trích vợ mình. Người thứ hai là vợ của Ca-La-Ha bắt đầu từ việc thay đổi bản thân và chân thành với người khác. Xét về bề mặt, Ca-La-Ha, người nói dối về việc sinh ra trong một gia đình quý tộc, dường như đã thành công trong mọi việc, cuối cùng, Phất-Lô-Hê đã tha thứ cho cậu ta và nhận cậu ta là con ruột của mình, cậu ta còn được quốc sư tôn trọng cùng người vợ biết vâng lời, kỳ thật sau lưng cái giá phải trả chính là vĩnh viễn không thể tự do quyết định, không có cái tâm tự tại, bởi vì cậu ta là một người giả dối.
Vì sao Bồ Tát bảo chúng ta học Phật tu tâm đối đãi với người một cách chân thành, những lời chúng ta nói ra đều là chân thật, phải xứng đáng với trời đất. Nếu quý vị giấu những điều dối trá bẩn thỉu, vọng ngữ, đố kỵ và những điều xấu xa khác trong lòng, quý vị sẽ trở thành kẻ tạo ra những lời dối trá bên trong, làm nô lệ cho sự tức giận và sự dối trá suốt đời. Tại sao Sư phụ bảo quý vị học Phật phải chân thành, người học Phật không giống những người khác, người học Phật là phải biết thay đổi chính mình. Bất kể nghịch cảnh hay thuận cảnh, thì
chúng ta phải bình tâm, cho dù làm người hay làm việc gì cũng phải thực sự cầu thị (biết lắng nghe góp ý và thay đổi). Cuộc đời là một quá trình, khi chúng ta kết thúc quá trình này, những người tu thành sẽ gặp nhau ở trên trời, những người không tu thành có thể vẫn ở trong nhân gian, và những người không tu tốt nữa có thể bị đọa xuống làm ngạ quỷ, súc sinh. Hy vọng mọi Phật tử trong thế giới hư vô này – ở giữa cái thế giới mà ý niệm quyết định sau này quý vị là Phật, là Ma hay Tịnh Thổ – tìm được điểm đến tốt nhất cho tương lai, đồng thời đạt đến cảnh giới chinh phục đỉnh cao của Tứ Thánh Đạo.
32. Quán niệm, tịnh niệm, vô niệm
Tập 32
QUÁN NIỆM, TỊNH NIỆM, VÔ NIỆM
(04/04/2020)
Hôm nay Đài trưởng sẽ tiếp tục giảng về Bạch Thoại Phật Pháp với đại chúng.
Điều quan trọng nhất của người học Phật là học buông xả. Nhiều khi nhìn vẻ bề ngoài tưởng như thân buông mà tâm chưa buông, còn nhiều chướng ngại, vì tâm chưa lìa khỏi hồng trần ngũ dục và lục trần. Muốn tâm bất nhiễm, yên tĩnh thì phải có tấm lòng trong sáng. Sau khi hiểu được điều này, thì sẽ hiểu được hữu vi mà vô bất vi, như thế sẽ bước vào không tịch {tức là rỗng không lặng lẽ} và diệu sát trí, điều này tương đương với việc để cho một số: cảnh giác, cảm giác, tập trung, trải nghiệm, thư giãn trên thế gian, và để: hành, trụ, tọa, ngoạ (đi, ở, ngồi, nằm) trong cuộc sống của mình, đều hòa nhập vào ánh sáng của Giác tánh (tánh giác ngộ). Để cả cuộc đời chìm đắm trong ánh sáng của trạng thái giác ngộ, thì quý vị sẽ thoát khỏi đau khổ và đạt được hạnh phúc.
Ở đây, Sư phụ sẽ giải thích ngắn gọn cho quý vị hiểu: “hữu vi mà vô bất vi” là muốn nói với chúng ta rằng làm việc gì đi chăng nữa dù là làm việc thiện, đã học Phật thì không nên để tâm ở chỗ “Tôi đã học Phật, tôi đã làm việc thiện” làm thì xem như chưa từng làm, trong lòng sẽ từ từ buông xuống những gì mà bản thân quý vị đã làm. Lấy một ví dụ đơn giản, nếu quý vị đã từng đối xử tốt với người khác, thì không cần phải giữ điều đó trong lòng, bởi vì người khác sẽ biết ơn quý vị. Nếu ghi nhớ những điều quý vị đã làm cho người khác, thì sẽ chờ người khác báo đáp, nếu không thể nhận được sự báo đáp từ họ, thì trong lòng quý vị sẽ rất đau khổ. Cho nên đừng tập trung vào nó, mà hãy thoải mái khi có thể, mỗi ngày làm việc gì cũng phải hòa vào ánh sáng của Giác tánh, và nghĩ rằng: “việc này, chúng ta nên làm”. Bổn giác là tâm sáng của giác ngộ, chẳng hạn khi một người giác ngộ làm điều gì tốt cho người khác: “Đó là việc nên làm. Giúp đỡ người khác chứng tỏ mình vẫn còn có khả năng”. Đó chính là Giác tánh, không có nghĩa là mình giúp người thì phải đợi người báo đáp. Suốt ngày đợi báo đáp thì quý vị không thể thoát khỏi đau khổ để đạt được hạnh phúc. Vì vậy, chúng ta phải thường quán chiếu ý niệm của mình, đó là “Quan niệm”. Ở đời thường nói “Quan niệm có tốt không, quan niệm có đúng không”, đây chính là sự quan tâm chú ý đến suy nghĩ của mình. Sau đó, quý vị sản sinh ra Chánh niệm và đây chính là những quan niệm đúng đắn về cách đối nhân xử thế của quý vị.
Sự khác biệt giữa người tu hành và người thường là ở chỗ tâm niệm của họ khác nhau. Người học Phật luôn vì người khác, luôn nghĩ làm sao để cứu độ tất cả
chúng sinh, làm thế nào để làm việc thiện mà không để lại danh tiếng, làm sao có được lòng từ bi với tất cả chúng sinh, vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, thay vì suốt ngày làm một việc tốt nhỏ sợ người khác không biết, lại thích khoe khoang. Trên thực tế, đây chính là Minh giác và Minh sát của quý vị. Khi tự mình làm điều gì tốt, thì lập tức giác ngộ “Tôi nên làm điều đó”; trong tâm biết rất rõ, và khi làm điều gì tốt, thì lập tức nhận ra “Tôi không được kiêu ngạo, lẽ ra tôi nên làm điều đó cho người khác”, được gọi là Minh giác Minh sát. Người thường có Minh sát Minh giác, thì Chánh niệm sẽ hiện tiền, sẽ nổ lực quán chiếu bản thân. Quán chiếu bản thân có nghĩa là thường xuyên chú ý đến hành vi của chính mình, điều chỉnh các quan niệm bên trong và bên ngoài của mình. Quan niệm bên trong là gì? Đó là những gì nghĩ trong lòng, những gì người khác không biết, là “Quán” ở nội tại — nghĩa là tự nhìn thấy ở bên trong và sản sinh ra ý niệm. Ví dụ, nghĩ trong lòng: “Tại sao tôi phải tốt với anh ta?” suy nghĩ như vậy là trong lòng có Quán rồi đúng không? Và tiếp đó thì liền sinh ra ý nghĩ: “Tôi không cần thiết phải như vậy” đó được gọi là quan niệm bên trong. Còn quan niệm bên ngoài thì sao? Thấy người này rất đáng thương, rất muốn giúp đỡ họ. Khái niệm bên ngoài lẫn bên trong đều phải được sửa đổi và đúng đắn.
Phàm phu không quan tâm đến cái tâm của họ, và họ không thể kiểm soát được cái tâm của mình. Nhìn bên ngoài thì thấy nên giúp người này, nhưng trong lòng lại nghĩ: “Bản thân mình còn chưa giúp được cho mình tốt nữa”, ý niệm bên trong thay ý niệm bên ngoài, nên việc tốt này không làm được. Vì vậy phải hiểu rằng chúng ta không thể chạy theo những quan niệm thế gian mà gặp sao hay vậy, giống như những con sóng trên biển, thực ra chúng đều ở trong tâm quý vị. Chư Phật Bồ Tát bảo chúng ta phải chú ý đến một số điểm then chốt trong tư tưởng của mình, ghi nhớ cách để có thể điều chỉnh tâm mình: Luôn tự hỏi mình có tham lam không? Mình đã làm sai bao nhiêu việc? Hôm nay đã làm bao nhiêu việc mà mình không nên làm? Đã hận qua bao nhiêu người không đáng hận? Tâm trí có bị phân tán không? Hôm nay đã có tấm lòng bao dung chưa? Hôm nay tâm có tinh tấn không? Hôm nay đã bao nhiêu lần tạp niệm làm ảnh hưởng đến Chánh niệm của mình, và quý vị có dùng quan niệm bên trong của mình để giải quyết nó và giải thoát bản thân khỏi những quan niệm sai lầm của mình không? Vì vậy, Bồ Tát bảo chúng ta phải luôn quan sát nội tâm của mình.
Người tu hành vừa có ý niệm thì phải quan sát ý niệm này, bởi vì ý niệm của mỗi người sẽ phát ra bất cứ lúc nào. Tham, sân, si, suy nghĩ hỗn loạn, hẹp hòi
xuất hiện trong lòng, rồi trở nên bất ổn và không được giải thoát, sự nhận biết phân biệt cũng trở nên hỗn loạn — không phân biệt được đâu là thiện đâu là ác. Nếu một người lúc bình thường có lương tâm tốt, nhưng một khi đã có lòng ích kỷ, hẹp hòi, phóng dật hay tham, sân, si, thì lập tức không phân biệt được việc này là thiện hay ác. Rõ ràng là có thể làm việc tốt và nên làm các việc thiện, nhưng lại nói: “Bây giờ tôi đang tu sửa cho bản thân mình, bản thân tôi chưa tu tốt thì làm sao tôi có thể giúp đỡ người khác?” Ngay lập tức, đã dập tắt thiện niệm của mình và không thể kiểm soát được tà niệm của mình, sau một thời gian dài, thì những suy nghĩ xấu sẽ theo bên mình. Vì vậy, chúng ta phải loại bỏ những suy nghĩ ô uế và biến chúng thành những suy nghĩ trong sáng — là những suy nghĩ trong sạch. Chúng ta phải ngăn chặn bất kỳ tâm thức bất thiện nào — là nhận thức trong lòng. Nếu nhìn thấy một cụ già đi xin ăn trên đường, hoặc xin vài xu, hay bạc cắc, nếu là người tốt, thì người đó sẽ nghĩ “Ôi, thật đáng thương”, đó chẳng phải là một việc làm tốt hay sao? Nhưng có người không kiểm soát được ý niệm của mình, nảy sinh ý thức bất thiện trong lòng: “Người này chắc chắn là không chăm chỉ làm việc, bằng không thì do uống rượu, hay hút chích nên mới như ngày hôm nay. Vậy thì mình cho họ làm chi? Mình cho họ rồi nói không chừng xin được ít tiền này lại đi làm điều xấu”. Tâm thức đã thay đổi, nên hành vi lương thiện sẽ theo đó mà biến mất.
Việc dừng lại và quán chiếu mỗi ngày chính là tu hành. Một hành động, một quan niệm, hay nhìn thấy một sự việc nào đó đây cũng chính là đang tu hành . Suy nghĩ theo chiều hướng tốt thì quý vị chính là người tốt; suy nghĩ theo chiều hướng xấu thì quý vị chính là người xấu. Vì vậy phải tịnh hóa tâm linh, có nghĩa là thanh lọc tâm hồn bên trong của mình, thanh lọc suy nghĩ và tâm thức của bản thân. Con người chúng ta có khi trong một niệm, một (ý) thức, hay một khoảnh khắc thôi thì trong đầu óc chúng ta có muôn ngàn thay đổi, vừa muốn làm một việc tốt thì liền nghĩ: “Không, không, thêm một việc không bằng bớt một việc, lỡ có người vu khống mình thì sao?” Loại suy nghĩ này trong phút chốc có thể khởi lên hàng vạn tạp niệm, tạp niệm tung hoành, ngàn vạn biến hóa, và quý vị sẽ mất đi thái độ và quan niệm bình thường của mình về mọi thứ, vì vậy nó được gọi là “mất đi trạng thái bình thường”. Một người bình thường không cãi nhau, tại sao khi cãi nhau lại mất bình tĩnh và mắng chửi người khác? Bởi vì họ đã mất đi trạng thái bình thường. Trạng thái bình thường là gì? Đó là một tâm thái bình thường. Do đó, nhiều người không có tâm thái bình thường thì có nhiều suy nghĩ lung tung. Khởi tâm động niệm sinh sinh diệt diệt trong
“tam thiên đại thiên thế giới”, một hồi có thiện niệm, một hồi lại biến mất; một hồi có tạp niệm, một hồi lại biến mất…luôn trong sự sinh diệt không ngừng. Tại sao đạo Phật nói rằng con người chúng ta nhất thiện niệm là Phật, nhất ác niệm là ma? Chính là nó luân hồi trong sinh diệt không ngừng, cho nên khởi tâm động niệm không dứt. Nếu quý vị kết bạn với một người, người đó đang ngẩn ngơ, quý vị hỏi: “Cậu đang nghĩ gì vậy?” Chỉ cần người kia nói với quý vị: “Tôi không nghĩ gì cả” thì người đó đang nói dối, bởi vì suy nghĩ của con người là thay đổi trong vô lượng sinh diệt.
Đức Phật đã dạy chúng ta từ xa xưa rằng tâm niệm sinh diệt của con người rất hay thay đổi, chúng ta phải dùng tâm để điều khiển động, nghĩa là khi ý niệm, tạp niệm từ trong tâm của quý vị nảy sinh, quý vị cũng nên dùng tâm để ngăn chặn những suy nghĩ này. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị vừa muốn cãi nhau ở nhà, nhưng quý vị lại nghĩ: “Không được cãi nhau, bây giờ không được cãi nhau, nếu mình cãi nhau lúc này, thì trông mình không giống một người học Phật. Trước đây có thể cãi nhau, bởi vì mình chưa học Phật, và cảnh giới của mình không cao; bây giờ mình đã học Phật rồi, thì mình không thể cãi nhau nữa, và mình phải tôn trọng người khác”. Có phải ý nghĩ xấu xa về “cãi nhau” của quý vị đã được sinh ra trong tâm quý vị không? Vậy thì tâm “không tranh cãi” của quý vị không phải là cũng được sinh ra từ trong tâm quý vị sao? Năng lượng tích cực trong tâm là dùng để trấn áp năng lượng tiêu cực sinh ra trong tâm, chẳng phải là dùng tâm để điều khiển “động” của quý vị sao? Vì vậy gặp bất cứ sự việc gì tâm cũng phải tịnh, thì mới điều khiển được nhiễm (yếu tố bên ngoài xâm nhập vào). Trị nhiễm bằng tâm thanh tịnh có nghĩa là làm cho tâm tĩnh lặng và trong sạch thì tạp nhiễm sẽ bớt đi. Một người không tham lam, tâm của họ rất tĩnh lặng trong sạch, thì tạp nhiễm của họ ở đâu ra? Người khác nói bên ngoài rất tốt, “Tôi mặc kệ”, thứ này tốt, ai cũng mua, “Không sao, tôi đủ rồi, tôi chỉ thế này thôi”, người như vậy là người không bị ô nhiễm, vì vậy “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” là cái đạo lý này.
Trên thế gian nhiều người thường tham, sân, si. Văn hóa truyền thống Trung Hoa nói rằng “Mệnh lý hữu thì chung tu hữu, mệnh lý vô thì mạc cưỡng cầu”. Mặc dù một số người không học Phật, nhưng họ biết rằng “Ngày hôm nay mình có rồi, và những gì của mình thì nhất định là của mình, cái gì không phải của mình có cương quyết cầu cho bằng được đi chăng nữa thì cuối cùng cũng sẽ mất đi”. Vì vậy, đừng cưỡng cầu những thứ không thuộc về mình. Những thứ không thuộc về mình thì không phải là của mình, nhất định phải học cách từ bỏ đúng
lúc. Có rất nhiều thứ phải học cách từ bỏ, từ bỏ là một loại trí tuệ, không tham lam là một loại trí tuệ.
Đôi khi chúng ta lo lắng hết sức, chúng ta sẽ đạt được những gì chúng ta đã từng muốn, nhưng không đạt được. Quý vị dùng bộ não của mình: Tôi phải có được nó, tôi chắc chắn rằng tôi thích nó…, tôi chỉ thích ngôi nhà này, chiếc xe này, hay bất kỳ vật chất hay con người nào trên thế gian… Nếu không có được nó, thì quý vị muốn có cho bằng được; nếu quý vị từ bỏ nó, không cần nữa, thì ngược lại quý vị lại có được nó. Quý vị cố gắng hết sức để có được nó, nhưng cuối cùng cũng sẽ mất đi. Đây chính là điều mà trên thế gian này những gì thuộc về mình thì sẽ là của mình, vì vậy chúng ta phải học cách từ bỏ, đó là một loại trí tuệ.
33. Hành thiện nhược thủy, hành nguyện nhược sơn
Tập 33
HÀNH THIỆN NHƯỢC THỦY. HÀNH NGUYỆN NHƯỢC SƠN
(04/04/2020)
Thử nghĩ xem, từ nhỏ đến bây giờ quý vị đã từ bỏ bao nhiêu thứ rồi? Buông bỏ rồi thì quý vị sẽ nhẹ nhõm, không muốn nữa thì tâm quý vị sẽ yên định, nếu vẫn còn nghĩ đến, vậy thì quý vị vẫn chưa buông bỏ được. Nếu có thể buông bỏ đúng lúc, thì loại trí tuệ này có thể khiến quý vị quan sát tiềm lực ẩn bên trong con người mình sáng suốt hơn. Sau khi buông bỏ, quý vị sẽ có sức mạnh nội tâm và có khả năng đối phó với các nhân tố bên ngoài. Lấy một ví dụ đơn giản: Mọi người đều đang tranh chức vị đó, còn quý vị lại nói “Tôi không sao hết, tôi không tranh chức vị đó đâu”, khi mà quý vị không tranh thì quý vị sẽ có một loại sức mạnh, bởi vì quý vị không cùng người khác tranh, quý vị sẽ không buồn, cũng không sợ hãi, và cũng sẽ không cảm thấy người khác đang tạo ra càng nhiều sự cản trở cho quý vị, hoặc là người khác đang đố kị với quý vị, như vậy là quý vị đã buông bỏ. Sau khi buông bỏ thì chính là tùy duyên, tâm vô quái ngại (không vướng mắc), đối với nhân tố ngoại cảnh, cũng có thể đạt được sự bình an từ trong nội tâm một cách vô cùng tự nhiên, đôi khi có thể khiến thân tâm mệt mỏi của quý vị trong phút chốc được điều chỉnh, để có thể trở thành một người vui vẻ và có trí tuệ sáng suốt. Có rất nhiều người rời xa phiền não, thì liền biến thành người có trí tuệ sáng suốt, có một số người vẫn còn trong phiền não không thoát ra được, thì mãi mãi không có được trí tuệ sáng suốt.
Chúng ta có lúc kiên trì trong mù quáng, không được lý trí trong việc buông bỏ, rõ ràng là nên bỏ những thứ đó đi, nhưng chúng ta lại không có lý trí, không thể buông bỏ được, ngày ngày đau khổ, khó chịu. Khổ cực để giữ lại người và sự việc trong quá khứ, đó chính là một người ngốc. Người trong quá khứ đã đi rồi thì không còn nữa, những đồ vật mà quý vị đã từng sở hữu, khi đã qua rồi thì cũng sẽ không còn nữa. Tất cả rồi cũng sẽ qua đi, giống như hôm nay có một chiếc xe ôtô, quý vị xem chiếc xe này là xe ôtô cũ đã qua sử dụng và bán nó đi, khi mà quý vị đi trên đường nhìn thấy có người lái chiếc xe ôtô cũ này, quý vị còn luyến tiếc “đây là xe ôtô của tôi” nữa không? Đã bán đi rồi thì cũng đã bán đi rồi, đã không còn nữa thì cũng không còn nữa, thế giới này chính là như vậy. Trong một khoảng thời gian dài nếu như bản thân quý vị vẫn còn cảm xúc tổn thương về người, sự việc và những khoảng thời gian đẹp đẽ mà quý vị đã từng có được, thì người này chính là người ngu xuẩn, ngu si chính là do như vậy đó. Người mà mỗi ngày đều ở trước mặt quý vị nói rằng: “Tôi của quá khứ tốt như thế này, tôi của quá khứ tốt như thế kia”. Vậy thì người này vẫn chưa buông bỏ được, khi nhắc đến quá khứ mà còn khóc lóc, còn lưu luyến không nỡ, thực sự
ra họ là người còn chưa buông bỏ được. Người mà không nỡ buông bỏ, chỉ có tăng thêm sự đau thương và vì vậy sẽ thường dễ mất đi những thứ quý giá ở hiện tại. Cho nên, tùy duyên chính là cho bản thân cơ hội tốt nhất. Hôm nay không sao cả, tuỳ duyên rồi thì sẽ có cơ hội. Học cách buông bỏ là một loại trí tuệ, học cách buông bỏ mới có thể đạt được càng nhiều sự thành công.
Có rất nhiều người vì lợi ích trước mắt, theo đuổi danh lợi ở thế gian “cái danh này tôi muốn, cái lợi này tôi cũng muốn” dần dần sẽ bị cái xã hội này làm cho quý vị biến thành nông nổi, biến thành vô cùng tham lam và khiến con người quý vị trở nên ngày càng ích kỷ, dần dần biến thành người khác mà ngay chính bản thân mình cũng không nhận ra mình — “Tại sao tôi lại có thể tham lam như vậy?”
“Thượng thiện nhược thủy”, lương thiện chính là cao thượng, từ bi vô lượng có thể tạo ra năng lượng vô tận, lương thiện có thể khiến cho quý vị sản sinh ra năng lượng vô tận. Vì vậy người đi giúp đỡ người khác thì họ đối với toàn xã hội, đối với lương tâm của chính mình, đối với người khác đều sẽ sản sinh ra một loại hy vọng. “Thượng thiện nhược thủy”, sự lương thiện lớn nhất chính là trong tâm mình tạo ra. Sự tồn tại trong tự nhiên mà ngoan cường nhất, có trí huệ nhất là cái gì? Đó chính là nước. Có người nói: “Khoái đao trảm thủy thủy chiếu lưu”, “Tôi có thể đem sự dịu dàng thanh tịnh của dòng nước để lau sạch linh hồn ưu phiền đau thương của bạn”, “Tôi có thể dùng sự thuần khiết của cam lộ để tưới lên những đau khổ bi thương của bạn”. Bình nước cam lộ trong tay Đức Quán Thế Âm Bồ Tát vẩy một chút ít cho chúng ta, tiêu trừ ngàn điều ưu phiền vạn điều đau khổ của chúng ta, để cho chúng ta thoát khỏi phiền não, khiến cho chúng ta học được cách lìa khổ được vui. Trạng thái của một người tốt nhất nên tùy duyên giống như nước. Quý vị nhìn nước xem, đem đặt nó ở đâu thì nó ở đó, nó đều tùy duyên.
Trong xã hội này có nhiều thứ rất khó thay đổi, nhưng mà chúng ta có thể thay đổi bản thân, để thích nghi cái xã hội này, nhưng năng lượng tích cực trong nội tâm của chúng ta phải giữ sao cho không bị xã hội này bào mòn. Thái độ của chúng ta đối với ngũ dục lục trần trên thế gian này là do trong tâm chúng ta có 1 cái cân, biết điều gì là thiện, điều gì là ác, nên có thể dùng lòng bao dung để thấu hiểu người khác thay vì dung túng bao che cho họ làm chuyện xấu. Chúng ta không ép buộc bất kì ai phải hiểu chúng ta, bởi vì bản thân chúng ta là người hiểu rõ nhất chúng ta đang làm cái gì. Chúng ta có lý trí, có trí tuệ của Bồ Tát, vì vậy hỷ nộ ái lạc (buồn vui hờn giận) không thể ở trong tâm chúng ta được,
cái xã hội trong thế gian này, biến đổi rất nhanh, nó không thể đứng yên lại. Sư phụ nói với các con, trí huệ là căn nguyên của cuộc sống, nhưng cao hơn cuộc sống; Phật Pháp là căn nguyên của chúng sinh, nhưng lại cao hơn chúng sinh. Hy vọng mọi người có thể học Phật cho thật tốt, có thể hiểu được, ở trên xã hội này, gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy. Chúng ta gieo nhân gì, thì sẽ nhận lấy quả báo như vậy. Có rất nhiều người hỏi Sư phụ “nhiều người có danh lợi là họ đã gieo nhân gì mới có được?”, Sư phụ nói đơn giản cho quý vị hiểu là, gieo nhân bố thí tài, thì sẽ nhận được quả báo là giàu sang. Đặt ví dụ đơn giản: Quý vị đối xử tốt với họ, có phải là họ cũng sẽ giúp đỡ lại quý vị không? Đã từng ở trong hoàn cảnh khi mà người khác đang khó khăn, quý vị bố thí tài, quý vị đi giúp họ, đợi đến khi họ tốt lên rồi, người đầu tiên họ sẽ nghĩ đến chính là quý vị. Có rất nhiều câu chuyện không hiếm gặp như thế này ở trong xã hội. Nếu như quý vị gieo nhân bố thí pháp, đi giúp người khác, đi cứu độ chúng sinh, thì sẽ nhận được quả báo là thông minh, trí tuệ. Có rất nhiều người hỏi: “Tại sao bạn thông minh đến như vậy? Tại sao bạn lại có trí huệ đến như vậy?” Bởi vì tôi đã bố thí pháp. Quý vị thử nghĩ xem, khi mà quý vị bố thí pháp giúp đỡ người khác, quả báo trí tuệ chẳng phải là đã trổ ra rồi sao? Một người có thể giúp được người khác như vậy họ có trí tuệ không? Họ không trí tuệ, thì làm sao mà họ có thể giúp người khác? Vậy trí tuệ của người đó từ đâu mà có? Chính là không ngừng đi giúp cái này, đi giúp cái kia, trong quá trình giúp người khác, bản thân có được sự trải nghiệm nhiều hơn, khiến bản thân được ích lợi, từ đó sản sinh ra rất nhiều trí tuệ để có thể đi giúp nhiều người hơn. Gieo nhân bố thí vô úy sẽ nhận được quả báo là sức khỏe tốt, sống lâu. Có rất nhiều phụng sự viên (các đồng tu làm công quả ở Quan Âm Đường, ở Pháp hội của thầy …) họ suốt ngày thích giúp đỡ người khác, giúp nấu cơm, mua thức ăn, lặt rau củ quả chạy tới chạy lui giúp đỡ mọi người, họ trồng loại nhân này thì họ được sống thọ. Làm việc gì họ cũng vui vẻ, họ mạnh khỏe. Niệm Phật là nhân, quý vị gieo trồng nhân học Phật
— niệm kinh, niệm Phật, vì vậy thành Phật chính là quả của quý vị. Vì vậy muốn thành Phật thì phải gieo nhân Phật, gieo nhân nào thì sẽ gặt quả đó. Đây chính là chân đế của người học Phật.
Chúng ta học Phật làm người, phải dùng tâm bình thường để sống: “Sao cũng được, đây đều là bình thường”, người này không vui, “không sao, chúng ta đối xử tốt với người đó một chút” người này có ý kiến gì đó, “không sao, chúng ta có thể tùy duyên”. Dùng tâm hổ thẹn để đối xử với người khác: “tôi rất hổ thẹn khi không thể giúp gì được cho người đó. Tôi làm còn chưa tốt, người đó đối với tôi rất tốt, mà tôi chưa có gì báo đáp lại cho họ cả” đối xử tốt với người ta, thì người ta nhất định sẽ rất mến quý vị, dùng tâm hổ thẹn để mà làm người.
Dùng tâm Bồ Đề để xử thế: Ở trên thế giới này, tại sao người ta lại mến quý vị? Bởi vì quý vị có tâm Bồ Đề. Chỉ suy nghĩ cho người khác, rất ít khi suy nghĩ cho bản thân, chỉ suy nghĩ tới giúp đỡ người khác, làm sao để giúp cho người khác thoát khỏi khổ nạn, người như vậy chính là có tâm Bồ Đề. Vì vậy ở trên thế giới này biết cách đối nhân xử thế, người khác làm sao mà không mến quý vị cho được? Mỗi ngày đều nhìn thấy chỗ sai, thị phi, khuyết điểm của chúng sanh — Một số người đều nhắm vào khuyết điểm của người khác, nói người này rất đáng ghét, nói người kia rất ích kỉ, vậy thì người này cơ bản là chưa tu tốt… mỗi ngày đều nghĩ tới chỗ sai và thị phi của người khác, vậy thì quý vị phải nhanh chóng sám hối, bởi vì quý vị đã đi sai hướng và sự tu hành của quý vị chưa đủ. Khi trong tâm quý vị còn có những phiền não, sai lầm, thị phi và đố kị người khác, thực ra là quý vị đang gánh nghiệp cho họ rồi, bởi vì ở sâu trong tâm quý vị, thực ra đã chứa những thứ đố kị, thị phi và những ý niệm dơ bẩn. Cho nên đừng nhìn người khác theo chiều hướng xấu thì như vậy mới chứng tỏ quý vị là trong sạch. Hôm nay, nếu như quý vị sống nhưng quý vị chỉ nghĩ tới ưu điểm của người khác, chỉ muốn đi giúp đỡ người khác thì quý vị làm sao có thể ghét và hoài nghi người khác được? Đây chính là một niệm thành Ma, một niệm thành Phật.
Trên cơ thể con người có 3 loại bệnh, Phật Bồ Tát chính là “Đại Y Vương” Bác sĩ đến giúp chúng ta, giải quyết phiền não tinh thần của chúng ta, trị tâm bệnh cho chúng ta. Bệnh cơ thể đa phần đều là tâm bệnh. Có nhiều bệnh rất quan trọng, bệnh nặng đều là do tâm mà ra. Người mà trong tâm nghĩ thông, không dễ mắc bệnh ung thư; người mà tâm buông bỏ không được, rất dễ bị tổn thương bên trong. Bởi vì có liên quan tới kiếp trước, đôi khi bệnh do túc nghiệp tạo thành sẽ rất khó trị. Ví dụ: Kiếp trước quý vị đã hại qua người khác, thì trong kiếp này quý vị không ngừng bị tai nạn giao thông, tai nạn, bệnh truyền nhiễm, có rất nhiều người từ nhỏ đã mắc bệnh di truyền rồi, những bệnh đó thực tế là do túc nghiệp mà ra. Vì vậy tại sao lại kêu mọi người nhanh chóng niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn? Ngày ngày niệm, ngày ngày sám hối, lúc nào cũng niệm, lúc nào cũng sám hối, thì sẽ giúp cho nghiệp của quý vị từ nghiệp lớn thành nghiệp nhỏ, nhỏ thành không, tai nạn sẽ dần dần biến mất. Còn có một việc quan trọng, một người muốn tiêu trừ bệnh túc nghiệp do kiếp trước, không muốn bản thân bây giờ chịu báo ứng thì nhất thiết phải phát rộng tâm Đại Từ Bi.
34. Tự tánh bất mê, chúng thiện phụng hành
Tập 34
TỰ TÁNH BẤT MÊ. CHÚNG THIỆN PHỤNG HÀNH
(04/04/2020)
Quán Thế Âm Bồ Tát hàng ngày làm gương cho chúng ta, mong rằng chúng ta hiểu và có được tâm Đại Từ Bi. Ở thế gian này, không những chúng ta nên phát tâm đại bi, đại nguyện ngay bây giờ mà còn phải siêu độ những ân oán từ kiếp trước. Bất luận chuyện gì, cho dù không muốn siêu độ, thì cũng phải học cách siêu độ, đồng thời cũng phải học cách biết ơn. Bởi vì họ cho chúng ta biết, nghiệp chướng của một người không phải chỉ trong một kiếp này là có thể tiêu trừ hết được. Họ đã cho chúng ta biết, trong kiếp này chúng ta không nên tạo nghiệp nữa, bởi vì nghiệp chướng trong kiếp trước còn chưa trả hết được. Cho dù gặp bất cứ điều gì, chúng ta đều phải học cách có lòng biết ơn.
Con người còn có một loại bệnh, đó là bệnh tổn thương tâm lý. Tình cảm của chúng ta rất dễ bị tổn thương, bởi vì người khác không hiểu mình và chính mình cũng không hiểu người khác, cả hai điều này đều khiến cho bản thân bị tổn thương. Rất nhiều những bệnh tật, đố kị, sân hận, tham ái, si mê đều có thể gây cho chúng ta những tổn thương tâm lý. Người có lòng đố kị càng lâu ngày thì trong lòng họ càng thêm đau khổ, nếu thường hận người thì mắt càng ngày càng khô, lòng đau như cắt. Tất cả điều này đều liên quan đến thân thể của quý vị. Bồ Tát nói với chúng ta rằng nếu một người muốn thoát khỏi những tổn thương ở bên trong mình, thì tốt nhất là không làm các điều ác. Sư phụ nói với mọi người rằng chúng ta không chỉ không làm mọi điều ác (chư ác mạc tác), mà chúng ta còn phải không nên nghĩ về mọi điều ác (chư ác mạc tưởng) và sau đó thực hiện mọi việc thiện (chúng thiện phụng hành). Thân có bệnh thì uống thuốc, nhưng bệnh mà do tâm lý bị tổn thương thì phải học đừng nghĩ điều ác, mà phải hành mọi điều thiện.
Còn một loại bệnh ở con người, đó là ngoại cảm (ngoài cảm). Bị phong hàn, ẩm ướt, nóng nực mùa hè từ bên ngoài — tức là bệnh cảm lạnh, bệnh nhiệt, phong hàn. Những căn bệnh này là ảnh hưởng của thế giới bên ngoài đối với quý vị. Thực ra những bệnh này có thể xử lý được, bởi vì trời lạnh thì mặc thêm quần áo, nóng thì mặc ít và chú ý nhiệt độ cơ thể – duy trì nhiệt độ nhất định. Nhưng khó khăn nhất là những cảm nhận từ bên ngoài, những lời nói bên ngoài, những chuyện buồn phiền do bên ngoài mang đến cho quý vị mà khiến cho hệ miễn dịch của quý vị bị suy yếu. Bởi vì quý vị tức giận, vì quý vị chấp nhận những thứ sắc dục xấu xa đó, ăn chơi cờ bạc, học được những ý nghĩ xấu xa rồi vậy thì khiến khả năng miễn dịch của quý vị sẽ bắt đầu suy giảm, suy nghĩ của quý vị sẽ bắt đầu sai lầm và mắt quý vị sẽ không dám nhìn người, từ một đứa trẻ ngoan bị trở thành suy đồi. Đây chính là ngoại cảm (ngoài cảm).
Những bệnh này nên điều trị như thế nào? Trước hết, phải biết quản lý lục căn và khống chế lục trần của bản thân, dần dần học ăn chay, niệm kinh, phát nguyện và phóng sinh. Quyển “Hoàng Đế Nội Kinh” nói rằng, bất cứ ai bị bệnh nên chấm dứt tà dục. Nếu sắp bị bệnh nặng, hoặc đã bị bệnh, thì không được tà dâm, và còn phải không được sát sinh. Nhất định phải giữ giới, bởi vì không đụng chạm đến những thứ đó là đang gieo trồng căn lành. Nhiều người không hiểu, nghĩ rằng nếu mình giữ giới và không ăn thịt, thì mình chẳng được gì và cũng chẳng mất gì. Trên thực tế, thì quý vị đã mất đi những thứ gì? Đã mất đi cơ hội hội kết ác duyên với người khác. Quý vị đã nhận được những gì? Nhận được công đức của việc kết thiện duyên. Do đó, quý vị đã gieo trồng những căn lành trong trường thức thứ tám của mình. Chúng ta phải hiểu rằng trong khi niệm Phật mà còn làm điều ác vậy thì sẽ tạo nghiệp lớn. Nếu hôm nay quý vị đã niệm Phật rồi mà vẫn còn làm ác thì đó là đang tạo nghiệp lớn đấy. Phải tránh được tai họa và tiêu trừ nghiệp chướng mới là điều quan trọng nhất.
Khi con người có tâm trạng không tốt, họ luôn muốn trò chuyện với người khác. Người học Phật thì trì tụng kinh, trò chuyện với những người bạn Phật tử, hoặc xem một số vở hài kịch để điều chỉnh lại những tâm tư và thay đổi tâm trạng của bản thân. Có người thì họ hy vọng có thể giao tiếp nhiều hơn với một số người có năng lượng tích cực, để điều chỉnh cảm xúc và xoá đi nỗi buồn trong lòng của mình. Trong tâm lý học cũng đề cập đến, con người có một số Pháp hỷ bắt nguồn từ trái tim của họ. Ví dụ, quý vị nghĩ đến những việc mà quý vị sẽ giúp đỡ người khác trong tương lai, hoặc việc gì đó mà quý vị đã từng được người khác giúp đỡ, khi quý vị mỉm cười, các dây thần kinh trên cơ mặt sẽ đưa loại sóng điện não đó đến đại não — những thông tin vui vẻ đó, khiến tâm trạng của quý vị sẽ có cảm giác đặc biệt tốt. Cho nên người học Phật là như vậy, khi giúp đỡ người khác thì quên đi phiền não của mình và nhận được Pháp hỷ từ người khác. Sự tôn trọng của người khác dành cho quý vị sẽ tạo nên cảm giác hưng phấn từ dây thần kinh não bộ của quý vị. Khi quý vị có thể giúp đỡ người khác và lúc họ tỏ lòng biết ơn, quý vị rất dễ nhận được sự lan toả và sức ảnh hưởng từ lòng biết ơn của họ, khiến cho bản thân cũng trở nên rất hạnh phúc. Vì vậy, người mà thường có thể đi giúp đỡ người khác thì trong lòng rất hạnh phúc. Đức Phật Di Lặc đã giúp đỡ người khác và khiến họ tràn đầy Pháp hỷ. Lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, sự kế thừa Phật Pháp và giới luật của Đức Phật vĩ đại, khiến chúng có thể dung hoà với nhau sẽ trở thành một loại năng lượng tích cực sâu thẳm trong nội tâm của chúng ta.
Sư phụ hy vọng quý vị phải nỗ lực học Phật và tu tâm để thay đổi Tự ngã và sự vô minh trong tâm. Hy vọng mọi người cố gắng chăm chỉ. Khi học Phật, chúng ta phải dụng tâm, phải tránh xa điên đảo mộng tưởng, sống trong thực tại, xả bỏ tham, sân, si, mạn, nghi, quá mức của bản thân, có như thế chúng ta mới có thể giống như một đóa hoa, từ trong nội tâm tạo ra được những năng lượng tích cực của hoa sen Bát Nhã và loại bỏ năng lượng tiêu cực, chúng ta mới có thể thoát ra khỏi những bế tắc và mở ra một tương lai tốt đẹp hơn.
Dưới đây thầy sẽ kể một câu chuyện cho mọi người nghe. Một lần, Đức Phật trở về quê hương thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) để du hành cứu độ chúng sinh và tạm trú tại vườn cây Ni Câu Đà (Nyagrodha) ở phía nam kinh thành. Cư sĩ Ma Ha Nam (Mahanama), em họ của Đức Phật, vào ngày này đến lễ kiến Đức Phật và nói với Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, nay kinh thành Ca Tỳ La Vệ của chúng con sản vật phong phú, dân cư đông đúc và thịnh vượng. Con ra vào đây mỗi ngày, xung quanh con thường có voi ngựa chạy băng băng, con người thì đấu đá bừa bãi và xe chạy rầm rập qua lại, con thường nghĩ rằng một ngày nào đó, con sẽ bị những con vật chạy như điên hay xe cộ đang chạy này tông chết, mà trước khi chết con đã hoảng hồn và quên niệm Phật, niệm Chánh Pháp, niệm Tăng già. Nên con lo lắng, nếu chết như thế này thì không biết kiếp sau con sẽ đọa vào cõi nào và sinh về đâu?” Đức Phật bảo ông: “Này Ma Ha Nam, con không cần sợ hãi, sau khi chết con sẽ sinh vào chỗ tốt lành, sẽ không bị đọa vào ba đường ác, cũng không bị quả báo xấu, điều này cũng giống như một cây đại thụ, nếu nó mọc về hướng đông khi còn non, thì khi lớn lên nó cũng sẽ mọc về hướng đông. Nếu ai đó dùng rìu chặt cây này, thì con nghĩ nó sẽ đổ về hướng nào?”. “Bạch Đức Thế Tôn, tất nhiên nó sẽ đổ về hướng đông”. “Này Ma Ha Nam, và con cũng vậy. Điều đó giống như ai đó ném một chai chứa đầy bơ xuống hồ nước sâu. Tất nhiên cái chai sẽ chìm xuống đáy nước, nhưng bơ trong cái chai đó cuối cùng sẽ nổi lên trên mặt nước. Ma Ha Nam, trong một thời gian dài, con đã niệm Phật, niệm Chánh Pháp, niệm Tăng già, dù thân thể của con sau khi chết có bị hỏa táng, hay bỏ nơi nghĩa địa, mặc cho quạ, đại bàng, chó hoang, linh cẩu ăn thịt, dù cho gió thổi hay phơi nắng hay ngấm nước mưa, theo thời gian, thân con có thể thành cát bụi, nhưng tâm hồn con thông qua một quá trình lâu dài đã gây dựng được sự tín ngưỡng, giới hạnh, lắng nghe và suy nghĩ cũng như sự bố thí và trí tuệ một cách kiên cố và vững chắc, sẽ khiến tâm hồn con thăng hoa và bay đến một nơi bình yên và tươi đẹp”.
Đừng cố chấp vào kết quả, chỉ khi đó mới thực sự hiểu được ý nghĩa thực sự của đạo Phật. Đức Phật đã nói với chúng ta rằng đó là một hiện tượng. Chúng ta
cần hiểu rằng vũ trụ là một tổng thể, rất phong phú và chứa đựng sức sống vô hạn. Xác thân con người cuối cùng sẽ bị hủy hoại, nhưng trạng thái tinh thần sẽ không bị hủy hoại. Chúng ta từ nhỏ đã làm người tốt việc tốt, cuối cùng nhất định sẽ đi đến nơi tốt đẹp. Cũng giống như một cái cây, từ nhỏ mọc theo hướng đông, dù có đổ thì cũng sẽ đổ về hướng đông. Sự tu tập của chúng ta là nghiêm khắc trau dồi tâm Bồ Đề của chính mình, nghĩa là tìm thấy Phật tánh trong thức thứ chín của chúng ta, Amala Thức, và để phù hợp với những suy nghĩ khác nhau trong trường thức thứ tám có như vậy chúng ta mới có thể hợp nhất với Phật, mới có thể đạt được trí tuệ của Bồ Tát, vĩnh viễn không lìa Phật đạo của Bồ Tát.
Qua câu chuyện này mong mọi người hiểu rằng chỉ cần chúng ta hết lòng và nỗ lực thì sẽ có ngày được siêu thoát. Phật không xa người là người xa Phật: Phật không có rời xa chúng ta, chỉ có chúng ta rời xa Phật. Chư Phật, Bồ Tát hàng ngày đều nói với chúng ta rằng tức tâm tức Phật: tâm quý vị như Phật, thì Phật ở trong tâm quý vị, hành vi của quý vị như Phật, thì Phật ở trên thân quý vị, ngôn ngữ của quý vị như Phật, thì Phật ở trong miệng quý vị. Vì con người đánh mất tự tánh, đánh mất phương hướng, mà bản thân cũng không biết đến điều đó, nên là “người xa Phật” rồi, nhiều người không tìm được Phật. Học Phật phải kiến tánh, người không nhìn thấy bổn tánh thì không tin vào Đức Phật. Người mà thấy được bổn tánh thì được xem là Phật: sau khi chúng ta lý giải và biết đến Phật Pháp thì mới có thể tin tưởng và thoát ra khỏi nơi hồng trần nhân gian, bước vào con đường Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Đức Phật.
Được rồi, hôm nay《Bạch thoại Phật pháp》giảng cho đại chúng xin tạm dừng tại đây, và chúng ta sẽ gặp lại vào tiết mục lần sau. Cảm ơn đại chúng.
35. Bất nhập danh tướng. Nhược kiến tánh giả
Tập 35
BẤT NHẬP DANH TƯỚNG. NHƯỢC KIẾN TÁNH GIẢ
(08/04/2020)
Hôm nay tiếp tục giảng về《Bạch Thoại Phật Pháp》cho đại chúng.
Phật tử khi học Phật niệm kinh, đầu tiên là phải dùng tâm, tâm là quan trọng nhất, niệm mà không dùng tâm thì rất khó có được cảm ứng. Có rất nhiều người niệm kinh, khi ngậm miệng lại thì “nua nua nua …”. Họ không dùng tâm để niệm, thì lực cảm ứng sẽ không đủ. Mỗi khi niệm một biến kinh, tâm của quý vị sẽ nhận được sự cảm ứng của Bồ Tát, vì vậy niệm kinh chính là niệm tâm, trong cuộc sống hàng ngày chúng ta làm người cũng vậy, phải dùng tâm. Niệm kinh mà không dùng tâm cũng giống như đặt sách kinh bên cạnh, như vậy quý vị rất khó để có được cảm ứng, bởi vì sách kinh không dùng tới, quý vị cũng không mở nó ra đọc; Khi quý vị niệm kinh phải dùng tâm để niệm thì mới có được cảm ứng. Người trì kinh dùng tâm, tức là khi ý niệm “tôi muốn niệm kinh” khởi lên, thì tâm của quý vị đã bắt đầu chuyển động, và cái chuyển động này chính là động tâm Phật, ý niệm Phật. Động tâm Phật là tâm gì? Là tâm Vô Tướng Vô Danh. Bởi vì khi đang niệm kinh thì người ta không chấp tướng, trong tâm không có bất kì nhu cầu nào, tâm vô cùng tĩnh lặng, vì vậy niệm kinh chính là niệm tâm. Nếu như mắt nhìn ngó xung quanh trong khi miệng đang niệm kinh, thì biến kinh mà quý vị vừa niệm ra sẽ có hiệu quả kém xa. Hy vọng mọi người nhất định phải hiểu, không chấp trước vào danh tướng. Khi quý vị không còn chấp trước vào danh tướng nữa, thì sẽ vô cùng thanh tịnh. Chúng ta không vì danh mà cũng không vì lợi, không còn chấp trước về danh tướng nữa thì có phải chúng ta rất cao thượng không? Rất sạch sẽ, giống như một đóa hoa sen đang trong quá trình trưởng thành và nó phát triển rất tốt; nhưng sau khi tạp niệm xuất hiện trong tâm của chúng ta, chúng ta niệm kinh mà có tướng, niệm kinh một cách có mục đích thì cũng giống như bên cạnh hoa sen có sinh ra rất nhiều cành hoa khác, hơn nữa các cành hoa đó nếu như không có người cắt tỉa, thì nhất định sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển của hoa sen. Vì vậy việc niệm kinh thực sự phải vô tướng vô danh.
Ngày nay, có rất nhiều người làm việc gì cũng đều chấp tướng và muốn phải có danh, bởi vì muốn cầu xin – cầu xin cái này, cầu xin cái kia, đều là làm những việc mà trong lòng đã có sẵn mục đích. Trong xã hội này, dù con người tự sinh tự diệt cũng được, tự chuốc lấy sinh diệt cũng được, vì một số lợi ích hay vì một số lợi ích viễn vông vô hình, thực tế thì Chánh Trí (trí tuệ đúng đắn) của con người đang dần bị chôn vùi. Lúc này, nếu quý vị không có một trí tuệ đúng đắn thì rất khó phân biệt ra đâu là phiền não, đâu là dục vọng, cái nào là cần phải
phòng tránh, dần dần bản thân quý vị sẽ rời xa Bát Nhã. Vì sao nhiều người suốt ngày bị phiền não bao vây? Là vì họ đã rời xa trí tuệ Bát Nhã từ lâu.
Người không có kiến tánh, không tin Đức Phật. Nếu một người không nhìn thấy được bổn tánh, không nhìn thấy được cốt lõi cơ bản đúng đắn của sự việc, cũng giống như khi làm một việc nào đó thì mục đích thực sự của quý vị là gì? Có rất nhiều người nói “Tôi đi làm công quả (phụng sự viên ở Pháp hội hay Quan Âm Đường), chỉ vì cái lợi ích của việc làm công quả mà đi làm công quả, bởi vì trong nhà tôi có một người thân đang nằm viện, tôi muốn người đó hồi phục sức khỏe, vì vậy tôi đi làm công quả”, đây không phải là nhìn thấy căn bản. Nhìn thấy căn bản là gì? Căn bản là tìm thấy kiến tánh, “Hôm nay vì tôi muốn cứu độ chúng sinh, vì tôi xem những người thân trong gia đình tôi, bất kể là họ đang nằm viện thì tôi đều xem như chúng sinh. Hôm nay tôi học Phật, là đang đi cứu độ chúng sinh, tôi luôn tin tưởng Đức Phật, tin tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát, tôi cũng đang học theo Bồ Tát đi cứu độ chúng sinh”, như vậy quý vị chính là người kiến tánh.
Kiến tánh thành Phật. Nếu như quý vị thấy được bổn tánh, thì quý vị chính là Phật. Nếu quý vị làm điều gì đó và nghĩ rằng đó là vì lợi ích của tất cả chúng sinh, để cứu độ nhiều chúng sinh hơn nữa, để họ lìa khổ được vui, vậy thì quý vị chính là Bồ Tát, chính là Phật.
Người mà biết Phật thì mới có lòng tin nơi Phật. Một người lạy Phật, nếu như chỉ là vì muốn kinh tế gia đình tốt hơn một chút, chỉ vì bản thân mà cầu, vậy thì người đó còn chưa có lòng tin, chưa hoàn toàn tín Phật, chỉ là vì muốn có được một số phước đức mà đem lòng cầu xin.
“Phật không xa người, là người xa Phật”. Có nghĩa là Phật mãi mãi ở bên cạnh chúng ta, chỉ cần chúng ta nhớ tới Phật, thì Phật sẽ đến, nhưng vấn đề của con người chúng ta là không nghĩ đến Phật. Hiện nay chúng ta có rất nhiều Phật hữu, ban ngày niệm kinh niệm Phật, khi ban đêm gặp ác mộng, liền tự nhiên kêu lên “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” rồi tỉnh dậy, tránh xa ác mộng; nhưng có rất nhiều người ngày thường trong đầu họ cơ bản là không nhớ đến Bồ Tát, vì vậy đợi đến khi người đó gặp khó khăn thì cũng quên mất việc quan trọng là cầu xin Bồ Tát, và đợi đến khi người đó gặp ác mộng thì cũng quên mất việc quan trọng nhất là phải cầu xin Quán Thế Âm Bồ Tát.
“Tức tâm tức Phật”, tâm của quý vị chính là Phật, hôm nay quý vị có tâm Phật thì quý vị chính là Phật. Hôm nay được giải thoát, là vì chưa rời xa Phật. Phật
không xa người, chính là muốn nói với chúng ta rằng, vì con người chúng ta đã lạc mất tự tâm và tự tánh của mình, nhưng bản thân lại không biết, rời xa Bồ Tát mà bản thân lại không biết, cho nên con người lìa xa Phật Pháp. Giống như cùng là một người, lẽ ra phải hiểu chuyện này, nhưng tại sao họ không làm được? Là vì họ không hiểu, họ không làm được là vì do họ bị lạc mất phương hướng. Ví dụ hôm nay quý vị uống rượu mà còn lái xe, biết rõ phải đi đường này mới đúng, nhưng bản thân lại lái sai đường, lúc người khác chặn lại, quý vị nói: “Vốn dĩ tôi lái hướng này nhưng không biết tại sao lại lái sang hướng kia?” là do quý vị đã rời bỏ con đường ban đầu, chứ không phải con đường rời xa ý niệm lái xe của quý vị.
“Phật do tâm tạo”. Có rất nhiều người hỏi sư phụ: “Thưa Sư phụ, Phật ở đâu?” Phật ở xa tận chân trời, gần ngay trước mắt chính là trong tâm, chỉ cần cúi đầu nhìn xuống thì sẽ thấy được Phật tánh của mình. Người mê muội thì luôn muốn phải tìm Phật trong sách vở, rất nhiều người nói “Phật ở đâu? Tôi đọc sách liền biết rồi”. Vậy thì Phật được viết ra trong sách là để đáp ứng nhu cầu của quý vị mà thôi, còn Phật tánh thực sự là nằm ở trong tâm của quý vị, do tâm tạo ra. Một số người mê muội, họ thường cầu Phật bằng đủ loại hình thức, giống như trên thế gian này có rất nhiều người có thể nhìn thấy Phật, nên có rất nhiều người ngưỡng mộ họ, “Ôi, cậu nhìn thấy được Phật”. Vậy thầy hỏi quý vị, quý vị có nhìn thấy được Phật không? Phật ở trong tâm quý vị, tại sao tự bản thân quý vị lại không cố gắng xem vị Phật ở trong tâm của mình chứ? Khi quý vị có Chánh tri Chánh kiến, khi quý vị có minh tâm kiến tánh, khi mà bản thân quý vị đã giác ngộ, thì lúc đó Phật đã ở trong tâm quý vị, để chỉ dạy cho quý vị rồi.
“Giác Nhân Hướng Tâm Nhi Giác, Mê Nhân Tu Nhân Trì Quả” (người giác ngộ thì sự giác ngộ của họ là hướng vào tâm mà giác ngộ, người mê muội thì tu nhân đợi quả). Người mê muội thì họ luôn tu dưỡng, và luôn nghĩ: “Tôi phải tu đến lúc gặp được Phật, tôi phải tu đến lúc lìa khổ được vui”. Trên thực tế khi quý vị đang tu tâm, nhân thiện đã được gieo, thì quý vị không cần đợi quả, quả sẽ tự đến. Khi quý vị làm việc ác, nhân ác đã được gieo, thì khi quả báo đến nhất định phải tự mình gánh chịu. Người giác ngộ chỉ cần hỏi lương tâm của chính mình “Việc này bản thân có nên làm không?” Nếu lương tâm cho rằng việc xấu này không thể làm được, thì tâm của quý vị đang trong trạng thái giác ngộ. Người giác ngộ chính là Phật, khi mà trong tâm quý vị đã hiểu rõ, “Tôi nghĩ thông rồi, tôi giác ngộ rồi”, vậy thì quý vị đã có Phật trong tâm. Sư phụ hy vọng mọi người có thể “Người giác ngộ vô tâm tướng”, người giác ngộ căn bản không cần đi đến chân trời gốc bể nào để tìm Phật cả, vì Phật là ở trong tâm. Vì
vậy chúng ta thường nên tu Nhân và hiểu Quả, chứ không phải là đợi Quả, không nên để bản thân tạo nhân gì cũng không biết, rồi ngày ngày đợi quả báo nhãn tiền. Có rất nhiều người nói “Năm ngoái tôi có cầu xin Bồ Tát, nhưng tại sao tới bây giờ Bồ Tát vẫn chưa cho tôi cảm ứng gì hết vậy?”
“Mê Nhân Chấp Vật, Thủ Ngã Vi Dĩ”. Một người mê muội sẽ cho rằng “món đồ này là của tôi”, ở trên thế gian này, nếu “cái này là của tôi, cái kia cũng là của tôi”, thì người đó không biết mọi thứ vốn dĩ là vô ngã. Quý vị từ đâu đến? Trước khi sinh ra quý vị ở đâu? Quý vị xem gia đình, người thân, danh lợi, phiền não, sinh tử của bản thân, đều xem nó là thật, “Ôi, đây là của tôi”, vậy thì quý vị dần dần sẽ chấp mê, sẽ cố chấp, quý vị sẽ không sẵn lòng từ bỏ những danh lợi này, thì sẽ không thể buông bỏ được. Thử nghĩ xem, quý vị đến thế gian này, quý vị mang theo những gì? Người giác ngộ sẽ không bị mê hoặc, vì họ biết rằng tất cả mọi thứ trên đời này đều là tạm thời sở hữu và mượn tạm, sẽ không thuộc về mình mãi mãi, cho nên dù họ có tiếp xúc nhưng cũng không bị nhiễm bẩn và không bị ô uế.
“Vô Xử Bất Thị Phật Tánh” (không nơi nào là không có Phật tánh). Chúng ta đang sống ở thế giới này, có ngày nào, có sự việc nào, có thời điểm nào mà không có Phật tánh? Vì vậy không có nơi nào là không ở Tây Phương – Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Chúng ta phải hiểu, một người mà nghĩ không thông thì cả ngày đều cố chấp: “cái này là của tôi, sau này nó sẽ mất đi thì tôi phải làm sao đây? Tôi sẽ rất đau khổ”. Người mà thật sự hiểu được Không Tánh, thì họ sẽ không cố chấp vào những thứ này, bởi vì họ biết những gì có trong hôm nay, có thể sau một thời gian cũng sẽ không còn nữa. Vì vậy Không tánh đích thực chính là buông bỏ hoàn toàn, nhìn thấy được bổn tánh rồi, hiểu được Phật tánh rồi, thì tự nhiên sẽ có được Không Tánh.
Một người chỉ cần hiểu được, không “chấp không”, cũng không “chấp có” – Trung Quán; nếu không bám chấp vào tánh Không và chấp Không, và cũng không bám chấp vào những gì ngày hôm nay quý vị có được, thì sẽ không có hai mặt. Nếu không có hai mặt thì đó là Tâm Không, mà Tâm Không thì sẽ không có, trong tâm sẽ không bám chấp Không và cũng không bám chấp Có. Lấy một ví dụ, hôm nay quý vị có gia đình, trăm năm sau gia đình này không còn nữa, “Tôi không chấp trước về việc đã có một gia đình, và tôi cũng không chấp trước việc mà về sau gia đình này không còn nữa, để rồi chưa gì đã nóng vội đem cái gia đình này đi phá hỏng”, đây chính là “Trung Quán”. Vì vậy chúng ta không thể “tâm không tương diệt”. Có cái Có này không? có. Có cái
Không này không? Cũng có cái Không này. Hai loại đều có, hai loại đều không thể “diệt độ”, chỉ có thể “duy hữu trung tính” (duy trì sự trung hoà, trung tính). Người có trí tuệ là người có thể nhìn thấy bổn tánh của mình, bởi vì bổn tánh là không, nhìn thấy đều là “hư không” — cũng là 1 chữ “Không”, nhưng nó là “Hư Không”. Vì vậy chúng ta không thể chấp trước 4 tướng này — chấp trước về Nhân Tướng, Ngã Tướng, Thọ Nhân Tướng, Chúng Sinh Tướng, có thể khiến quý vị dần dần bị hủy hoại bổn linh trí tuệ và Bát nhã ở trong tâm của mình.
Theo cách nói của người thường, mọi thứ trên thế gian này đều có thể khiến quý vị vui vẻ và khiến quý vị đau buồn… Mọi tình yêu trên thế gian đều trống rỗng và cuối cùng sẽ biến mất. Đôi khi nó giống như một tấm lưới, và chúng ta dùng những chấp trước — chấp Không và chấp Có của mình, để từ từ dệt nên tấm lưới này, để nó thống trị những nỗi buồn vui thường ngày của chúng ta — đó là những cảm nhận của bản thân chúng ta. Tình yêu, tình bạn, tình huynh đệ, tình phụ tử, tình mẫu tử và tình cảm bạn bè, khiến cho chúng ta cảm thấy rằng “Tôi có tất cả mọi thứ này là điều dĩ nhiên”, để rồi mỗi một ngày đều cố chấp trong lòng, đây chính là Ngã chấp. Cho nên một khi mất đi sẽ vô cùng đau khổ. Chỉ cần có nhân duyên, nhất định sẽ gặp nhau. Nhưng gặp nhau cũng là nhân duyên, bởi vì nhân duyên cũng có thể mất đi, vì vậy khi duyên phận hết rồi thì sẽ dần dần sẽ không còn nữa. Nhưng trước khi biến mất, nó còn có sự chiêu cảm của nghiệp lực, có nghĩa là khi quý vị đang hành duyên (đang còn duyên), quý vị đã gieo rất nhiều nhân nghiệp và quả nghiệp. Tại sao lại có nghiệp duyên? Là do sự tích lũy của kiếp trước. Vì vậy, kiếp này của chúng ta như là đang diễn lại câu chuyện của kiếp trước và kiếp trước nữa, thật đặc sắc. Rất nhiều người một khi gặp sự việc này, nhất thời sẽ cảm thấy rất đau lòng, kỳ thực người đó đã chạm phải “quả” của kiếp trước trong tiềm thức thứ 8 của mình. Giống như xem phim, chúng ta không ngừng thay đổi nhân vật, cuộc sống kiếp trước và kiếp này của chúng ta không giống nhau, nhân vật của kiếp trước và kiếp này tất cả đều không giống nhau, thực ra đều là đang trong vòng lặp, chính là đang luân hồi. Kiếp này, có khi chúng ta gặp nhau, nhìn thấy mặt nhau “tự thị nhi phi” (như đúng mà lại sai), tưởng chừng đã quen biết nhau nhưng dường như lại là hai người xa lạ nên không cần phải lưu luyến, bởi vì tất cả những điều đó đều do duyên phận tạo thành.
Bồ Tát đã từng dạy chúng ta: là Không, là Vô Tướng, là Vô Tác. Chính là để nói với chúng ta rằng trên thế gian này tất cả đều là rỗng Không, làm bất cứ việc gì trên thế gian này, đến cuối cùng đừng chấp tướng, không có tướng, sẽ không
có tác, sẽ không làm ra bất cứ điều gì. Không chính là Vô Tướng, Vô Tướng lại là Vô Tác, vì vậy nếu có Không, Vô Tướng, Vô Tác thì tâm của quý vị sẽ không tồn tại ý thức, cũng giống như 3 cánh cửa giải thoát này quy về một cánh cửa giải thoát, 3 cửa Không – Vô Tướng – Vô Tác này sẽ trở thành một cửa giải thoát, đây chính là “Tam Giải Thoát Môn”
Hôm nay bài giảng tương đối sâu hơn, nên sư phụ sẽ giải thích một chút. Bồ Tát muốn nói với chúng ta rằng, trên thế gian này tất cả đều là “Tính Không và Vô Thường”. Bởi vì nó vô thường, nên nó sẽ kết thúc và sau khi kết thúc, có phải tất cả những gì quý vị có được trong quá khứ đều trở thành hư vô không? Vậy thì đây chính là vô tướng, là không còn gì nữa rồi. Lấy một ví dụ đơn giản, khi còn nhỏ chúng ta đã chụp rất nhiều ảnh, có nhiều kỷ niệm đẹp cũng như có nhiều kỷ niệm rất buồn, đây thuộc về tướng, vậy thì hôm nay chúng ta đã biết về “Không”, một ngày nào đó nó sẽ trống rỗng, và sau khi trống rỗng thì nó thuộc về vô tướng. Thế nên, nó trống rỗng và không có hình tướng; bởi vì trống rỗng rồi, không có hình tướng và không có ký ức này nữa, thì quý vị đã Vô Tướng rồi. Hồi nhỏ có phải quý vị đã từng làm qua rất nhiều việc không? Đã từng làm qua. Đã từng làm qua vậy thì bây giờ nó ở đâu? Vô Tác (không làm qua điều gì). Quý vị đã làm những việc đầy hứa hẹn nào rồi? Đã từng làm qua những việc gì? Vô tác (không làm qua điều gì). Vì vậy đây chính là Tam giải thoát môn (Ba cửa giải thoát). Làm thế nào để giải thoát bản thân ra khỏi sự ràng buộc của nội tâm và hiểu được rằng quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc. Chính là muốn nói với quý vị rằng, có 3 cửa giải thoát đó là Không – Vô Tướng – Vô Tác — nếu như trên thế gian này tất cả đều là trống rỗng, là không có hình tướng, hơn nữa chưa từng làm gì cả, chưa từng làm qua việc này, thì ý thức trong tâm quý vị từ đâu đến?
36. Trung quán trung đạo, tam giải thoát môn
Tập 36
TRUNG QUÁN TRUNG ĐẠO. TAM GIẢI THOÁT MÔN
(08/04/2020)
Bồ Tát dạy chúng ta học cách “Tam bất khả đắc”, chính là để chúng ta hiểu rằng mọi thứ trên đời đều là giả dối. Để chúng ta loại bỏ ý thức trong nội tâm mình, chính là phải dựa vào “Tam Giải Thoát Môn”. Bồ Tát nói với chúng ta, khi một người sắp rời khỏi thế gian thì sẽ biết được thế giới này là trống rỗng, đúng không? Mọi thứ chúng ta đã làm không phải là trống rỗng rồi sao? Quý vị hãy nghĩ mà xem, trường mẫu giáo lúc nhỏ, giáo viên tiểu học, bạn học tiểu học và bạn học cấp hai, quý vị nay đã không còn gặp lại họ nữa rồi, mọi thứ đã kết thúc rồi, có phải là trống rỗng không? Chính là như vậy. Sau khi đã rỗng không, có phải đã không còn ký ức nữa, vô tướng rồi, không còn suy nghĩ về điều đó nữa rồi đúng không? Cái mà quý vị không thể nhớ được có phải là “vô sở tác” không? Có phải giống như chưa từng làm không? Khi quý vị nghĩ như vậy, suy nghĩ của quý vị sẽ trong sáng, sẽ không có ý thức nữa rồi. Bồ Tát sợ nhất là chúng ta có ý thức, bởi vì có ý thức trong não sẽ còn sót lại trong điền thức thứ 8, A-lại-da thức (thức Aliya) sẽ lưu giữ nhiều điều đau đớn buồn phiền trong quá khứ cũng như rất nhiều việc không đúng lý, không đúng pháp mà chúng ta đã từng làm, và nó sẽ được lưu trữ mãi mãi trong ý thức, khiến quý vị luân hồi vô tận trong lục đạo.
Tam Giải Thoát Môn là Không – Vô Tướng – Vô Tác. Kinh điển của Bồ Tát rất triết lý, bảo chúng ta phải giải thoát, và cửa giải thoát ở đâu? Khiến cho quý vị phải nghĩ đến Không – Vô Tướng – Vô Tác. Trong kinh Phật, Vô Tác từng được dịch là Vô Nguyện. Nhiều người nghĩ rằng, chẳng phải những người tu hành theo đạo Phật như chúng ta phải phát nguyện thường xuyên sao? Chẳng phải có rất nhiều chư vị Bồ Tát lớn, Phật lớn đều có nguyện lực sao? Vô Nguyện, điều này thật kỳ lạ, chẳng phải người học Phật đều phải phát nguyện sao? Vô Nguyện thực ra chính là Vô Tác. Tại sao lại vậy? Lời nguyện đã hứa qua cũng chỉ là một lời nguyện, nếu không thực hành nó — thì là Vô Tác; Khi nguyện lực này đã được thực hiện, quý vị đã làm rồi, thì cảnh giới cao nhất chính là hôm nay quý vị đã thực hiện lời nguyện đó cũng giống như quý vị chưa từng làm, cho nên làm mà như không làm, làm rồi cũng giống như chưa làm vậy, đây chính là cảnh giới cao nhất của đạo Phật.
Chúng ta nên nắm bắt ba cánh cửa giải thoát này và coi mọi thứ là Không – Vô Tướng – Vô Tác. Sư phụ lấy một ví dụ đơn giản cho quý vị nghe thử. Hôm nay quý vị sắp tổ chức một buổi lễ lớn ở cơ quan làm việc, quý vị bận rộn cả ngày và cuối cùng buổi lễ cũng kết thúc, lúc đó quý vị trên sân khấu cảm thấy rất
vinh dự, nhưng cuối cùng thì chuyện này cũng kết thúc và rỗng không. Một ví dụ khác, nhóm truyền thông chúng ta từng tổ chức lễ kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Đài truyền thông tại Nhà hát Opera Sydney rất đông đúc và bận rộn, rất tuyệt vời. Kết quả là, sau khi hoàn thành công việc, trên đường lái xe về, một trong những người dẫn chương trình của chúng ta đã nói: “Bận rộn bấy lâu nay, vậy mà đã kết thúc như vậy rồi”. Đây là trống rỗng, đã kết thúc, bận rộn xong, và cuối cùng thì cũng trống rỗng; sau khi trống rỗng quý vị không còn nhớ đến nữa. Bây giờ khi nghĩ lại hoạt động này cách đây vài năm, quý vị không có cảm giác và không có ấn tượng gì trong đầu, hiếm khi hoài niệm hay nhớ về nó và nó đã Vô Tướng rồi. Nếu quý vị không có ấn tượng này trong đầu thì đó có phải là “Vô Tác” không? Chỉ thỉnh thoảng mới xem qua một số buổi biểu diễn trên trang web của chúng tôi mới nghĩ về nó mà thôi. Bồ Tát cho chúng ta hiểu rõ ba cánh cửa giải thoát này — thế nào là Không, thế nào là Vô Tướng, thế nào là Vô Tác, rồi quý vị sẽ dần nắm bắt được ba cửa giải thoát này, và quý vị sẽ hiểu được hết thảy đạo lý của Phật Pháp.
Nhiều người không hiểu tại sao, dường như học Phật Pháp rồi giống như chưa học. Đã học chưa? Vẫn chưa học được sao? Đã học rồi. Quý vị đã từng học tiểu học chưa? Đã từng học qua rồi. Quý vị đã học được rất nhiều chữ, bây giờ vẫn đang sử dụng chúng phải không? Đang sử dụng. Tại sao vẫn đang sử dụng chúng? Bởi vì đã từng học nó và đã học thuộc lòng rồi. Bây giờ nghĩ lại giống như quý vị chưa từng học nó vậy, bởi vì quý vị sớm đã quên hết những gì đã học ở trường tiểu học rồi. Nhưng thật sự đã quên rồi sao? Chưa quên, vẫn đang ghi nhớ trong lòng và áp dụng nó vào thực tế. Đây chính là sự uyên thâm của Bồ Tát, đó là Không, là Vô Tướng, là Vô Tác. Nó có thực sự trống rỗng không? Nó không trống rỗng. Nó có phải là Vô tướng không? Cũng không Vô Tướng. Nó có phải là Vô tác không? Cũng hoàn toàn chẳng phải là Vô Tác. Cho nên Tam Giải Thoát Môn giúp chúng ta học được cách buông xả, phải học cách buông bỏ tất cả mọi thứ trên đời…bất luận đó là Pháp môn hay những kiến thức mà chúng ta đã học được, chúng đều là trống rỗng. Cái sự vật được gọi là Trống rỗng này sau khi đã sử dụng rồi, đã từng học qua rồi, đã chuyển biến rồi, thì cái hình tướng này cũng không còn nữa. Nếu quý vị không chấp tướng thì trong lòng không còn hình tướng này nữa, không dính mắc vào hình tướng này thì quý vị cũng sẽ quên mất nó mà thôi. Cũng giống như khi quý vị còn trẻ, đã từng trải qua rất nhiều chuyện buồn hoặc chuyện tình yêu, nếu bây giờ không nhắc đến thì chắc chắn không còn hình tướng này nữa rồi. Bao gồm cả việc tụng kinh cũng vậy, bất luận là trước đây quý vị đã từng học qua bao nhiêu kinh điển, Pháp môn, kinh Phật hay tất cả các Pháp, cuối cùng quý vị còn lại gì? Tại sao
trong《Tâm Kinh》lại nói rằng “chư Pháp không tướng”? Nghĩa là mọi thứ đều là Không Tướng. Cho nên《Kinh Kim Cang》có nói: “Nhất thiết hữu vi Pháp. Như mộng huyễn bào ảnh. Như lộ diệc như điện”: chính là giống như điện, thoáng cái đã biến mất rồi; giống như hạt sương mai, khi mặt trời ló dạng thì sương tan không còn nữa; giống như là ảo mộng là giấc mơ.
Nhưng giấc mơ lại vô cùng chân thực, có những đứa trẻ sau khi thức dậy vẫn còn khóc, vẫn đang suy nghĩ về những điều trong giấc mơ đó, liệu quý vị có bị dính mắc vào những cảnh vật trong giấc mơ này không? Đã qua rồi thì cứ để cho nó trôi qua, vì vậy mới có câu “Như mộng huyễn bào ảnh. Như lộ diệc như điện”. Vậy thì quý vị nên nhìn nhận sự việc một cách thực tế, đó gọi là “Ưng tác như thị quán”. Sau khi chúng ta học Phật, cái khó là làm sao có thể khiến bản thân đem những điều học được biến thành Không Tánh và làm thế nào để có thể lý giải nó. Cái Không Tánh này không thực sự là sự trống rỗng, cũng không phải là “Ngoan Không”, mà Không Tánh ở đây quý vị không thể nhìn thấy được nhưng thực sự lại có thể giúp ích được cho quý vị— đó chính là bản tánh của Không.
Trung Quán Chánh Kiến rất quan trọng. Nhìn thấy điều gì cũng nên Trung Quán, có thể thấy người này có một số khuyết điểm, nhưng nhìn chung họ có phẩm chất tốt và đạo đức không tệ, đây gọi là “Trung Quán Chánh Kiến”. Người này có chút tật xấu, khi tật xấu nổi lên thì rất đáng ghét, nhưng bản chất của cậu ta vẫn rất tốt, hơn nữa cậu ta học Phật thì nên giữ lại Huệ mệnh cho cậu ta – Trung Quán Chánh Kiến. Cho nên kiến đạo, căn bổn trí là gì? Trí huệ căn bản nhất của Phật giáo là Trung Quán. Ở thế gian này, nếu chúng ta dùng Trung Quán để quán chiếu tất cả vạn vật, thì tâm của chúng ta sẽ có thái độ vô cùng tốt. Tại sao vậy? Tâm thái bình thường. Đối với một người trông rất đáng ghét, chúng ta vẫn có thể nói “người này thật đáng thương”, vậy thì lòng đại từ đại bi đã xuất hiện rồi đấy; Người này làm rất tốt nhưng chúng ta suy nghĩ đến người đó vẫn còn khuyết điểm, hy vọng họ có thể thay đổi tốt hơn, như vậy có phải là xuất hiện nghị lực tinh tấn rồi không? Bất cứ điều gì cũng đều coi nó là Trung Quán, không trống rỗng cũng không tồn tại. Không trống rỗng — mặc dù trong lòng quý vị nói “người này rất tốt”, nhưng quý vị không để họ ở trong lòng và cũng không nói rằng người ấy hoàn toàn tốt. Chúng ta nói “không trống rỗng cũng không tồn tại”, nhưng không có nghĩa là không có gì. Hôm nay khi tôi nhìn nhận sự việc này, tôi lúc nào cũng Trung Quán Trung Đạo, và tôi hoàn toàn xem sự việc đó là cái gì đó có tồn tại, nhưng cũng không tồn tại. Vì thế nó có vẻ trống rỗng, nhưng dường như cũng tồn tại, đây chính là tức không tức có.
Điều kiện trước tiên để đạt được Trung Quán Chánh Kiến là gì? Một người muốn thực sự đắc đạo… người học Phật thường nói “Tôi muốn đắc đạo”, vậy thế nào là đắc đạo? Khi nhìn người khác đừng đánh giá sai về họ, Trung Quán Chánh Kiến, thì quý vị liền đắc đạo rồi. Nếu mọi người đều nói người này không tốt, còn quý vị lại nói: “người này cũng có ưu điểm của họ, tuy rằng họ vẫn còn khuyết điểm” thì quý vị có phải là người đã đắc đạo rồi không? Dù làm việc gì đi nữa, chúng ta cũng phải nhìn thấy Tánh Không và tách rời khỏi hình tướng. Ví dụ, bây giờ quý vị đang gặp phải một sự việc rất phiền não, gia đình ngày nào cũng cãi vã và đang đối mặt với sự đổ vỡ, thì quý vị nên “Nhìn thấy Tánh Không trước tiên” – “Trên thế gian này là vậy, vợ chồng trước sau gì cũng sẽ có cãi nhau, đây là điều thường xảy ra trong mỗi gia đình”, quý vị nên nhìn thấy Tánh Không của sự việc đó trước: “Vì vậy chúng ta đừng quá đặt nặng vấn đề”. Một việc nhỏ nhặt, một lời nói, một cái nhìn hay một hành động nào đó, quý vị đừng quá xem là thật thì quý vị đã nhìn thấy được Tánh Không của nó rồi, và Tánh Không của hôn nhân cũng xuất hiện rồi đúng không? Sau khi nhìn thấy được một khía cạnh của sự trống rỗng, quý vị liền trở thành người ngoài cuộc, không còn là người cố chấp trong những cuộc cãi vã trong hôn nhân nữa, liền cảm thấy “hôn nhân là thế đó, vợ chồng nào cũng sẽ có cãi vã, vợ chồng nào cũng sẽ đối mặt với chuyện này”, có phải quý vị đã thoát khỏi vai diễn của mình trong sự việc này rồi không? Sau khi quý vị đã rời khỏi và trở thành người ngoài cuộc, thì quý vị có thể nhìn thấy chân tánh và bản tánh của sự việc này, và bản tánh của nó là trống rỗng.
Cũng giống như hai đứa trẻ cãi nhau, bố mẹ ở bên cạnh luôn nói “đừng cãi nhau, đừng cãi nhau nữa”, họ biết rất rõ rằng khi hai đứa trẻ cãi nhau là do có nhiều chuyện không thể giải quyết được như đố kị, khó chịu và những chuyện không vui từ bên ngoài v.v… đều có đủ cả. Vậy thì Không Tánh là gì? Không Tánh nghĩa là biết rằng sẽ luôn có những cuộc cãi vã. Bố mẹ nói “Bố mẹ biết, nên bố mẹ không tham gia vào cuộc cãi vã”, người bố cũng không giúp con trai, người mẹ cũng không giúp con gái … Bằng cách này, liền nhìn thấy được “Tánh Không” rồi, đã trống rỗng rồi, từ trong sự trổng rỗng đó thoát ly rồi. Khi quý vị hiểu được Tánh Không, quý vị không còn ở trong sự việc đó nữa, thì quý vị sẽ hiểu rõ những suy nghĩ của bản thân về mọi mặt và cảm nhận được bổn tánh của quý vị chính là sự trống rỗng. Bởi vì, sau một thời gian chuyện đó dường như chưa từng xảy ra, hai đứa trẻ sẽ vui vẻ trở lại, cùng nhau ăn uống, chơi đùa, cùng nhau vui vẻ, Không Tánh – như chưa từng xảy ra chuyện gì.
Theo giới Phật Pháp mà nói, tự tánh vốn dĩ là trống rỗng, và bản chất của mỗi người vốn dĩ là trống rỗng. Trên thế gian này: “Bổn lai vô nhất vật. hà xứ nhạ trần ai”, tâm con người giống như một tấm gương, nếu quý vị không soi vào những thứ dơ bẩn đó thì làm sao có những thứ dơ bẩn đó phản chiếu lại vào trong tâm quý vị? Bước đầu tiên khi học Phật chính là để cho bản thân mình hiểu được mọi thứ trên thế gian này và đừng xem nó quá chân thật, thay vào đó, hãy nhìn thấy Không – Vô Tướng – Vô Tác. Bằng cách này, quý vị đang bước từng bước đầu tiên trên con đường học Phật. Quý vị không chỉ hiểu về mặt lý thuyết mà còn phải rời xa cái tâm của mình, tức là hiểu được bổn tánh vốn là sự trống rỗng, “Tôi không ở trong đó và dần dần sẽ hiểu được hàm ý thực sự của nó”. Cho nên khi một người tham gia vào cuộc cãi vã, họ sẽ không biết ai sai ai đúng; khi quý vị đang ở trong một cuộc tranh cãi, quý vị chắc chắn cảm thấy mình đúng, vậy thì quý vị đã bị cuốn vào trong đó rồi. Tánh Không là để cho chúng ta hiểu được làm sao có thể hiểu Phật giáo thông qua học Phật. Nhiều người nói rằng “Tôi hiểu rồi, tôi đã học Phật rồi, tôi học rất tốt, tôi có thể áp dụng nó trong cuộc sống và tôi có thể kiềm chế được tính khí của mình”, nhưng tại sao đến cuối cùng lại không thể kiềm chế được? Có bao nhiêu người có thể kiểm soát được khi tính khí nổi lên? Có bao nhiêu người có thể kiểm soát được phiền não khi nó đến? Học Phật là để giải thoát khỏi sinh tử, học Phật đã lâu rồi, đừng nói đến giải thoát sinh tử, hôm nay đau lưng cũng không giải quyết được chứ nói gì đến sinh tử? Hôm nay phiền não ập đến cũng hóa giải không xong, thì làm sao giải thoát sinh tử đây?
Ngộ đạo là gì? Chứng đạo là gì? Có nghĩa là toàn bộ thân tâm của quý vị đã hoàn toàn hòa nhập vào ngộ tánh và đã bước vào Phật đạo. Cũng giống như một tách trà, phải dùng nước đun sôi pha thì trà mới có vị. Khi quý vị chỉ nói những lời sáo rỗng, dù quý vị có nói nó thơm hay đậm đà đến đâu thì nước sôi vẫn là nước sôi, cho nên dù quý vị nói Phật Pháp có tốt đến mấy nhưng nếu không thực hành, thì nước mà quý vị uống vẫn chỉ là nước đã đun sôi mà thôi, dù quý vị có nói về nó tốt hay nó thơm và đậm đà đến đâu, suy cho cùng thì vẫn chưa thực hành. Vì vậy phải Chánh đạo, nghĩa là quý vị phải chứng thực sự tồn tại của Phật giáo và phải nghiệm chứng điều đó dựa trên sự tồn tại của Phật Pháp, từ đó có thể mang lại lợi ích cho quý vị, chỉ bằng cách này mới có thể thực sự khai ngộ.
Vì thế, Tánh Không cần phải dựa vào sự kiểm chứng, người hiểu được Tánh Không có thể dùng cảm nhận của bản thân để kiểm chứng, chứng đắc Tánh Không rồi vẫn chưa hoàn toàn được xem là thành công trong việc học Phật. Quý
vị đã chứng ngộ và nói: “Tôi hiểu rồi, Phật Pháp thực sự là trống rỗng. Quý vị thấy đấy, trong khi gia đình chúng ta thật không dễ dàng gì dành dụm được một ít tiền, khi bị bệnh liền tiêu hết rồi, có phái lả trống rỗng rồi không? Lại phải kiếm tiền lại từ đầu rồi, lúc này tôi đã cảm nhận được sự trống rỗng này rồi”, nhưng đây vẫn chưa được tính là trống rỗng. Bởi vì mỗi một sự lý giải chỉ là bước khởi đầu hướng tới tánh Không mà thôi. Không tánh rồi, chúng ta vẫn cần phải biết tại sao gọi đó là Không và duyên khởi là gì. Tánh Không là gì? Duyên khởi là gì? Quý vị phải lý giải được tại sao tất cả mọi thứ trên thế gian này đều trống rỗng, vậy thì quý vị mới thực sự trống rỗng, quý vị hiểu rõ được thế giới này thực sự trống rỗng nên quý vị buông xả. Giống như một vị pháp sư, họ biết gia đình đó cuối cùng sẽ không còn nữa, mọi thứ của con người cũng sẽ mất đi, “Tôi muốn tìm một con đường Phật Pháp có thể chứng ngộ” – đó là chứng đạo. Nghĩa là họ đã hiểu rõ rồi, trong lòng họ có diệu pháp và không tiếc từ bỏ tất cả danh lợi, địa vị và tất cả mọi thứ ở nhân gian, và họ liền diệu dụng Phật Pháp để khiến bản thân được ở trong một môi trường yên tĩnh, không tham, sân, si, mạn, nghi. Như vậy, sự tinh tấn trong đạo Phật của vị pháp sư lại tiến thêm một bước.
Nói đến đây, rất nhiều người nói đây được coi là thành công không? Đây vẫn chưa được tính là thành công, phải “không phi không, hữu phi hữu, tức không tức hữu”. Có nghĩa là quý vị phải “không” (trống rỗng) nhưng không hoàn toàn trống rỗng. Trong lòng quý vị muốn trống rỗng không? Hy vọng trống rỗng nhưng lại không hoàn toàn trống rỗng. “Hữu phi hữu”, trong lòng quý vị nghĩ: “Tôi có Phật Pháp, nhưng tôi lại không có gì”, thực ra Phật Pháp đã đi vào A-lại-da thức của quý vị rồi, đã đi vào trong cuộc sống của quý vị rồi, và cuộc sống của quý vị nằm trong Lục Ba-la-mật rồi. Cho nên “tức không tức hữu”, giống như không có lại như là có, dường như có lại như không, thực ra quý vị đã vận dụng Tánh Không vào thực tiễn rồi. Sự huyền bí của đạo Phật chính là khiến cho chúng ta nghĩ thông suốt, nghĩ và nhìn thấu suốt. Phi Không phi Có, dường như là trống rỗng và dường như không tồn tại. Cũng giống như ngày nay quý vị sống trên thế gian này, ai cũng có một gia đình, nhưng gia đình này dường như có và dường như lại không có. Cũng giống như pháp sư, họ từng có nhà nhưng họ đã xuất gia, vậy thì trước đây họ đã từng có nhà không? Giống như có mà lại như không, không phải Không cũng không phải Có. Chỉ có như vậy quý vị mới có thể thực sự hiểu được duyên khởi của Tánh Không Bát nhã, tức là thực sự hiểu được rằng duyên phận này vốn dĩ là rỗng không trong thế giới này: “Tôi hoàn toàn hiểu rõ, bây giờ tôi đã nghĩ thông suốt rồi, vì bổn tánh của tôi hiểu Phật Pháp, con người cuối cùng không còn lại gì cả, mọi thứ đều vô
thường, là Không tánh”, vậy là quý vị hiểu được cái duyên của đạo lý này, đó là “Duyên Khởi Tánh Không”.
Những gì nói với quý vị hôm nay quả thực có phần sâu sắc, nhưng Sư phụ cố gắng giải thích cho quý vị bằng những câu chữ dễ hiểu nhất. Phật Pháp dù uyên thâm đến mấy thì cũng không thể tách rời khỏi sự hiểu biết và ngộ tánh trong tâm thức của tất cả chúng sinh. Tánh không rốt cuộc có phải là điểm đến cuối cùng mà chúng ta hướng đến? Tánh không, rốt cuộc là trống rỗng hay không trống rỗng? Là trống rỗng đến mức độ nào? Là trống rỗng đến tận cùng chưa? Tánh không nhất định là điểm đến cuối cùng, cũng có thể nói rằng, dù sự trống rỗng này có tồn tại trong đời sống thực tế hay trong những giáo lý Phật giáo được hiểu khi nghiên cứu về đạo Phật, thì nó là điểm cuối, là đích đến cuối cùng. Bởi vì trên thế giới này mọi thứ đều là trống rỗng, Đức Phật và Phật Pháp từ lâu đã dạy chúng ta rằng: “Thành, Trụ, Hoại, Không”.
37. Chú trọng không tánh. Bát nhã diệc nhiên
Tập 37
CHÚ TRỌNG KHÔNG TÁNH. BÁT NHÃ DIỆC NHIÊN
(08/04/2020)
Phải Trung Quán Chánh Kiến, đối với sự trống rỗng trên thế giới này, không thể luôn cho rằng “Dù sao thì nó cũng trống rỗng, dù sao cũng không có nhà, đồ gia dụng cũng không cần nữa, cái gì tôi cũng không cần, tôi sao cũng được”, thế thì người này chính là thiên chấp (Cố chấp nghiêng về một mặt nào đó mà không thấy rõ được mặt khác). Vì vậy, nếu không muốn đi sai hướng thì phải Trung Quán Chánh Kiến, mượn giả tu thật. Ở nhân gian, là trống rỗng sao? Là trống rỗng, nhưng lại không phải hoàn toàn trống rỗng, mà sự trống rỗng này là trống rỗng giả tạo, là cái thân thể giả, và là vật chất giả tạo mà chúng ta tạm thời mượn dùng, nó không phải là sự sở hữu hoàn toàn, cũng không thể mang đi và cũng sẽ không vĩnh cữu. Vì vậy, những thứ hư không này không thể ảnh hưởng đến sự trống rỗng của bổn tánh.
Suy cho cùng, Bát nhã là tánh Không, khi quý vị hoàn toàn hiểu được trí tuệ của thế giới này và hiểu được trí tuệ của Đức Phật, thì quý vị sẽ hiểu được tánh Không thực sự là gì. Làm thế nào có thể đạt được sự trống rỗng này trong tâm mình? Ví dụ, một số người thích thiền, và họ ngồi thiền để: “trống rỗng, trống rỗng, trống rỗng…” trong đầu họ luôn nghĩ đến phải trống rỗng: “Tôi muốn trống rỗng, tôi muốn trống rỗng…” Nhưng suy nghĩ của họ có thể trống rỗng được không? Tạp niệm tràn lan: Nước sôi chưa? Lát nữa phải đi đón con; Tối nay còn thứ gì chưa mua… có rất nhiều người khi đang niệm kinh, thì sẽ nghĩ
đến nhiều việc vẫn chưa làm, vốn dĩ là do lúc bận rộn vẫn chưa nghĩ ra được, nhưng vừa ngồi xuống niệm kinh lại nhớ ra tất cả: “Tôi đã quên mất điều này, tôi đã quên mất điều kia…”. Thực ra những việc cũng giống như lá trà lắng xuống, con người trong khoảnh khắc lắng đọng sẽ có rất nhiều suy nghĩ xuất hiện. Bởi vì quý vị bận rộn tìm kiếm sự trống rỗng mỗi ngày, nên quý vị đang bận rộn một cách vô ích.
Không tánh thực sự là gì? Sự trống rỗng này không thể cầu mà có được. Quý vị đã bận rộn trong một thời gian dài cố gắng tìm kiếm sự trống rỗng, nhưng sự trống rỗng này không phải là thứ mà quý vị cầu là có được, mà là một tính chất vốn có tự thân. Chính “Tánh Không” làm cho quý vị trống rỗng, chứ không phải quý vị làm trống rỗng nó. Cũng có nghĩa là, nếu một người muốn buông bỏ hoàn toàn, thì tự nhiên sẽ buông bỏ được, nó dần dần sẽ trở nên trống rỗng, và tánh không liền xuất hiện rồi; trong suy nghĩ không còn có tạp niệm, không còn ý niệm, không còn đủ thứ vọng tưởng hư ảo và vọng niệm trong đó, thì lúc này sự trống rỗng sẽ đến với quý vị; Mà không phải là những tạp niệm hay ý niệm tràn ngập trong suy nghĩ của quý vị. Khi quý vị chỉ nghĩ đến những vọng tưởng trong đầu, “Con khấn xin, xin Bồ Tát cho con được trống rỗng, trống rỗng, không có tạp niệm”. Vậy thì quý vị bận rộn đến cuối cùng sẽ “bận vô ích”. Quý vị phải hiểu được đạo lý này, khi quý vị hiểu được đạo lý rằng, “Tôi không thể tìm kiếm tánh Không”, mà phải khiến bản thân buông bỏ mọi tạp niệm và làm như vậy đến khi tâm mình trở nên tự nhiên, thì sẽ tự nhiên trống rỗng. Hiện tại mọi người đang nghe Sư phụ diễn giảng, có một số người rất nghiêm túc nhưng có một số người đầu óc vẫn chưa trống rỗng và họ vẫn đang lắng nghe Sư phụ đang giảng gì; Có người trống rỗng tự nhiên, khi nghe Sư phụ giảng đến đoạn diệu pháp này sẽ nghĩ: “Thật hay, Sư phụ giảng đạo lý Phật pháp bằng bạch thoại dễ hiểu và rất hay”. Khi không nghĩ gì đến việc khác thì sẽ “tự nhiên trống rỗng”. Trong khi đó, thì nhiều người đang có suy nghĩ: “Sau này trong cuộc sống tôi cần phải trống rỗng, tôi phải vâng lời, tôi phải tiêu trừ những tạp niệm và vọng niệm”, vậy thì quý vị vẫn đang còn ở trong những tạp niệm và vọng niệm. Quý vị cầu xin sự trống rỗng như thế này, thì làm sao có thể trống rỗng được đây?
Chúng ta phải hiểu rằng, tâm chúng ta không trống rỗng là điều bình thường, và tâm chúng ta trống rỗng cũng là điều bình thường. Bởi vì khi quý vị cảm nhận được sự trống rỗng, thì quý vị không phải trong sự trống rỗng; khi quý vị không cảm thấy trống rỗng mà trống rỗng một cách tự nhiên, thì thực ra những tạp niệm của quý vị sớm đã chạy mất rồi. Người học Phật học đến sau cùng sẽ có
được trí tuệ. Chẳng hạn, nếu người loạn niệm nói với quý vị về một số vấn đề tầm thường trong cuộc sống, người đó sẽ khiến quý vị vô cùng buồn bực và chán nản giống như họ, lúc này thì quý vị đã bị cuốn vào suy nghĩ của họ rồi, tức là không còn trống rỗng nữa. Khi đó, quý vị sẽ nghĩ trong đầu: “Tôi không muốn nghe anh ấy nói, tôi muốn trống rỗng, tôi muốn trống rỗng, tôi không muốn theo…”. Điều đó có nghĩa là quý vị đang xua đuổi sự trống rỗng của chính mình. Khi quý vị hoàn toàn quên lãng và đã buông bỏ, trong lòng không còn chuyện này nữa, thì tự nhiên quý vị sẽ không có cảm giác như thế. Cho nên Sư phụ nói với mọi người, không phải là quý vị làm trống rỗng nó, mà là nó tự nhiên làm cho quý vị rỗng không hoàn toàn, biến thành một loại Không Vô trọn vẹn hiện hữu màu nhiệm trong tâm quý vị.
Nhiều người đã đi ngược đường trong hành trình tìm kiếm sự trống rỗng. Ngược đường là gì, có nghĩa là đi theo hướng ngược lại, lẽ ra họ phải đi con đường này, nhưng họ lại không đi. Nhiều người đã học lệch và nói rằng: “Phật giáo đều nói về tánh Không. Dù sao thì cuối cùng cũng sẽ trống rỗng. Bây giờ tôi cũng trống rỗng rồi”. Làm sao trống rỗng đây? “Tôi không quan tâm đến bất cứ điều gì, tôi không muốn bất cứ điều gì nữa”. Đó là sự sai lệch, không phải là gốc rễ của trống rỗng. Chỉ bằng cách hiểu được nguồn gốc của tánh Không, thì quý vị mới có thể thực sự được giải thoát. “Nguồn gốc Tánh Không” nghĩa là gì? Khi chúng ta sống ở thế giới này, chúng ta rất muốn khiến suy nghĩ và ý niệm của mình dừng lại. Thực ra, sư phụ nói cho mọi người biết là không thể dừng lại được. Chỉ bằng cách loại bỏ tất cả những điều này, không suy nghĩ về nó, vô quái ngại, thì quý vị mới có thể tìm thấy được sự trống rỗng ban đầu trong trường thức thứ chín. Khi quý vị nghĩ không thông, thì quý vị đã bị cái cảm giác suy nghĩ không thông này giữ lại rồi; khi quý vị phiền não, thì quý vị đã đem sự phiền não này giữ lại trong lòng; khi quý vị đau khổ, thì sự trống rỗng này sẽ không thể rỗng không được nữa, bởi vì thức thứ bảy và thức thứ tám của quý vị đã che đậy sự trống rỗng ban đầu của quý vị mất rồi.
Làm thế nào chúng ta có thể tiếp xúc được với tánh Không nguyên sơ? Trên thực tế những cảm nhận về sự đau khổ và phiền não, gọi là “thọ ấm”, đây cũng là gốc rễ của nghiệp lực. Bởi vì quý vị phiền não nên đã tiếp nhận một số năng lượng tiêu cực, mà những năng lượng tiêu cực này có nghiệp chướng và nghiệp chướng của chúng rất nặng nề, quý vị sẽ bị đau khổ trói buộc và bị sức mạnh của năng lượng tiêu cực này trói buộc, nếu không thoát ra được thì quý vị sẽ có nghiệp chướng. Vì vậy, những người suy nghĩ không thông sẽ bị những nghiệp này quấy nhiễu.
Đôi khi, có rất nhiều người nói rằng “Tôi muốn trống rỗng” và nương nhờ vào ngồi thiền, họ cảm thấy thiền rất tĩnh lặng. Ngồi thiền quả thực sẽ khiến quý vị trống rỗng, nhưng rất nhiều người khi ngồi thiền vẫn nghĩ trong đầu rằng: “Tôi muốn có cảnh giới tĩnh lặng. Dù hôm nay tôi có thiền, tôi cũng muốn được tĩnh lặng và trống rỗng”. Vậy thì quý vị vẫn đang tìm kiếm Không Tánh và vẫn còn đang “thọ ấm”.
Nếu quý vị ngồi thiền mà không hề nghĩ đến điều gì thì quý vị đang thiền, lúc này quý vị không suy nghĩ về bất cứ điều gì, ngày cả ý nghĩ đang thiền cũng không có, thậm chí đến ý nghĩ “Tôi muốn trống rỗng và yên tĩnh” cũng không có. Có phải là quý vị đã bước vào Không tánh rồi không? Khi quý vị nghĩ về những điều này, trên thực tế quý vị đã bị tán loạn tạp niệm. Khi thiền, nếu quý vị nghĩ: “Hôm nay tôi thiền để tiêu trừ rất nhiều những việc phiền não của tuần trước” thì quý vị sẽ không thể giải thoát được. Nhưng khi thiền đến lúc quý vị cảm thấy trống rỗng, “Tôi bây giờ không còn nghĩ gì rồi, tôi ngồi thiền ngồi đến trống rỗng rồi”. Thì quý vị lại bị chấp tướng rồi, bởi vì quý vị bị vướng mắc bởi hình tướng của rỗng không. Cho nên, học Phật niệm kinh khó vô cùng, nếu hôm nay quý vị nói: “Tôi đã đạt được thiền định, tôi không còn tạp niệm nữa rồi”, thực ra những tạp niệm đó vẫn còn trong tâm quý vị, bởi vì dù miệng quý vị nói như vậy nhưng trong lòng vẫn còn đang nghĩ: “Tôi không còn tạp niệm nữa rồi”. Khi quý vị đang nghĩ về những tạp niệm này thì nó có ở trong tâm quý vị không?
Một trăm phần trăm nó ở trong tâm quý vị. Giống như nhiều bạn trẻ khi yêu nhau nói rằng: “Tôi không cần anh ấy nữa. Thôi, anh ấy không cần tôi và tôi cũng không cần anh ấy nữa. Tôi đã quên anh ấy từ lâu rồi”. Quý vị nói xem đã quên chưa? Một lúc sau có người khuyên cô ấy: “Bạn đừng đau khổ nữa, hãy quên anh ấy đi”. Cô ấy trả lời: “Tôi thậm chí còn chưa nghĩ đến anh ấy”. Vậy thì nói xem trong lòng cô ấy có người bạn trai này không? Vậy, giải pháp thực sự để “trống rỗng” chính là hoàn toàn không tồn tại bất kỳ một ý thức gì. Tánh Không thực sự chính là vô thức, không có bất kỳ một ý thức nào có thể cưỡng ép bản thân phải đạt được không tướng, ngay cả không tướng cũng phải biến mất, nếu không vẫn chưa thể trống rỗng. Quý vị nói quý vị trống rỗng rồi, cảm thấy thanh tịnh rồi, nhưng còn đang nghĩ đến “thanh tịnh”, vậy thì quý vị vẫn chưa thể trống rỗng. Nếu quý vị tự nói trong lòng: “Tôi đã quên chuyện này rồi”, thì chuyện này vẫn còn trong tâm trí quý vị. Có người hỏi quý vị: “Bạn quên chuyện này rồi à?” Quý vị đáp: “Là chuyện gì vậy?” Nếu quý vị thực sự không thể nhớ được thì đó mới thực sự gọi là “Không Tánh”.
Phật pháp thật sự là vi diệu, 2500 năm trước Đức Phật đã lấp đầy trí tuệ trong tâm mỗi chúng ta, khiến chúng ta được giải thoát và hiểu được thế giới này là Khổ – Không – Vô Thường, để cho chúng ta sớm thoát khỏi phiền não, tức là để chúng ta sớm ngày được thoát ly khỏi sáu cõi luân hồi và cùng nhau leo lên Tứ Thánh đạo (cộng phán Tứ Thánh).
Kể cho mọi người nghe một câu chuyện. Tại đất nước Câu Lưu có 1 vị Bà-la-môn tên gọi là Ma Ha Mật là 1 nhà phú quý, ngay cả quốc vương của nước Câu Lưu cũng bái ông làm sư. Ma Ha Mật tuy là 1 người giàu có nhưng bản tánh của ông vô cùng tham lam keo kiệt, tham tiền vô cùng, không tin Phật Pháp, nghe thấy thứ gì đó có lợi nhuận là bất chấp lao vào tranh lấy. Ma Ha Mật có 7 cô con gái, 7 cô con gái này đều rất xinh đẹp, ai nấy cũng đều sắc nước hương trời, dáng mạo xinh đẹp không ai sánh bằng, y phục của 7 cô con gái đều được trang trí bằng những chuỗi ngọc vàng bạc rất trang nghiêm (cũng có nghĩa là họ đều ăn mặc rất trang trọng và vô cùng xinh đẹp. Trang nghiêm nghĩa là gì? Quần áo họ mặc rất trang trọng, nên trông rất đẹp). Vị Bà-la-môn vô cùng tự hào về 7 cô con gái của mình. Có người nói với ông: “Này vị Bà-la-môn, hãy để con gái ông trang điểm rồi sau đó đi ra đường, nếu ai cũng khen con gái ông đẹp, tôi sẽ cho ông năm trăm lượng vàng; nếu có ai phê bình con gái ông không đẹp, thì ông sẽ cho tôi lại năm trăm lượng vàng”. Vị Bà-la-môn rất tự tin vào sắc đẹp của con gái mình. Ông cảm thấy việc đánh cược này rất có lợi cho mình nên đã nói với 7 cô con gái rằng: “Các con, tất cả hãy đi trang điểm cho ta, chúng ta cùng đi dạo phố”. Kết quả là trong 90 ngày, ông đưa 7 cô con gái này đi du tuần khắp nơi, ai cũng khen ngợi vẻ đẹp của con gái ông. Vị Bà-la-môn không vì thế mà hài lòng, sau khi nhận được năm trăm lượng vàng, nghe tin có một vị Đức Phật (khi đó Đức Phật ở xứ khác), liền dẫn 7 cô con gái về Tinh Xá Kì Viên, mong Đức Phật khen ngợi con ông, để nâng giá trị 7 cô con gái của ông lên.
Khi nhìn thấy Đức Phật, ông thưa với Đức Phật: “Thưa Đức Phật, Ngài đã du hành khắp các nước, Ngài có bao giờ thấy cô nàng nào xinh đẹp như vậy không?” Ông cho rằng Đức Phật nhất định sẽ khen ngợi, nhưng đâu ngờ rằng Đức Phật lại nói: “Bảy cô gái này, ngoại hình không có gì để nói là xinh đẹp cả”. Vị Bà-la-môn rất không vui: “Trong nước Câu Lưu không ai nói con gái tôi xấu. Khi tôi đến nước Xá Vệ, tại sao Ngài lại nói là con gái tôi xấu xí?” Đức Phật đáp: “Con người trên thế gian đều đánh giá vẻ đẹp của khuôn mặt là trên hết, nhưng ta nghĩ vẻ đẹp thực sự là khi thân không tham lam, miệng không nói
lời ác và ý không khởi tà niệm, đây mới là vẻ đẹp đích thực”. Vị Bà-la-môn lúc này không nói nên lời.
Sau khi kể câu chuyện này, Sư phụ muốn nói với mọi người rằng từ góc độ tâm lý học, sự hiểu biết của con người chúng ta về tinh thần và nhận thức của sự vật, đối với sự hoạt động nhận thức của vật chất, chúng tồn tại sự xâm nhập lẫn nhau, hạn chế lẫn nhau và bao hàm lẫn nhau, đó là sự nhận biết về thực thể. Khi chúng ta nhìn vào một thứ gì đó, mắt chúng ta nhìn thấy những đồ vật có thật, chúng ta nhận biết được thực thể, chúng ta nhận biết được giá trị nội hàm thật sự của nó, thì đó mới thực sự là một phán đoán đúng đắn. Nếu một người bề ngoài trông có vẻ xinh đẹp, quý vị phải xem họ có tấm lòng lương thiện hay không. Trong quá trình thực hành, chúng ta học tập và trải nghiệm Phật Pháp để hình thành cảm xúc chân thực và ý thức đạo đức. Người Phật tử chúng ta nên hiểu thế nào là vẻ đẹp chân chính: những người có thể học Phật là những người không tham, không sân, không hận, đó mới là vẻ đẹp chân chính. Những người không còn tham, sân, si, mạn, nghi mới thực sự mang vẻ đẹp. Quá trình tìm kiếm gu thẩm mỹ về cái đẹp, thực chất là sự theo đuổi vẻ đẹp trong tâm hồn, đòi hỏi sự hài hoà giữa mỹ và thiện, đạt được sự thống nhất giữa cái đẹp và sự thiện lương. Vẻ bên ngoài một sự vật hoàn toàn không đại diện cho nội dung bao hàm bên trong của nó.
Sự tồn tại của con người chúng ta trên thế giới này thực ra rất phức tạp, bởi vì những thứ mà chúng ta nhìn thấy được bằng mắt khá phức tạp và lộn xộn, giữa thiện và ác không thể phân biệt được rõ ràng; có nhiều thứ chúng ta không thể biết được rằng đó là tốt hay xấu. Có những vấn đề thuộc về tính quan niệm mà cha mẹ dạy chúng ta từ nhỏ chưa chắc là đã đúng, vậy nên sẽ khiến cho chúng ta đôi khi không thể phân biệt được trắng đen trên thế gian này. Thực ra, khi quý vị hiểu được bản chất trong nội tâm mình, quý vị phải hiểu được rằng bản chất thuần khiết của nội tâm chính là vĩnh viễn không bao giờ thay đổi. Khi còn bé, chúng ta rất thiện lương, làm hư đồ vật tự giác biết đền bù. Nhưng khi bố mẹ nhìn thấy chúng ta làm hỏng đồ vật, bên cạnh không có ai lại kéo đứa con đi, thậm chí đứa trẻ có thể còn kéo tay bố mẹ và nói: “Bố ơi, con đã làm vỡ đồ của họ rồi, con muốn đền bù cho họ”. Khi quý vị đi sâu vào bản tính của mình, thực tế là không có thiện hay ác. Giống như một tờ giấy trắng, quý vị đã vẽ ra nhiều hoa văn khác nhau, dù là vẽ ra hoa văn gì, cuối cùng quý vị chỉ cần rửa nó bằng loại mực dễ phai, thì nó sẽ giống như tranh sơn dầu, hoa văn có thể được rửa sạch thì nó sẽ trở về lại màu trắng tinh khiết ban đầu. Bản chất của mỗi người đều trong sáng, đây là lý do tại sao chúng ta phải học tập những giáo lý của Phật
giáo. Bổn tánh chúng ta đều thiện lương, chúng ta chỉ có thể hiểu Phật tánh bằng tự tánh của mình, nếu không sẽ bị ngũ dục lục trần làm ô nhiễm và sẽ không bao giờ tìm được Phật tánh – chính là bổn tánh chân chính thuần khiết.
Vì vậy, sư phụ muốn mọi người “thức tâm diệc nhiên” — nghĩa là nhận biết được tâm của bản thân là như vậy. Chúng ta phải dùng nước trí tuệ để rửa sạch bụi bẩn trong tâm và gột rửa những vết nhơ trong lòng chúng ta trong quá khứ. Sự thuần khiết trong nội tâm chúng ta mới là ánh sáng, đây chính là lí do vì sao cần phải học Phật — là để khôi phục lại bản chất chân thật mà chúng ta vốn có. Đức Phật đã nói với tất cả chúng sinh cách đây 2500 năm: Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Chỉ bằng cách tu dưỡng Phật tánh của chính mình, tu dưỡng Phật tánh thuần khiết và lương thiện nhất trong bổn tánh của chúng ta, thì chúng ta mới có thể tìm được ngôi nhà thực sự của mình và mới hiểu được ý nghĩa thực sự của Phật pháp.
Được rồi, hôm nay bài giảng về “Bạch Thoại Phật Pháp” với đại chúng đến đây tạm dừng, chúng tôi sẽ tiếp tục thuyết giảng với đại chúng vào lần phát sóng tiếp theo. Cảm ơn đại chúng.
38. Giải thoát là trí. Sinh quang sinh huệ
Tập 38
GIẢI THOÁT LÀ TRÍ. SINH QUANG SINH HUỆ
(11/04/2020)
Muốn tu tâm thì ai cũng phải tinh tấn, khi tinh tấn phải hoàn toàn buông xả, trong lòng không được có chướng ngại. Hôm nay khi quý vị tụng kinh, mà trong lòng còn suy nghĩ đến rất nhiều việc hoặc nghĩ đến cần phải làm việc gì. Nếu quý vị nói: “Để tôi tu tâm”, thì trong lòng quý vị nhất định sẽ không buông bỏ được. Để tu tâm, mỗi ngày quý vị nên dành ít nhất một đến hai giờ, và dùng sự bền chí của chính mình để kiên trì: “Một hai giờ này là thời gian để tôi niệm kinh mỗi ngày”. Khi một người gặp chướng ngại, thì họ sẽ liền bị đi vào Thân trung ấm, bởi vì Thân trung ấm sẽ ở trong tâm chướng ngại của họ. Khi linh hồn của một người mất đi sự kiểm soát, thì người đó sẽ lập tức sản sinh điên đảo mộng tưởng, người không có chướng ngại sẽ không sợ hãi, và khi không có chướng ngại, thì bản thân họ sẽ không sản sinh ra điên đảo mộng tưởng. Người tu tâm phải kiểm soát ý niệm của mình và đừng để tâm quái ngại khởi lên trong Thân trung ấm. Vì vậy, Sư phụ bảo mọi người hãy tĩnh tâm và ngừng suy nghĩ. Khi một người ngừng suy nghĩ, thì tâm trí sẽ không suy nghĩ tán loạn, khi niệm vừa khởi thì các ý niệm sẽ tăng lên, tiếp theo đó sẽ có tạp niệm toán loạn, vì vậy phải ngừng suy nghĩ.
Chư Bồ Tát thường dạy chúng ta phải học cách sử dụng sức mạnh hộ trì của Pháp Giới. Sức mạnh hộ trì của Pháp Giới là gì? Đó chính là chúng ta cần phải biết cách cầu xin Bồ Tát gia trì cho chúng ta hôm nay tụng kinh được tốt, xin Bồ Tát gia trì cho chúng ta hôm nay tu tâm được tốt. Xin Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi, cho chúng con có được sức mạnh giải thoát trong tâm, để chúng con nâng cao bản thân, khiến tâm không khởi lên chướng ngại. Một số bạn Phật tử thường hỏi: “Thưa Thầy, chúng con có thể cầu xin Quán Thế Âm Bồ Tát cho con tụng kinh được tốt trong ngày hôm nay không?” Tất nhiên là được, Bồ Tát sẽ gia trì mọi điều mà các con muốn hướng tới. Ví dụ như trong tâm quý vị có nảy sinh dục vọng, quý vị cầu xin Bồ Tát gia trì để loại bỏ dục vọng, Bồ Tát vẫn sẽ giúp đỡ quý vị. Nếu trong tâm quý vị có chướng ngại khó mà khắc phục được, quý vị có thể nói với Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: “Xin Bồ Tát ban cho con sức mạnh để con vượt qua những chướng ngại tâm lý này”. Thực ra khi quý vị đang cầu xin, thì trong tâm quý vị đã sản sinh ra một loại năng lực tích cực. Bởi vì quý vị cầu xin Bồ Tát giúp quý vị tiêu trừ nghiệp chướng này, tiêu trừ chướng ngại này, điều đó có nghĩa là quý vị đang tiến bộ và muốn cầu xin Bồ Tát hoá giải những phiền não của bản thân. Đây vốn dĩ là một loại năng lượng tích cực. Bất kỳ năng lượng tích cực nào cũng sẽ loại bỏ được năng lượng tiêu cực trong tâm quý vị, điều này rất quan trọng. Con người chúng ta khi có bệnh,
nếu quý vị xin bác sĩ rằng: “Xin hãy giúp tôi chữa khỏi bệnh của tôi”. Bác sĩ nói: “Tôi nhất định sẽ giúp bạn”. Khi đó sự tự tin của quý vị có phải đã được tăng lên không? Có phải là quý vị sẽ nghĩ rằng: “Tôi có thể vượt qua được căn bệnh này. Tôi có thể loại bỏ căn bệnh này trong cơ thể tôi”. Vì vậy, khi niềm tin xuất hiện cũng là lúc quý vị bắt đầu nhận được sự gia trì rồi. Có rất nhiều người không hiểu được điều này.
Chúng ta phải tận tâm tận lực trong mọi việc chúng ta làm. Tận tâm tận lực nghĩa là gì? Hôm nay niệm kinh tận tâm tận lực, nếu có tạp niệm, con xin Bồ Tát phù hộ. Hôm nay học được điều gì đó bằng cả tấm lòng và cố gắng hết sức. Nếu có chướng ngại, con xin Bồ Tát gia trì cho con. Có phải là quý vị đang tận tâm tận lực rồi không? Nếu luôn cố gắng hết sức mình như vậy thì dần dần quý vị sẽ tinh tấn tu tập khi gặp vấn đề, gặp phải phiền não sẽ biết cách buông bỏ và giải thoát.
Không đặt bất kỳ phiền não nào trong tâm, không đặt bất kỳ chướng ngại hay vướng mắc nào trong tâm là đạt được Trung đạo của Trung quán (ý kiến riêng
*** Trung quán trung đạo, trung quán tức là chánh kiến, chánh kiến về trung Đạo). Có phiền não không? Có đấy. Loại bỏ chúng sau khi chúng đến, chẳng phải đó là Trung đạo của Trung quán (Trung quán trung đạo) sao? Điều đó không có nghĩa là quý vị có thể ngừng suy nghĩ hoàn toàn, bởi vì quý vị không thể ngăn chặn được suy nghĩ của mình. Việc dừng suy nghĩ chỉ là kết quả được tạo ra sau khi quý vị dần dần đạt đến con đường trung đạo của Trung quán (Trung quán trung đạo) và kết quả là một ngày nào đó quý vị có thể sẽ dùng tu vi của mình để ngăn chặn suy nghĩ của chính mình, nhưng điều đó không có nghĩa là quý vị có thể ngăn chặn được nó ngay bây giờ.
Người tu biết hết mọi thăng trầm ở nhân thế: ở nhân gian, khi gặp nhân duyên này thì rắc rối này sẽ phát sinh; khi gặp nhân duyên kia thì rắc rối kia sẽ phát sinh – tức là sống trong nhân duyên và sống trong quả báo. Ai trong chúng ta lại không phải đang sống trong quả báo? Có phải hôm nay quý vị đang phải chịu quả báo của quá khứ không? Hôm nay dạ dày khó chịu. Có phải vì trước đây không chăm sóc tốt cho dạ dày của mình không? Hôm nay, phải bỏ đi những phiền não và tật xấu của bản thân mình, có đau khổ không? Có đôi khi nó đau như tróc một lớp da. Quý vị có muốn thay đổi nó không? Muốn thay đổi. Nếu quý vị chọn đạo Phật và chọn con đường thành Phật, thành Bồ Tát thì quý vị phải thay đổi chính mình. Người học Phật không được để xã hội làm tiêm nhiễm. “Người khác nghĩ gì không quan trọng. Tôi chỉ cần chăm chỉ tu tập và
cố gắng nỗ lực. Dù tôi sống ở thế gian này, nhưng tôi chỉ muốn trở thành một vị Bồ Tát. Những người khác đang sống trong tham, sân, si, mạn, nghi và họ cho rằng mình đúng; còn tôi thì chỉ muốn sống với lòng từ bi hỷ xả của Bồ Tát. Người ta mắng tôi là kẻ ngu ngốc cũng không sao cả. Tôi tình nguyện làm kẻ ngốc để phục vụ tất cả chúng sinh”. Đây là cách quý vị dùng loại nghị lực và niềm tin mạnh mẽ này để vượt qua những trở ngại của chính mình.
Khi chúng ta học theo chư Phật, Bồ Tát, chúng ta phải học cách truyền bá ánh sáng của Phật, sức nóng của Quán Thế Âm Bồ Tát, tình thương của chư vị hộ pháp đối với chúng ta, và trí tuệ trong trường thức thứ 9 mà chúng ta vốn dĩ đáng nên sở hữu tưới khắp thế gian, để cứu độ tất cả chúng sinh và giúp đỡ người khác một kiếp tu thành. Mọi người thử nghĩ xem, nếu một người có thể giúp đỡ người khác một kiếp tu thành, thì bản thân người đó có thể một kiếp tu thành không? Đây chính là lợi nhân lợi kỷ (làm ích cho người làm lợi cho mình).
Chúng ta phải làm cho mọi chúng sinh được sống trong hạnh phúc và thoát khỏi đau khổ; chúng ta phải biến trái tim mình thành trái tim quang minh. Quý vị có biết quang minh là gì không? Quang là năng lượng. Minh là gì? Là Nhật Nguyệt (Mặt trời và mặt trăng) ban ngày cũng rất rõ ràng, ban đêm cũng rất minh bạch, vậy thì đó chính là “Minh”. Một người phải hiểu, hôm nay bất luận là làm gì thì mình cũng đã hiểu được tâm mình và hiểu được sứ mệnh của mình ở thế gian là cứu độ tất cả chúng sinh học Phật và thay đổi bản thân, không thể giống như những người bình thường, ở chốn hồng trần kết duyên với điều gì thì làm điều đó và làm những việc bên ngoài thế gian khi gặp phải. Nhất định phải hiểu rằng khi nhìn thấy nhiều thứ trên đời, mắt đừng mở quá to, khi quý vị nhìn quá rõ hoặc mắt mở quá to, thì quý vị sẽ coi mọi ảo ảnh trên thế gian là có thật, sau đó khiến cho bản thân gặp phải những phiền não và trở ngại trong tâm trí.
Quý vị có tin mình có thể thay đổi không? Nếu có thể thay đổi thì quý vị là đứa con ngoan, nếu không thể thay đổi thì quý vị là đứa con hư. Chỉ cần quý vị tin rằng mọi thứ trên thế giới này sẽ thay đổi, đừng coi bất cứ điều gì và bất cứ ai trên thế giới này hiện đang tạm thời gây rắc rối cho quý vị là có thật, cần hiểu rằng đây chỉ là những phiền muộn và trở ngại nhất thời, thì cuộc đời quý vị sẽ có một bước ngoặt, sẽ có một sự thay đổi, và quý vị sẽ có một ngày mai tốt đẹp hơn. Vì vậy, học Phật có nghĩa là dùng tâm để đạt được giải thoát. Rốt cuộc tâm quý vị muốn giải thoát điều gì? Quý vị còn đang làm gì? Tâm quý vị có sáng suốt không? Tâm quý vị có bị tiêm nhiễm bởi những ngũ dục lục trần của thế
gian con người không? Nó có bị nhiễm phải rất nhiều bụi bẩn không? Vậy nên, phải tiêu trừ phiền não trong tâm, phải khiến cho trí tuệ của Bồ Tát toả ra ánh sáng Bát nhã vô tận, quên đi chính mình và biến mình thành Không Vô thì quý vị sẽ thành tựu được Bồ đề. Người đạt được trí tuệ Bồ Đề trên thực tế họ có được tất cả trí tuệ của thế gian. Cho nên người có thể giải quyết được nhiều phiền não ở đời thì họ có được trí tuệ Bồ Đề. Người mà sở hữu được trí tuệ Bồ Đề thì có thể giải quyết được mọi phiền não. Nhiều người tụng kinh, họ suy nghĩ thông suốt và buông xả hoàn toàn, biết tu tập đúng lý đúng pháp, biết thực hành theo đạo Phật đúng lý đúng pháp, như thế mới có thể đạt được giải thoát và bước vào cảnh giới chí thiện. Tại sao Đức Phật gọi nhiều người là “thiện nam”, “thiện nữ”? Bởi vì một thiện giải trăm nạn, có thiện thì sẽ không có ác, đã là thiện nam thì không được làm ác. Sự kế thừa của Phật pháp có thể mang lại đại công đức và đại trí tuệ của 84.000 pháp môn, chỉ cần mọi người đắc được giáo pháp của đạo Phật là đã có thể sở hữu và gia nhập vào đại công đức và đại trí tuệ của 84.000 pháp môn rồi.
Người học Phật trước hết phải tĩnh tâm, người không tĩnh tâm được thì sẽ học Phật không tốt, nên tâm thanh tịnh là điều hết sức quan trọng. Quý vị có sạch sẽ không? Tâm của quý vị có trong sạch không? Thường nói người này có lương tâm rất xấu, tức là tâm họ không trong sạch. Nếu không mong cầu, “vô dục tự nhiên tâm như thủy”, nghĩa là tâm sẽ trong sạch giống như nước. Tâm không bẩn – Tâm không dơ bẩn thì sẽ trong sáng. Nếu trong tâm quý vị còn nghĩ đến những danh lợi, ăn chời cờ bạc gái gú, thì trong lòng làm sao mà không gặp phiền não? Bởi vì tâm niệm dơ bẩn nên chắc chắn sẽ khởi tâm phiền não. “Tịch định vu tâm” có nghĩa là gì, người an tĩnh mới có thể bình tĩnh được, tâm có thể an tĩnh thì tâm mới ổn định được.
Con người sống trên đời có rất nhiều vô minh – nghĩa là không hiểu, không biết. Bao nhiêu người đã bị lừa, bao nhiêu người đã bị gạt gẫm, cuối cùng họ đều nói: “Tôi không biết, nếu tôi biết thì tôi đã không như thế này”. Tại sao một người lại vô minh? Bởi vì họ có tâm trí bẩn thỉu, bởi vì họ có tâm ích kỷ. Nếu như tâm đủ sự an tĩnh, thì thực sự nhất định sẽ biết được sự vô minh của chính bản thân mình. Người không tham thì nhìn rõ mọi việc trên đời, người suốt ngày tham danh văn, lợi dưỡng ở nhân gian, chắc chắn tâm không trong sạch.
Vô minh tập, vô minh diệt – tức là sự khởi đầu của vô minh và sự chấm dứt vô minh, thực chất là một quá trình tu dưỡng tâm thức. Nhiều người vô minh, không hiểu rồi làm nhiều điều sai trái, nghiệp chướng dần dần tích tụ, gây ra rất
nhiều “nhân”, chúng tập hợp lại rồi đúng không? Vô minh diệt cũng nằm ở nhân quả, sau khi nhận quả báo, vô minh sẽ từ từ biến mất. Tiếp theo còn có vô minh khởi – tức là vô minh tập. Vậy thì làm sao để ngăn cản bản thân không vô minh thêm nữa đây ! Tức là khi vô minh diệt thì phải biết cách diệt trừ hoàn toàn vô minh, là đã hiểu và đã minh bạch, khi minh bạch được đạo lý, tức là diệt trừ vô minh, vậy thì sẽ đạt được rồi. Tôi hiểu rồi, lần sau tôi sẽ không gây ra nhân này nữa, và tôi cũng sẽ không phải chịu quả báo này. Tôi nghĩ lại khi bản thân tôi chịu đau đớn, đó là vì chính cái nhân mà tôi đã gây ra nên mới tạo thành cái quả của nỗi đau hiện tại. Bồ Tát dạy chúng ta phải hiểu những nguyên lý này. Tâm con người sẽ sinh ra vô minh và phiền não cũng như sẽ sinh ra rất nhiều tham, sân, si, mạn, nghi, nhưng đừng quên rằng tâm cũng có thể sinh quang minh, ánh sáng và trí tuệ. Tâm sẽ sinh ra phiền não nhưng cũng sẽ sinh ra quang minh, sinh ra ánh sáng của Phật. Tâm minh tâm kiến tánh cũng có thể tạo ra trí tuệ. Vậy rốt cuộc quý vị muốn sinh ra trí tuệ hay muốn sinh ra phiền não? Đây chính là sự lựa chọn của quý vị. Cũng cùng là “nhất tâm”, tại sao trong giới đạo Phật thường nói “nhất tâm là Phật, nhất tâm là ma”? Điều đó tùy thuộc vào việc tâm quý vị suy nghĩ như thế nào.
Muốn diệt trừ vô minh, trước tiên phải hiểu vô minh được sinh ra như thế nào. Sư phụ nói cho mọi người biết, vô minh là những phiền não vô thuỷ trong quá khứ (những phiền não từ vô thuỷ kiếp) khiến cho chúng ta vẫn chưa thể nghĩ thông suốt và làm rõ khi đến nhân gian này. Vì chúng ta đã làm nhiều điều sai trái, vì đã tạo nhiều nghiệp vô minh, nên ở kiếp này chúng ta hiểu được rằng, Vô minh phát sinh từ sự kết hợp của những phiền não vô thủy của chúng ta và những ảo tưởng ngu xuẩn từ quá khứ (bởi vì sự kết hợp của những mê hoặc ngu xuẩn và phiền não trong vô thuỷ quá khứ nên mới sinh ra vô minh). Kiếp trước đã làm ra bao nhiêu chuyện hồ đồ, kiếp này đã làm bao nhiêu điều ngu si, Vô minh, vọng động, nếu một người thiếu hiểu biết, một người không hiểu thì sẽ nói “Tôi sẽ làm, không sao đâu”, nhưng làm việc một cách bừa thì sẽ xảy ra chuyện. Nếu quý vị hiểu rằng vấn đề này không dễ dàng, nó có nhiều hạn chế và quy tắc, thì quý vị sẽ không hành động một cách mù quáng. Mọi người thấy đấy, những người gặp rắc rối đều do vô minh, vọng động mà ra, nên giới đạo Phật nói, vô minh vọng động thực ra nó đã là một loại ngu si rồi. Nếu quý vị không hiểu, vẫn cố gắng làm bừa và tiếp tục hành động, cho rằng điều đó là đúng, thì cuối cùng càng trở nên ngu dốt hơn, đây là gốc rễ của luân hồi. Cho nên vô minh sinh ra ngu si và cuối cùng đi vào luân hồi. Căn nguyên luân hồi là căn nguyên của sự sống và cái chết trong thế gian này.
39. Chứng ngộ tánh không. Chiếu kiến ngũ uẩn
Tập 39
CHỨNG NGỘ TÁNH KHÔNG, CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN
(11/04/2020)
Nhớ lần trước sư phụ đã dạy mọi người về Không và Tánh Không, nhiều bạn Phật tử phản hồi hơi sâu nhưng vẫn có thể hiểu được và rất thích nghe, nên hôm nay Sư phụ sẽ giới thiệu sơ qua cho mọi người hiểu.
Rỗng Không là gì? Nếu để cho tâm trí của quý vị trống rỗng, thì quý vị có thể làm cho nó trống rỗng được không? Không thể rỗng Không được đâu! Bởi vì trong điền thức thứ tám, điền thức thứ bảy và điền thức thứ sáu của quý vị có rất nhiều ý niệm và tạp niệm, quý vị hoàn toàn không thể trống rỗng được. Vậy làm sao để làm cho nó trống rỗng đây? Có nghĩa là từ từ, từng bước, từng chút một, tẩy sạch mọi thói quen vô minh, phiền não vô minh, chướng ngại vô minh và nghiệp chướng trong các kiếp quá khứ ở trường thức thứ tám thức A-lại-da, rồi từ từ trút bỏ mọi thứ, giống như chuyển nhà vậy, giải quyết từng việc một, và dọn ra từng thứ một. Một khi đã dọn sạch, thì quý vị sẽ hoàn toàn vô tướng và nghĩ thông suốt. Sẽ không tiếp tục nghĩ không thông về những điều này nữa và sẽ không còn hình tướng nữa.
Sư Phụ đã nói với mọi người rằng, con người không chấp tướng về bất cứ điều gì, nghĩa là họ không bao giờ nghĩ: “Đây là việc tốt, tôi phải đi làm”. Thậm chí đi cứu người mà không hề suy nghĩ, và chưa bao giờ nghĩ rằng: “Tôi phải đi cứu người” cứu người thì cứ như vậy mà đi cứu thôi. Cứu người vốn dĩ là việc người Phật tử nên làm; một người tốt là làm việc tốt, làm mà như không làm, trong tâm có nguyện lực cũng giống như không có nguyện lực. Lấy một ví dụ đơn giản, mỗi người trong chúng ta đều đã phát nguyện với Bồ Tát rằng: “Con đã ăn chay”. Mỗi người chúng ta đã từng phát nguyện qua chưa? Đã từng phát nguyện qua rồi. Sau khi ăn chay, trong lòng đã nghĩ thông suốt: “Tôi ăn chay rồi và tôi sẽ ăn chay hàng ngày”. Khi quý vị đã ăn chay mỗi ngày, quý vị có nghĩ rằng: “Hôm nay tôi lại ăn chay rồi và hôm nay tôi lại thực hiện được lời nguyện của mình không”? Quý vị không nghĩ đến điều đó, vì quý vị cho rằng ăn chay đã là chuyện bình thường vì nó đã in sâu vào trường thức thứ tám rồi, đó là loại từ bi mà người học Phật hất định phải có, đây chính là Vô tướng. Sau khi Vô tướng sẽ Vô tác và Vô nguyện. (Tức là không mong cầu, không ham muốn)
Đây là điều Sư phụ nói với mọi người, Tánh Không tự nhiên là cảnh giới cao nhất. Tánh Không tự nhiên – tức là chúng ta không thể mong có được sự trống rỗng trong lòng mình, nếu quý vị nghĩ: “Tôi muốn trống rỗng, tôi muốn trống rỗng”, thì sẽ không thể trống rỗng được. Làm việc thiện một cách tự nhiên, đó
chính là thực sự làm việc tốt; giúp đỡ người khác một cách tự nhiên, đó chính là thực sự giúp đỡ người khác. Nếu quý vị tự ép buộc bản thân mình và nói: “Tôi muốn làm điều tốt, tôi muốn giúp đỡ người khác”, vậy thì quý vị vẫn đang “làm” và vẫn còn “có hành động” (“vô tác” chính là tự nhiên), và không thể phản ánh lên được tánh Không. Quý vị nói: “Tôi muốn khiến tâm mình hoàn toàn trống rỗng”. Nếu quý vị có tâm niệm muốn “khiến bản thân trống rỗng”, thì quý vị vẫn còn có tâm muốn khiến mình được trống rỗng; nhiều người nói: “Tôi muốn trở thành Bồ Tát”, thì quý vị vẫn còn có cái tâm “Muốn trở thành Bồ Tát” này. Nhiều người hàng ngày đã làm việc Bồ Tát rồi và họ chưa bao giờ nghĩ rằng: “Tôi muốn thành Bồ Tát”. Nhưng họ đang làm việc Bồ Tát mỗi ngày. Đây chính là diệu dụng của Tánh Không, để quý vị có thể có được công đức lớn hơn..
Vì vậy, cảnh giới của quang minh là Vô tác. Khi cảnh giới của một người đạt đến một mức độ quang minh nhất định. Cũng giống như một người mà khi người khác nhìn thấy anh ta bước vào thì anh ta chính là người tốt, khi một người bạn cùng lớp bước vào, mọi người nhìn người bạn này và nghĩ: người này có thành tích tốt, bởi vì người bạn học này cho đến bây giờ đều có thành tích tốt mỗi ngày. Điều này chính là đã “Vô tác”, hôm nay khi bước vào lớp cũng không cần phải nói với mọi người rằng: “Hãy nhìn xem thành tích của tôi tốt như thế nào”. Nếu chúng ta trong tu hành mà có hành động, nghĩa là đã có tu và có chứng (đắc), thực ra đó vẫn là một loại tu vi có triển vọng. Nếu quý vị nghĩ: “Tôi đang tu tập, tôi có chứng nhận, tôi có chứng ngộ”, thì quý vị vẫn đang trong quá trình chứng ngộ. Sự chứng ngộ của Phật là không cần phải được “chứng thực”; Mà sự chứng ngộ của tánh Không vẫn nằm ở quá trình chứng ngộ. Tánh Không của Bồ Tát không cần phải chứng ngộ, Ngài nhất định là có Tánh Không Bát nhã, nên Vô tác tức là không tu và không chứng ngộ. Người đắc Đạo thì ngồi như thế nào, đứng ra sao và cho dù có nhảy lên thì họ cũng đắc đạo; ngồi xuống họ cũng là người đắc đạo; bước đi họ cũng là người đắc đạo; khi nhục thân đã kết thúc, pháp thân của họ bất sinh bất diệt và họ vẫn đang đắc đạo.
Nếu mọi người hiểu được những đạo lý này, thì sẽ biết tánh Không thật sự là gì. Sư phụ đang dạy cho mọi người cách đạt được tánh Không, Vô tướng và Vô tác. Việc này ngày nào tôi cũng làm, khi quen rồi thì coi như chưa từng làm qua, ngày nào tôi cũng trả lời điện thoại để giúp đỡ người khác, bỗng nhiên có người nói: “Bạn trả lời điện thoại, bạn đang giúp đỡ người khác, bạn đang độ người khác”. Nhưng người trả lời điện thoại lại không cảm thấy rằng: “Tôi trả lời điện thoại hàng ngày là tôi đang giúp đỡ người khác mỗi ngày.” Nếu Vô tác và Vô tướng, thì ý thức của quý vị tự nhiên sẽ
trống rỗng, bởi vì ý thức của quý vị hoàn toàn trong sự trống rỗng, vì hàng ngày quý vị làm việc thiện và giúp đỡ người khác nên ý thức của quý vị được giải thoát và bước vào vào tánh Không, quý vị sẽ nhập đạo một cách tự nhiên— đó chính là nhập vào Phật đạo. Người này trong 365 ngày mỗi ngày đều làm việc tốt, mỗi ngày làm một chút việc tốt, một ngày, hai ngày, ba ngày … đợi đến khi một năm trôi qua, rất tự nhiên mà người đó trở thành “người tốt” rồi.
Một người bạn cùng lớp mỗi ngày đều làm việc thiện, sau một năm bạn ấy được đánh giá là “học sinh gương mẫu” thì đương nhiên bạn ấy sẽ trở thành “học sinh gương mẫu” và đã “nhập đạo” rồi. Bạn ấy trở thành “học sinh gương mẫu” chính vì sự thay đổi từng ngày của bạn ấy.
Khi chúng ta học Phật, bất kể là Đại thừa hay Tiểu thừa (ngày xưa nói “Thừa” thì thực chất có nghĩa là thuyền, Đại thừa và Tiểu thừa có nghĩa là một chiếc thuyền Pháp lớn để cứu độ chúng sinh, và một chiếc thuyền Pháp nhỏ để cứu độ chính mình), bất kể tôn giáo hay môn phái nào, mục tiêu cuối cùng là tìm kiếm sự giải thoát. Có pháp môn hay tông phái nào mà cuối cùng không nhằm vào mục đích tìm kiếm sự giải thoát đúng không? Mục đích học Phật đến cuối cùng là gì, đó là để thoát khỏi phiền não, đau khổ và tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình. Vậy giải thoát là gì? Nhiều người cho rằng: “Tôi muốn giải thoát, tôi phải nỗ lực”, nhưng nỗ lực không phải là giải thoát, nhiều người nói rằng: “Tôi muốn giải thoát, tôi tin vào Bồ Tát”, nhưng tín ngưỡng không phải là giải thoát. Vậy giải thoát là gì? Giải thoát là sử dụng Phật tánh trong trường thức thứ chín của quý vị để tạo ra một loại trí tuệ và Bát nhã của tánh Không, tác động đến A-lại-da thức (là thức thứ tám) và Mạt-na thức (là thức thứ bảy) của quý vị, và từ từ di chuyển vào thức thứ sáu của quý vị, đó là thức của ý thức giác quan. Dần dần, quý vị sẽ hiểu rằng mọi thứ đều là khổ-không-vô thường, và mọi thứ vốn dĩ đều là trống rỗng và hư ảo. Khi quý vị hiểu được tất cả những điều này, thì quý vị sẽ bắt đầu đạt được những thành tựu to lớn trong việc học Phật, bởi vì quý vị đã bước vào cảnh giới của Phật. Vì vậy, chỉ khi một người có thể bước vào cảnh giới của Phật, thì người đó chính là Phật ở thế gian.
Học Phật không phải là bái lạy Phật, mê tín, hay cầu xin Bồ Tát phù hộ cho gia đình tốt, hay là một loại phúc báo, mà chính là giải thoát. Nó không phải là mê tín, đó là sự giải thoát của trí tuệ và giúp con người hoàn toàn buông bỏ những lo lắng. Nếu hôm nay vẫn không buông bỏ được thì sẽ không thể tinh tấn và cũng không thể nhẫn nhục được; nếu hôm nay không buông bỏ được thì sẽ không thể thoát khỏi lục đạo luân hồi của cõi người, vì vậy cảnh giới của quý vị sẽ không bao giờ có thể nâng cao đến mức độ chánh tín và chánh niệm. Sự khác biệt giữa chánh tín chánh niệm và trí tuệ là gì? Người có chánh tín chánh niệm sao lại không có được trí tuệ? “Tôi tin chắc rằng đây là chánh đạo.” Nếu thậm
chí không có được chánh niệm và ý nghĩ đúng đắn như vậy thì làm sao đạt được trí tuệ Bát nhã của Bồ Tát? Phải hiểu được cái đạo lý này. Phải rời khỏi tâm, ý và thức để lĩnh hội Phật. Điều sư phụ đang nói với mọi người là hãy buông bỏ cái tâm bên ngoài của chính mình. Rời khỏi tâm là rời khỏi một số tạp niệm, tạp tâm, phàm tâm, tâm phiền não, tâm đố kỵ và một số tâm thái xấu để lĩnh hội Phật pháp, gọi là “ly tâm ý thức tham”(rời khỏi tâm, ý và thức để lĩnh hội). Khi tu đến cuối cùng, ngay cả ý thức của nội tâm cũng mất đi, để lĩnh hội Phật pháp thì quý vị sẽ có được tánh Không và tham ngộ. Đây chính là những diệu dụng của đạo Phật.
Chúng ta cần hiểu những điều này và dần dần chúng ta sẽ biết cách kiểm soát sáu căn của mình. Phật học chia sinh mệnh của chúng ta thành sáu cơ quan: mắt
, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đối với ngoại trần (lục trần của bên ngoài) mà nói, thì sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Phật pháp lại chia chúng ta thành năm uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành và thức. Sư phụ giảng cho quý vị hiểu, hàng ngày sáu căn của chúng ta sẽ tiếp xúc với ngoại trần: mắt chúng ta sẽ tiếp xúc với sắc (nhìn thấy), tai chúng ta sẽ tiếp xúc với âm thanh, mũi chúng ta sẽ ngửi thấy hương thơm, lưỡi chúng ta sẽ có cơ quan vị giác và cơ thể chúng ta sẽ có sự tiếp xúc. Sáu căn bên ngoài của con người liên quan đến sáu trần bên ngoài (gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), trong quá trình tiếp xúc nếu sinh ra chánh niệm, thì quý vị có chánh tín; Nếu quý vị tiếp xúc với ngoại trần và sinh ra tà niệm, thì quý vị sẽ có tà tín – tức là không có chánh tín. Làm sao để phân biệt được những loại này, để mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng ta không tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; dù cho đã tiếp xúc rồi, chúng ta cũng có thể khắc phục được nó và biết cái nào là đúng, cái nào là sai, thì chúng ta cần sử dụng năm uẩn của mình. Để hiểu được năm uẩn, phải hoàn toàn nhận thức thấu đáo về năm uẩn và hiểu được đạo lý của chúng thì mới có thể ngộ đạo. Trong “Tâm Kinh” có câu “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.
Từ đây mọi người sẽ biết “ngũ uẩn” quan trọng thế nào đối với cảnh giới của người học Phật.
Duy Thức Tông chủ trương vạn pháp duy thức, tức là bất kể thế giới này xảy ra chuyện gì, đều là do ý thức gây ra biến hóa. Khi thế giới vật chất và đời sống tinh thần kết hợp lại với nhau, chúng được chia thành 8 loại “thức”, đây là một hệ thống khác nên giới Phật giáo nói đến “bát thức điền”. Trong tám thức của quý vị, ý thức thứ sáu là tư duy ý thức đầu tiên tiếp xúc với thế giới bên ngoài, thực tế người ta thường nói đến thức thứ sáu, thức thứ bảy và thức thứ tám,
thông thường chúng ta không nhắc đến thức thứ chín. Thức thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, theo thuyết về thức, thì đều khởi lên từ tâm. Ví dụ, cái cảm giác của thức thứ sáu có phải là được phát sinh từ tâm không? “Cái này rất nóng”, “rất tốt”, “bây giờ trời lạnh” – đây là thức của tâm có phải không?
Thức thứ bảy, “người này rất tốt, tôi rất thích họ”. “Họ là người xấu, tôi rất ghét họ” – Phân biệt ý thức có phải cũng là duy tâm không? Một khi ý thức này đã nằm sâu thẳm trong tâm hồn và không thể phai mờ, đã tồn tại trong thức thứ tám trong tâm của quý vị, vậy thì có phải là tâm thức của quý vị đã tồn tại không? Nếu tâm thức của quý vị không tồn tại, thì thức thứ tám không thể tồn tại, vì vậy đó chính là chủ nghĩa duy tâm. Duy thức luận chính là đang nói đến tất cả vạn pháp duy thức – tức là ý thức của quý vị.
Bát thức (tức là thức thứ tám) là vua của tâm. Vua của tâm là cái gì? Một khi đã tiến vào thức thứ tám của quý vị thì khó có thể thay đổi, tốt hay xấu đều ở trong tâm quý vị. Ý thức thứ tám của quý vị cho rằng thứ này xấu, nhưng nó có khả năng tốt trong xã hội thực tế, nhưng quý vị không biết nó tốt; ý thức thứ tám của quý vị cho rằng thứ này có mùi khó chịu, nhưng người khác ăn rồi đều thấy nó ngon, nhưng quý vị vẫn cho rằng nó có mùi hôi, vì nó đã được định sẵn trong thức thứ tám, nên quý vị sẽ không nghĩ nó có mùi thơm. Đây là sự khác biệt giữa quan niệm của mỗi người. Khi quý vị thường xuyên phạm sai lầm và sau khi ý thức thứ sáu của người khác bị kích thích, việc nhận dạng của ý thức thứ bảy sẽ dần dần được biết đến, khi đó sẽ bước vào ý thức thứ tám và sẽ khó thay đổi được quan điểm của người khác về quý vị. Vì vậy, chúng ta không thể thường xuyên làm điều sai trái trong vòng luân hồi, và chúng ta không thể thường xuyên phát nguyện trong luân hồi: “Con phát nguyện, và con sẽ không bao giờ làm điều đó nữa …” làm người phải có khí phách. Có bao nhiêu người trong số chúng ta đã quỳ trước Bồ Tát phát nguyện và đã sửa đổi được chưa? Quý vị thấy trong “Phật Tử Thiên Địa Du Kí”, có rất nhiều người bị lôi xuống, nói rằng họ đã từng học Phật và đã từng muốn sửa đổi, nhưng cuối cùng họ không sửa đổi. Tại sao vậy? Đó chính là liệt căn tính.
Sư Phụ nói với mọi người rằng vua của tâm là thức thứ tám và đừng bao giờ bước vào thức thứ tám. Bởi vì tâm của quý vị chính là ý của quý vị, vậy nên người ta mới hỏi câu: “Bạn nghĩ sao về chuyện này?” “Bạn đã nghĩ gì về nó chưa? Cuối cùng là bạn nghĩ sao?” Thực ra đây là đang đề cập đến ý thức thứ tám. Phân loại ý thức của tâm thành ba cấp độ. Ví dụ: Tâm của quý vị là biển rộng, thì ý niệm của quý vị giống như những cơn sóng trên biển, hết ý niệm này
đến ý niệm khác trỗi dậy. Quý vị suy nghĩ không ngừng nghỉ, và ý niệm cũng vậy. Trong “đại dương”, tâm của quý vị bị khuấy động bởi tầng tầng lớp lớp sóng lớn xô vào nhau, cũng giống như những bọt sóng trên biển. Vậy nên, Bồ Tát dạy chúng ta phải hiểu được Vạn pháp duy tâm, vạn pháp duy thức. Bất luận là thế nào đi nữa, hãy bảo vệ tâm của mình. Bồ Tát đã nhiều lần dạy chúng ta phải tu tâm, vừa mở miệng là phải tu tâm; tu tức là tu chứng, nếu quý vị có thể tu chứng được tâm của mình thì quý vị đã tu tâm thành công.
Do đó, có một mối liên hệ tự nhiên giữa tánh Không, Vô tướng, Vô tác với tâm, ý, thức của quý vị. Quý vị thử nghĩ xem, nếu quý vị đã trống rỗng thì tâm của quý vị cũng phải trống rỗng; Vô tướng nghĩa là ý thức và ý niệm của quý vị phải không có hình tướng; Vô tác có nghĩa là “Tôi chưa làm qua điều đó” trong ý thức của tôi. Sư phụ sẽ lấy một ví dụ, ví dụ như quý vị muốn lợi dụng người khác, trong đầu quý vị lại nghĩ: “Việc này rất bình thường, mình lợi dụng anh ta thì có sao đâu? Anh ta cũng lợi dụng mình.” Sau đó, ý thức của quý vị sẽ bắt đầu sản sinh ra một loại hành vi đó là “Tôi sẽ làm điều đó, và tôi sẽ làm điều gì đó với anh ta.” Vậy thì cái “thức” này đã thành công. Tâm, ý, thức có liên quan gì đến tánh Không, Vô tướng và Vô tác? Nếu quý vị không có ý kiến với người này và không muốn lợi dụng người đó thì trong suy nghĩ của quý vị sẽ cảm thấy rằng đều là bình đẳng giống nhau, mình không nên làm như vậy – tức là đã trống rỗng. Sau khi trống rỗng, quý vị nghĩ “Anh ấy giống như anh chị em của mình nên mình không thể coi anh ấy là người xấu mà trừng phạt và đối xử tệ bạc với anh ấy” – tức là quý vị đã vô tướng rồi. Đã không có hình tướng, thì làm sao quý vị có thể làm những hành vi đó đối với anh ta, làm sao quý vị có thể đối xử tệ với anh ta nữa chứ? Chính là mối liên quan này. Đây chính là điều mà sư phụ đang giảng với mọi người, “Vô tác” – tức là không có làm, vì tâm quý vị không muốn làm nên quý vị sẽ không làm; tâm quý vị đã trống rỗng, thì quý vị sẽ không muốn làm nữa. Nhưng nhiều người tâm của họ chưa trống rỗng thì họ sẽ làm nhiều điều không tốt. Dù cho tâm quý vị vẫn nghĩ về làm việc thiện và nói: “Tôi muốn giúp đỡ anh ấy vì anh ấy đã bị người khác kiện hoặc vì anh ấy đã bị ức hiếp.” Nếu trong lòng quý vị muốn giúp đỡ anh ấy, thì chắc chắn quý vị sẽ có hành động, vậy thì quý vị có khả năng đi sai hướng rồi. Bởi vì người bị kiện này cũng không phải là người tốt, người này đã ức hiếp, xúc phạm người khác trong một thời gian dài, cuối cùng mới bị người ta kiện. Nếu quý vị giúp đỡ anh ta, trên thực tế quý vị đã bước vào nhân quả của anh ta, vì vậy tâm thức của quý vị sẽ bị lạc lối.
Làm sao trống rỗng đây? Về sau Phật giáo dạy chúng ta không nghĩ đến thiện hay ác, bởi vì thiện ác ở thế gian này chúng ta không thể đánh giá được, đó là một loại nhân quả. Làm sao để có thể hiểu được những đạo lý này đây? Phải sản sinh ra vô lượng trí tuệ. Bồ Tát dạy chúng ta rằng phải giải thoát mới có thể bước vào “Bất Nhị Pháp Môn”. Nếu hôm nay quý vị đã nhập vào “Tam Giải Thoát Môn” thì sẽ nhập vào “Bất Nhị Pháp Môn”. Không, Vô tướng và Vô tác có thể chứng nhập bởi bất kỳ pháp môn nào, chỉ cần nhất môn thâm nhập, thì trí tuệ của quý vị sẽ tăng trưởng và khai ngộ minh tánh. Tại sao lại nói như vậy? Không, Vô tướng và Vô tác chính là “Tam Giải Thoát Môn”: nếu quý vị có thể trống rỗng thì sẽ có Vô tướng và Vô tác; nếu hôm nay quý vị có thể Vô tướng thì nhất định sẽ trống rỗng và sẽ không làm gì cả – tức là sẽ không có hành vi. “Nếu hôm nay quý vị không có hành vi gì, chắc chắn quý vị đã suy nghĩ thông suốt và trống rỗng rồi, đó nhất định là Vô tướng, vậy thì việc bố thí Vô tướng sẽ được bắt đầu.
Đôi khi con người khó hiểu Phật pháp, trong đạo Phật có câu “vọng tưởng chính là Bát nhã”. Nhiều người hoàn toàn không thể hiểu được “vọng tưởng chính là Bát nhã” nghĩa là gì. Chẳng lẽ vọng tưởng có thể trở thành Bát nhã sao? Thực ra, nếu biết rằng vọng tưởng là trống Không thì vọng tưởng là Bát nhã. Bởi vì sau khi có vọng tưởng, quý vị biết rằng đây là vọng tưởng, nếu quý vị đã đạt được tánh Không, thì sẽ sở hữu được Bát nhã. Nếu quý vị chấp vào sự sở hữu Bát nhã và quý vị cảm thấy “Tôi có trí tuệ, tôi có trí tuệ của Đức Phật”, vậy quý vị đang cố chấp vào “Bát nhã thị hữu”, vậy thì Bát nhã chính là vọng tưởng. Hy vọng mọi người sẽ hiểu được những lý luận thâm sâu này của Phật giáo. Sư phụ sẽ giải thích đơn giản một chút. “Biết rằng vọng tưởng là trống rỗng”: Quý vị biết việc này không tốt, không thể làm được,vậy “ trống rỗng” nghĩa là quý vị đã hiểu được việc đó, đã biết rằng việc này không tốt, khi quý vị cho rằng việc này không tốt, sẽ không đi làm thì quý vị có phải đã có trí tuệ Bát Nhã không? Có rồi. Vậy thì “Chấp Bát Nhã thị hữu” có nghĩa là “ Con người tôi có thể hiểu được việc gì nên làm, việc gì không nên làm”. Vậy thì làm sao quý vị biết được điều gì nên làm và điều gì không nên làm? Nếu quý vị cố chấp vào Bát nhã thì Bát nhã chính là vọng tưởng. Cái trí tuệ này của quý vị cũng do vọng tưởng mà ra, không phải là sự giải thoát thực sự. Vì vậy, sự cao siêu của đạo Phật nằm ở việc nâng cao cảnh giới, hơn nữa cảnh giới này sẽ không ngừng thăng tiến và đạt đến vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
40. Tránh xa sự đố kỵ, Vượt qua chính mình
Tập 40
TRÁNH XA SỰ ĐỐ KỴ, VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH
(11/04/2020)
Hôm nay Đài trưởng sẽ kể cho đại chúng nghe một câu chuyện.
Từ xa xưa, con người đã có một thói xấu lớn, đó là tính đố kỵ. Tại sao con người đều có tính đố kỵ? Bởi vì đố kỵ là để tranh giành những quyền và lợi ích nhất định, mọi người đều vì tranh giành một số quyền và lợi ích nào đó, khi đó tương ứng sẽ tạo ra một số người may mắn (một số người may mắn trong cuộc cạnh tranh, họ đoạt được và họ đã sở hữu) hoặc người may mắn tiềm ẩn (tức là người này có khả năng sẽ đoạt được) sẽ có trạng thái tâm lý thờ ơ, bị hạ thấp hoặc bài xích, thậm chí trong lòng có trạng thái xem như là kẻ thù, tất cả được gọi là đố kỵ. Vì thế đố kỵ là một tật xấu trong sâu thẳm nội tâm chúng ta rất khó để loại bỏ. Mỗi một người đều sẽ có lòng đố kỵ với người khác, hầu hết mọi người khi thấy người khác có thành tích thì ghen tị và cảm thấy rất buồn, khi thấy người khác được khen ngợi, thì cảm thấy khó chịu và thường tự nghĩ: “Tại sao người được khen ngợi lại không phải là mình, mà lại là anh ta?” Thậm chí có người còn tự đề cao bản thân mình và chê bai người khác. Vì muốn biểu dương bản thân mà họ sẵn sàng hạ thấp người khác để thể hiện sự kiêu ngạo của mình. Đố kỵ là căn nguyên của bệnh tật nên từ xa xưa, chỉ cần ở nơi có người thì ở đó sẽ có sự đố kỵ. Đố kỵ có nghĩa là khi người khác sắp thành công thì người này sẽ tạo ra trở ngại cho họ. Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài liên tục truyền bá Phật giáo khắp nơi. Vị trưởng lão Cấp Cô Độc mong Đức Phật có thể ở lại nước Xá Vệ (Sravasti – Savatthi) của mình để hoằng pháp và cứu độ tất cả chúng sinh, ông không tiếc tiền mà dát vàng khắp vùng đất và mua một mảnh đất của hoàng tử Jeta (Bởi vì đối phương nói nếu ông ấy rải vàng ra khắp mặt đất thì sẽ cho ông mảnh đất này, kết quả trưởng lão Cấp Cô Độc thực sự đã kéo rất nhiều xe vàng tới và rải trên mặt đất). Khi ngài đang xây dựng Tinh Xá Kì Viên, những tín đồ ngoại giáo ở nước Xá Vệ khi nghe điều này đã rất kinh ngạc và cho rằng: “Đó là lãnh thổ của chúng tôi, nếu Sa-môn Cù Đàm đến đây (Danh hiệu được đặt cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vào thời đó) đức tin của những tín đồ của chúng tôi sẽ bị ảnh hưởng, và số người cúng dường cho chúng tôi sẽ giảm đi.” Vào thời điểm này, những tín đồ ngoại giáo đã nghĩ ra mọi cách để cản trở việc xây dựng công trình này.
Hành động đầu tiên của họ là phản đối trưởng lão Cấp Cô Độc và nói: “Ông biết Cù Đàm đã có nơi ở ổn định rồi, vậy tại sao ông lại mời ông ấy đến đây? Rốt cuộc là ông ấy có khả năng gì?” Những tín đồ ngoại giáo thảo luận xôn xao: “Đúng đấy! Tại sao lại mời ông ta đến đây? Chúng ta ở đây đang rất tốt mà.”
Nhưng việc cung kính mời Đức Phật đến đây hoằng pháp là tâm nguyện của vị trưởng lão Cấp Cô Độc nên dù người khác có nói gì thì ông cũng không bị ảnh hưởng bởi các ý kiến.
Sự phản đối của các tín đồ ngoại giáo không có hiệu quả nên họ lại phản ánh với nhà vua. Vua đã nghe nói đến Đức Phật từ lâu, hơn nữa lại hảo lạc Phật Pháp (rất thích Phật Pháp) nên không nghe theo lời nói của các tín đồ ngoại giáo. Những tín đồ ngoại giáo không còn cách nào khác đành quay lại gặp trưởng lão Cấp Cô Độc và nói: “Nếu muốn mời đoàn thể của Sa Môn Cù Đàm đến đây thì phải đồng ý với chúng tôi một điều kiện, nếu không chúng tôi sẽ không tín phục.”
Trưởng giả hỏi: “Các ngài có điều kiện gì? Chỉ cần sau này mọi người có thể sống hòa thuận, cho dù các ngài đưa ra điều kiện gì, thì tôi cũng sẽ cố gắng tìm cách làm theo.”
Chúng đệ tử của ngoại đạo nói: “Có một vị Xá Lợi Phất dưới quyền Sa Môn Cù Đàm. Nghe nói trí tuệ của ông ấy là số một. Chúng tôi muốn mời ông ấy đến so tài với chúng tôi xem ai giỏi hơn”.
Trưởng lão nhận thấy việc này không khó nên đi đến thành Vương Xá để trình bày sự việc với Đức Phật. Đức Phật cho rằng nếu muốn giáo hóa Xá Vệ quốc thì đây là sự khởi đầu tốt nhất và cùng là cơ hội rất tốt. Vì thế Ngài cử Xá Lợi Phất đến đó. Đức Phật nói: “Công trình địa phương đang được xây dựng, tốt nhất ông nên đi xoa dịu lòng người dân địa phương trước đã.” Xá Lợi Phất vui vẻ nhận lời: “Tạ ơn Đức Phật”, rồi rời đi.
Trưởng lão Cấp Cô Độc thỉnh giáo Xá Lợi Phất, nói: “Khi nào Tôn giả mới có thể cùng với các tín đồ ngoại giáo biện luận đọ sức vậy?”
Xá Lợi Phất trả lời: “Sau bảy ngày nhé, cho họ bảy ngày để chuẩn bị”.
Trưởng lão liền lập tức liên lạc với các tín đồ ngoại giáo. Có một vị lãnh đạo được kính trọng nhất trong giới ngoại giáo, ông cho rằng đây là một sự kiện lớn, thắng bại đều phụ thuộc vào cuộc tranh tài này, nếu ngoại giáo thua rồi, Tăng đoàn của Sa Môn vào thành, thì lợi dưỡng và địa vị ban đầu của ngoại giáo sẽ bị ảnh hưởng rất lớn nên cuộc biện luận này phải hết sức thận trọng. Trong bảy ngày, họ đã đi khắp nơi để tìm kiếm những nhân tài chuẩn bị cho cuộc biện luận, đồng thời cũng tập hợp nhiều người để giúp đỡ trong ngày.
Trưởng lão Cấp Cô Độc cũng rất thận trọng trong vấn đề này, ông bày biện một diễn đài lớn và cẩn thận sắp xếp chỗ ngồi cho Xá Lợi Phất và những tín đồ ngoại giáo. Ngày thi đấu cuối cùng cũng đã đến, và vì tổ chức tại địa phương nên các tín đồ ngoại giáo hùng mạnh xếp hàng hiên ngang bước vào. Có rất nhiều người, kể cả những người cưỡi ngựa và đi bộ, tất cả đều đến tham dự. Xá Lợi Phất ra trận một mình, và một mình ngồi đó.
Xá Lợi Phất nói với mọi người: “Được rồi, thời gian đã đến, các ngươi lựa chọn biện luận hay so sánh thần thông?
Những tín đồ ngoại giáo nói: “Nên tranh luận từ đâu? Không có đạo lý gì để tranh luận cả, hay là chúng ta hãy đọ thần thông đi.” “Đúng vậy, đọ thần thông đi…” “Đọ thần thông! Đọ thần thông!” Mọi người đều hùa theo.
Những tín đồ ngoại giáo lập tức huyễn hóa ra một khu vườn rất đẹp, với hoa nở rộ và hương thơm tràn ngập. Xá Lợi Phất ngay khi nhìn thấy họ huyễn hóa ra một khu vườn, liền hóa ra một cơn gió mát. Hoa trong vườn đung đưa, như chốn bồng lai tiên cảnh, tiếc thay, chẳng bao lâu sau, cánh hoa và chiếc lá lần lượt rơi xuống. Lần này ngoại giáo đã bị thua.
Sau đó, những tín đồ ngoại giáo đã hóa ra một cái ao nước trong vắt, có thể nhìn thấy đáy ao. Khi Xá Lợi Phất thấy vậy, ngài lập tức hóa ra một con voi tắm trong ao nước sạch này. Ngay khi con voi lật mình lăn qua, nước trong ao trở nên đục ngầu. Tất nhiên, ngoại giáo lại thua ở lần thách đấu này.
Khi đó, các tín đồ ngoại giáo rất tức giận, hóa ra một con rồng chín đầu hung dữ lao về phía Xá Lợi Phất, Xá Lợi Phất vừa nhìn thấy liền hoá ra một con chim đại bàng cánh vàng (Garuda), nó tự do bay lượn rồi ngồi vững trên đầu con rồng chín đầu. Lúc này, những tín đồ ngoại giáo rất hoảng sợ và chịu thua. Một số người lập tức cầu xin quy y, nhưng có một số người cứng đầu không phục và bỏ đi.
Những người bướng bỉnh đó vẫn muốn cản trở tiến độ của công trình, còn giả làm công nhân xây dựng, yêu cầu trưởng giả cho họ làm việc. Trưởng giả biết rõ rằng những tín đồ ngoại giáo có thể trà trộn vào đám công nhân nên ông nói với Xá Lợi Phất. Xá Lợi Phất nói: “Trưởng giả, nếu ngài muốn đẩy nhanh tiến độ công trình tất nhiên phải kêu gọi thêm nhiều công nhân nữa. Thôi, hãy để họ đến.” Xá Lợi Phất đích thân ở lại đó để giám sát công việc.
Một ngày nọ, Xá Lợi Phất đang ở dưới một gốc cây lớn thì nhìn thấy một nhóm công nhân đến , những người công nhân này rất kỳ lạ, tay cầm gậy, cuốc, xẻng và các dụng cụ khác, hung dữ tiến về phía Xá Lợi Phất. Nhưng không biết vì lý do gì, mọi người đột nhiên cảm thấy mệt mỏi đến mức giống như đang ngủ say, không thể nhấc mí mắt lên, cố gắng tiến về phía trước, nhưng bước chân lại càng nặng nề hơn, không thể tự chủ được. Họ mệt đến mức ngồi bệt xuống đất và cầu cứu Xá Lợi Phất giúp đỡ. Và họ cũng biết Xá Lợi Phất đã dùng pháp lực.
Xá Lợi Phất lập tức tiến tới và thuyết giảng “Pháp Tứ Đế” cho bọn họ. Những người công nhân sau khi nghe xong giống đã tỉnh cơn mê, mọi người đều bị Xá Lợi Phất khuất phục. Từ đó trở đi, công trình đã hoàn thành một cách suôn sẻ và đúng tiến độ. Từ đó bắt đầu xuất hiện Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên. Chính vì quá trình xây dựng này mà chúng ta thường thấy những câu kinh trong kinh Phật: “Như thị ngã văn. Nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc; Kỳ thụ Cấp Cô Độc viên…”.
Vì vậy, người Phật tử không được có tâm đố kỵ. Nếu gặp chướng ngại hay sự đố kỵ của người khác, quý vị phải như như bất động, thì tâm ma sẽ không bao giờ có thể chiến thắng được Chánh pháp Chánh đạo trong tâm quý vị. Hy vọng mọi người sẽ học Phật và tu tâm cho tốt, chiến thắng được tâm ma của bản thân, đừng để ngũ dục lục trần thế gian làm ô nhiễm, bảo vệ thân mình bằng chánh khí của Phật và dám đảm đương trách nhiệm. Trên đời, dù sóng biển có dữ dội đến mấy thì chúng có thể làm gì được tôi? Vậy nên, thân bị chìm đắm thực ra là chúng sinh vô minh, người khác đối xử với quý vị tốt xấu thế nào hay nói ra sao, thực ra đều là những chúng sinh vô minh, một khi họ hiểu được thì họ là những người có đạo hạnh. Vì vậy, hy vọng rằng mọi người có thể vượt qua những trở ngại trong lòng mình và đừng để sự đố kỵ của người khác và những phiền não họ gây ra tạo thành những trở ngại trong nội tâm quý vị. Phải hiểu rằng họ chỉ nhất thời mê muội, và họ cũng là những chúng sinh vô minh đáng thương; một khi họ đã hiểu được Phật pháp thì họ nhất định sẽ quang minh chính đại và nhất định họ cũng sẽ ngay thẳng và chính trực như chúng ta, sẽ nhận được nhiều Phật Pháp đáng quý và quý giá nhất.
Được rồi, đó là tất cả nội dung “Bạch Thoại Phật Pháp” của ngày hôm nay. Hẹn gặp lại quý vị trong chương trình tiếp theo.
41. Tâm định trí huệ, rời xa chướng ngại
Tập 41
TÂM TỊNH TRÍ HUỆ, RỜI XA CHƯỚNG NGẠI
(15/04/2020)
Hôm nay chúng ta tiếp tục nói về “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Người học Phật phải nói Phật ngôn của Đức Phật, thực hành Phật đạo của Đức Phật và nghiên cứu giáo lí của Phật. Đức Phật đã để lại rất nhiều kho báu vô giá, dạy chúng ta rằng điều quan trọng nhất cần phải tu tập là khắc phục những ác hạnh trước tiên: người học Phật trước hết phải chế ngự được thói hư tật xấu của mình và những thứ ô nhiễm trong ngũ dục lục trần. Phải luôn có tâm ăn năn và luôn có ý nghĩ sám hối trong lòng như: “Trước đây con đã làm rất nhiều điều sai trái, con có lỗi với bố mẹ, các bạn và thầy cô đã từng giúp đỡ con”. Quý vị hãy giữ thiện tâm và thiện niệm nhiều hơn, bởi vì thiện tâm và thiện niệm là nền tảng hướng dẫn lời nói và hành động của bản thân để làm những việc thiện. Sau khi thực hành nhiều thiện niệm và thiện tâm hơn, thì quý vị sẽ phát ra thiện nguyện. Người có thiện nguyện sẽ nghiêm khắc với chính bản thân họ, nghĩa là họ có thể giữ giới luật. Nếu người có nguyện lực nói: “Hôm nay tôi muốn làm người con ngoan” thì người đó sẽ không buông thả; nếu “Hôm nay tôi muốn làm người tử tế” thì người đó sẽ không ghen tị với người khác, không tham, sân, si, mạn, nghi. Chỉ khi đó trí tuệ trong tâm quý vị mới có thể tỏa sáng rực rỡ – chỉ khi tâm trí quý vị trong sáng thì tương lai quý vị mới tươi sáng và suôn sẻ.
Nếu hành giả chỉ quan tâm đến bản thân, đi theo con đường riêng của mình và mạn vô tha nhân (nghĩa là họ kiêu ngạo, không có người khác trong tâm và trong mắt của họ), cống cao ngã mạn, thì họ sẽ không minh Pháp chính thân – tức là sẽ không biết năng lượng tích cực và Chánh Pháp trong tâm họ là gì, cũng không thể có được hành vi thể chất đúng đắn, vì vậy mà đời này có thể sẽ mất đi Huệ mệnh của chính mình. Làm sao có thể đi đến được nước Phật? Nhiều người không có Huệ mệnh, sẽ không biết làm cách nào để đi đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vì khi họ muốn tu tâm sẽ có nhiều ma chướng, nên phải có tâm trí vững vàng và ý chí kiên cường, học cách có đủ dũng khí để gánh chịu và có thể đảm nhận những trách nhiệm nặng nề – phải cứu độ tất cả chúng sinh, để hoằng dương giáo Pháp và làm lợi lạc chúng sinh.
Đừng để ngũ trược ác thế của nhân gian quấy rối, bởi vì quý vị rất dễ bị ô nhiễm bởi ngũ trược ác thế ở thế gian này. Ngày xưa người ta nói “nhiễm trần sở trần”, nghĩa là những khói bụi này sẽ khiến quý vị bị vấy bẩn. Vậy làm thế nào để bản thân có thể tránh cho mình khỏi bị ô nhiễm bởi ngũ dục lục trần này, tức là phải bảo vệ cái thân của mình bằng chánh khí của đức Phật, phải dùng chánh khí và chánh năng lượng của Phật pháp, vĩnh viễn không bao giờ có những tư tưởng
hay ý nghĩ làm hại người khác, đừng bao giờ sinh ra ý niệm hay tư duy ghen tị với người khác, người như vậy mới dám đảm đương trách nhiệm và có tính tình cương trực trực lẫm liệt. Dù sóng gió có dữ dội đến đâu thì có thể làm gì được tôi? Tại sao nhiều người có thể tiếp tục học tốt Phật pháp trong môi trường rất khắc nghiệt? Từ xưa đến nay đã có rất nhiều Cao Tăng Đại Đức có được minh tâm kiến tánh. Cho dù xung quanh họ có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa, cho dù trong lòng họ có sinh ra bao nhiêu ma chướng, họ đều có khả năng vượt qua nó, vì vậy họ sẽ không trở thành chúng sinh vô minh, nếu không sẽ trở thành chúng sinh vô minh. Vì vậy, khi tu tâm khó vượt qua nhất là các ma chướng trong tâm, các ma chướng trong tâm là các chướng ngại trong tâm, đó là tâm quái ngại được nhắc đến trong Tâm Kinh. Nếu có tâm chướng ngại, thì không thể buông bỏ bất cứ điều gì và mọi thứ đều giữ trong lòng. Vì vậy, một người phải có chánh khí, chánh pháp, chánh tín, chánh niệm, thì mới có thể khắc phục được tất cả những điều này. Quý vị phải học Phật cho tốt và cứu độ tất cả chúng sinh; cốt lõi của sự tu hành là kinh điển của sự tu hành. Hy vọng mọi người có thể hiểu rằng Quán Thế Âm Bồ Tát truyền thụ Chánh Pháp này cho chúng ta là để chuyển hóa tâm linh của chúng ta, trên đến trời, trung đến trần gian, dưới đến địa phủ và có thể cứu thân khỏi đau khổ trong hàng nghìn kiếp.
Vì vậy, quý vị không nên suy nghĩ quá nhiều và cũng không nên không buông bỏ được. Người học Phật phải có tâm sâu như biển, bình tĩnh mà chánh pháp. Thế nào là “Chánh” Có thể dùng chánh pháp của chư Bồ Tát để đối chiếu bản thân, trong Pháp Giới có thể nhận được sự uy nghiêm đáng kinh ngạc của trời đất ở trần gian, để quảng độ hữu duyên và bi mẫn đối với tất cả chúng sinh vô minh, hết thảy đều có thể cảm hóa đến vô số chúng sinh có duyên bằng tình yêu sâu sắc của chúng ta dành cho họ. Chúng ta phải chân thành giúp đỡ chúng sinh, để làm thay đổi họ, thương xót họ, cảm động họ, chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể thực sự biểu hiện được Phật tánh của mình, vượt lên chính mình và có được tình yêu thương vô bờ bến.
Đôi khi chúng ta gặp phải rất nhiều chúng sinh vô minh khó có thể độ hoá được họ, thì chúng ta phải “động chi dĩ tình, thi chi dĩ lễ”, và “biểu pháp” là quan trọng nhất. Tam bảo của Phật, Pháp, Tăng. Tại sao lại gọi “pháp sư” là “bảo”? Đó là sự biểu thị của Pháp. Bởi vì tất cả chúng sinh đều ở trong nhân gian và là người có cảm xúc nên họ không biết rằng họ không thể bị lây nhiễm bởi tình cảm của con người, nếu không họ sẽ bước vào tình cảm hồng trần thế gian. Chúng ta học Phật phải có niềm tin, phải thanh tịnh và từ bi, dùng thân đại ái của Bồ Tát rộng như trời đất, để đối đãi với tha nhân một cách rộng lượng, lấy
lòng từ làm nền tảng và quy y nhân tâm, chỉ bằng cách này chúng ta mới có thể cứu giải thoát được nhiều chúng sinh khổ nạn hơn.
Khi học Phật, chúng ta không chỉ mong muốn được giải thoát cho bản thân mà còn phải giúp đỡ nhiều chúng sinh đang đau khổ được giải thoát. Thân xác chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay đã có rất nhiều nghiệp chướng và vong linh, khiến cho việc tu tâm của chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, những khó khăn này đã khiến nhiều người trở nên lười biếng, vô minh và tham lam. Lòng tham khiến cho nhiều người dần dần chuyển thành tâm sân hận, từ tâm sân hận mà dần dần biến thành tâm ngu si, mà những điều này vốn dĩ là do tâm tạo thành. Mỗi một tham, mỗi một suy nghĩ , thiện ác đều từ Tâm. Vì vậy, thiện niệm, thiện nguyện phải tồn tại mãi mãi trong tâm của bản thân, và phải đoạn trừ ngũ dục lục trần ở thế gian.
Đức Phật từng dạy chúng ta rằng dục vọng của chúng sanh giống như độc của nước và lửa làm hao mòn cả sinh mệnh. Ý của Đức Phật là muốn nói với chúng ta rằng, chúng sanh chúng ta sống ở nhân gian, dục vọng của chúng ta cũng như nước và lửa, nó có thể đốt cháy và có thể thiêu rụi cuộc đời chúng ta cho đến khi sinh mệnh kết thúc. Nước có thể nhấn chìm chúng ta, lửa có thể thiêu chết chúng ta vì chúng ta không thể thoát ra khỏi dục vọng. Vì vậy, người tu tâm phải thiện ác phân minh và luôn nghĩ đến lỗi lầm của bản thân. Một niệm thiện bay lên trời, một niệm ác rơi vào chín suối, vọng niệm, ham muốn, dục niệm, tham niệm, cũng như các niệm ái và hận… Chúng ta nhất định phải vượt qua mọi chướng ngại và tội lỗi – Đức Phật dạy rằng chỉ bằng cách này chúng ta mới có thể đến gần được Phật quốc.
Người tu phải tu hành thật sự, làm người phải đứng đắn. Đức Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, cùng tất cả Long Thiên Hộ Pháp sẽ bảo vệ chúng ta – những chúng sanh tinh tấn tu hành. Đức Phật coi chúng ta như báu vật trong nhà Phật, bởi vì người tu hành, chư Bồ Tát, chư Phật luôn luôn quán chiếu và luôn luôn theo dõi chúng ta, các Ngài đang bảo vệ chúng ta bằng ánh sáng Phật. Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi đối với tất cả những đứa con như chúng ta và luôn luôn quan tâm chúng ta. Tuy những người học Phật chúng ta có nhân duyên khác nhau, cơ quan cảm giác khác nhau, có người có cảm ứng được, có người có cảm ứng kém hơn, nhưng chúng ta phải luôn biết ơn những việc làm tốt và giúp đỡ tất cả chúng sinh, nghĩa là chúng ta phải luôn biết ơn những hành vi, việc tốt mà mình và người khác đã làm, phải thêm phần bao dung, hài hòa với tất cả chúng sinh,
mới có thể trở về con đường quang minh của Phật, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
Vì kiếp trước chúng ta đã gieo nhân vô minh nên đầu thai làm người, người học Phật sau khi học sẽ phải tu trở về cội nguồn. Chúng ta phải không nợ không nghiệp, thì mới có thể nhẹ nhàng hơn và bắt kịp con thuyền pháp. Khi nói đến việc tu tâm, nhiều người chú trọng đến việc tu theo Pháp môn nào, bất luận tu theo pháp môn nào, bất luận theo vị Bồ Tát hay vị Phật nào, miễn là quý vị có thể hòa nhập vào Pháp của các Ngài, miễn là quý vị có thể nhận được Pháp vị, cải thiện và tịnh hóa tâm linh của mình, thì quý vị sẽ từ từ tiến về phía trước và mỗi một bước là một dấu chân khiến quý vị đến gần căn nguyên của mình hơn. Con đường giải thoát đích thực của chúng ta là sử dụng định lực và trí tuệ của chính mình. Phàm là nếu một người có thể định lại được thì người đó sẽ sở hữu trí tuệ của Phật Pháp, nên định có thể sinh ra trí tuệ.
Quý vị phải luôn đóng kín “lục tặc” gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của mình và tu sửa hết thảy “năm uẩn” gồm sắc, thụ, tưởng, hành, thức; tham, sân, si, mạn, nghi của mình. Tu tâm có nghĩa là sửa hết tất cả mọi tham, sân, si, mạn, nghi của bản thân và tẩy sạch những tạp niệm trong lòng chúng ta, giữ trong lòng những tịnh niệm (tư tưởng trong sạch) thì tinh – khí – thần mới có thể hợp nhất, Thiên – Địa – Nhân mới có thể hợp nhất trong tâm chúng ta. Chỉ khi hợp nhất mới có thể kích hoạt nguyên thần (nguyên thần là nguồn gốc của Phật), sống trên thế gian này, nếu có được thần thanh khí sảng và có mục tiêu tu tập, thì nhất định quý vị sẽ thoát khỏi những phiền não hồng trần của thế gian này và bước vào con đường tươi sáng của Phật.
Kinh Phật có câu: “Can tuệ biện giả khẩu bì, đại trí thể liễu tâm thái” Thực ra, trong kinh Phật, “Can tuệ” là một loại tư duy và suy nghĩ, là một loại kiến giải. “Can tuệ biện giả khẩu bì”, nghĩa là làm người thì phải có cách nhìn đúng đắn và suy nghĩ đúng đắn, đừng giở trò, đừng cho rằng ý kiến của mình là đúng, đừng đùa giỡn với lời nói thị phi. Có rất nhiều người thường hay thích nói đạo lý “oai lý thập bát điều”. Lời nói khéo thì Đạo sẽ hưng thịnh, con đường của Phật sẽ thịnh vượng, lời nói không khéo thì gọi là “ngôn ngữ đạo đoạn”, nếu ngôn ngữ đạo đoạn thì “Tâm hành xử diệt”, tức là Pháp và Đạo tốt của Phật giáo sẽ bị phá hủy bởi hành động trong tâm. Bản thân quý vị phải tự chứng ngộ, phải lĩnh ngộ cho đúng, dù quý vị có suy nghĩ, tranh luận hay nói năng hùng biện như thế nào đi nữa, nếu trong lòng quý vị không chánh thì những gì quý vị nói chắc chắn sẽ không phải là chân đạo. Vì vậy, người có trí tuệ lớn “thể liễu tâm thái”, tức là người có trí tuệ lớn có thể hiểu được bản thân mình và tâm thái của người khác.
42. Tam giới duy tâm. Vạn pháp duy thức
Tập 42
TAM GIỚI DUY TÂM, VẠN PHÁP DUY THỨC
(15/04/2020)
Người có đại trí tuệ có thể hiểu được trạng thái tâm lý của mình và của người khác, có thể cứu độ được tất cả chúng sinh. Họ biết mình đang nói gì và họ cũng biết người khác nghĩ gì, đây gọi là “đại trí tuệ”.
Bồ Tát hiểu rằng tam giới đều do tâm và vạn pháp đều do thức. Bất kể học pháp nào hay làm việc gì, trên thực tế đều là ý thức đang hoạt động. Nếu quý vị nghĩ việc này có thể làm được, thì quý vị hãy làm nó; nếu quý vị nghĩ “Tôi muốn học Phật, tôi có thể vận dụng học Phật để thay đổi thể trạng của mình”, nếu ý thức này đã ở trong tâm quý vị, vậy thì quý vị nên cố gắng làm. Vạn pháp đều dựa trên ý thức, vậy nên đừng để những vật chất mê hoặc quý vị. Trong cuộc đời của nhiều người, cái này tốt thì vứt cái kia, cái kia tốt thì sau một thời gian họ vứt cái này đi. Con người là thế đấy “Tâm viên ý mã” (sớm nắng chiều mưa, đứng núi này trông núi nọ) tâm con người giống như loài vượn (vượn chính là khỉ). Quý vị thấy đấy, loài khỉ đều là những nhà leo núi, chúng leo từ cây này sang cây kia, luôn lấy cái này, ném cái kia, lấy cái kia, ném cái nọ. Vì thế Bồ Tát khuyên chúng ta đừng bị vật chất ở thế gian làm mê hoặc và đừng bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh. Hoàn cảnh thay đổi, quý vị cũng xoay chuyển theo, mọi người đều như vậy và quý vị cũng như vậy, thì quý vị hoàn toàn đã bị hoàn cảnh kiểm soát.
Một người cho dù đối với vấn đề gì đi chăng nữa thì nên hiểu rằng “Bồ Tát (tiếp) xúc vật tư chiếu” Nghĩa là, khi Bồ Tát chạm vào vạn vật, thì có thể chiếu kiến ngay ngũ uẩn giai không của họ, và có thể hiểu ngay sự việc này. “Thanh Văn phạ cảnh muội tâm”, cũng có nghĩa là người có căn trí tương đối nhỏ trong Thanh Văn Thừa, họ không biết rằng tâm và Pháp đều trống rỗng. Thực ra tâm cuối cùng cũng là trống rỗng, và pháp cuối cùng cũng là trống rỗng, nên cả tâm và pháp đều trống rỗng.
Sư phụ sẽ giảng kỹ hơn với mọi người về vấn đề này. Tâm, quý vị hãy nghĩ xem, cho đến thời điểm hiện tại, từ nhỏ quý vị đã nghĩ đến bao nhiêu điều, bao nhiêu điều quý vị đã nghĩ đến đều là nghĩ vô ích, đều không còn gì rồi, đều là vọng tưởng. Khi còn nhỏ, chúng ta đã nghĩ đến nhiều điều, “Khi lớn lên, tôi muốn trở thành v.v..” — dù có nghĩ đến bao nhiêu đi chăng nữa thì tất cả chỉ là viển vông. Khi còn nhỏ, dù chúng ta có bao nhiêu vật chất đi chăng nữa, “Nếu tôi có được tấm bằng khen này thì tốt quá, nếu tôi có được tấm bằng khen kia thì tốt quá”, tất cả đều trống rỗng. Vì vậy, tâm cảnh – tức là tâm và hoàn cảnh, thực ra luôn đối lập nhau. Bởi vì dù trong tâm quý vị đang nghĩ gì, thì hoàn
cảnh không nhất thiết sẽ thuận theo quý vị, vì vậy tâm cảnh sẽ đối lập. Quý vị muốn làm gì, nó cũng không thuận theo quý vị, quý vị muốn làm gì, nó cũng không thể hiểu được quý vị. Ngay cả khi quý vị tiếp xúc với một người và muốn thuyết phục họ, thì chính họ vẫn không hiểu được quý vị.
Đối với hoàn cảnh bên ngoài, làm thế nào chúng ta có thể khắc chế được nỗi sợ hãi, nỗi lo lắng, niềm vui của bản thân do những mâu thuẫn mà tâm cảnh gây ra đây? Chúng ta sẽ cảm thấy phẫn nộ với những người không hiểu mình, và đôi khi chúng ta sẽ phát sinh tâm ngu muội. Bởi vì chúng ta nghĩ rằng “điều này là không thể và đây là điều không thể làm tốt được”, cho nên chúng ta không thể tìm ra những điểm mấu chốt về cách cứu độ chúng sinh, bởi vì hoàn cảnh và tâm của chúng ta đã trở nên đối lập nhau.
Vì vậy, sự trống rỗng thật sự chính là là sự trống rỗng của cả tâm lẫn pháp, tâm và cảnh đều trống rỗng, dù là việc gì quý vị phải thực sự buông bỏ. Đạo Phật dạy chúng ta rằng “Ngộ giả nhật dụng vô sinh, mê nhân hiện tiền cách Phật”, nghĩa là người giác ngộ mỗi ngày đều có trí tuệ, còn “Nhật dụng vô sinh” nghĩa là người đó mỗi một ngày đều dùng trí tuệ để sống, và sẽ không sinh ra phiền não; Người không có trí tuệ sẽ bị phiền não bao vây mỗi ngày. Ý nghĩa của “Mê nhân hiện tiền cách Phật” là gì? Người mê muội dù ở trước mặt Bồ Tát cũng không thể nhìn thấy Bồ Tát. Nghĩa là cho dù Phật pháp ở trước mặt, họ cũng không biết đây là Phật pháp, giống như đã bị ngăn cách với Phật. Nhiều người rõ ràng đã tìm được một pháp môn tốt như vậy và đã tìm được Phật pháp tốt như vậy, nhưng họ lại không nổ lực tu tập thì họ sẽ xa rời Phật pháp.
Hãy hiểu rằng vạn pháp đều là trống rỗng, hết thảy đều là sự biến hóa hiện tiền của Phật tánh, khi quý vị biết được điều này, thì tâm của quý vị sẽ vô quái ngại, và chỉ khi đó tâm quý vị mới thoát khỏi được những mê ngộ và sự tồn tại của sự vật trong tâm mình, có như thế tâm của quý vị sẽ dần dần vô tứ tướng. Nếu quý vị có thể rời xa được tứ tướng ấy thì quý vị sẽ xa lìa được những cản trở và vướng ngại, mới thấy được chân Phật – Phật ở trong bản tánh trong tâm của quý vị, mới từ từ hiển hiện trong sự tu tập của mình, và chỉ khi đó quý vị mới có thể dùng tâm ở nhân gian để tu thành được cảnh giới giống như Phật, đó là “sự hợp nhất giữa tâm và Phật” thường được nói đến trong giới Phật giáo..
Hôm nay thầy sẽ giảng sâu hơn một chút, vì Phật pháp cần được ứng dụng trong đời sống hằng ngày, nếu dùng Phật pháp để giải quyết những phiền muộn trong lòng thì quý vị sẽ bắt đầu nhập vào trong trí tuệ Bát nhã. Nếu học Phật lâu ngày
mà ngày ngày vẫn mê hoặc điên đảo, không thể suy nghĩ sáng suốt, buồn bã vì không biết được chân tướng thì đã xa rời trí tuệ Bát nhã.
Trong Phật giáo có thiền định, cần phải nhập vào thiền định mà tâm không bị xao lãng. Vậy thiền định là gì? Là tập trung suy nghĩ vào một điểm nào đó nhất định. Mọi người thấy đấy, khi ăn cơm sư phụ rất vui vẻ, làm một việc gì đó, sư phụ cũng rất vui vẻ, lúc đó sư phụ có thể quên đi việc khác. Nhưng hiện tại mọi người tu tâm, khi tụng kinh thì nghĩ đến ăn ngủ, khi ngủ thì nghĩ rằng hôm nay mình chưa tụng kinh, tâm luôn xao lãng. Một hành giả thực sự giải thoát phải hiểu và giác thức – tức là giác ngộ và thức tỉnh. Bồ Tát cho rằng nhiều tư tưởng ở cõi người của chúng ta là trong trạng thái đang “ngủ” – có nghĩa là vẫn chưa giác ngộ, vẫn chưa thức tỉnh. Sư phụ từng nói với mọi người rằng: Sư phụ giống như một chiếc đồng hồ báo thức, đánh thức các con dậy sớm mỗi ngày và yêu cầu các con tụng kinh cho tốt, đánh thức Phật tánh trong tâm các con, mong rằng các con sẽ ngày càng từ bi hơn và có khả năng suy nghĩ cho người khác nhiều hơn. Đừng suốt ngày ở trong vòng tròn nhỏ hẹp của mình mà không thể thoát ra được, hãy nghĩ đến là việc của bản thân, có như thế các con mới có thể tăng thêm khả năng thiền định.
Làm thế nào chúng ta có thể thiền định? Để tập trung thống nhất tinh thần mà không bị xao lãng, cần dựa vào một hình thức thiền định tâm. Loại thiền định tâm này xuất hiện như thế nào trong Thiền tông? Trước hết chúng ta phải diệt trừ vọng niệm, cũng có nghĩa là chúng ta phải tập trung sức mạnh trong tâm mình. “Hôm nay tôi sẽ bắt đầu tụng kinh, tôi sẽ bắt đầu thiền định, tôi sẽ quên đi tất cả những tạp niệm khác, loại bỏ chúng và sau đó tập trung tâm lực của tôi.” Bởi vì trong tâm có sức mạnh, khi quý vị phát ra nguyện lực, hoặc khi phát ra một loại tâm lực, lúc đó tâm thức sẽ chuyển hóa thành một loại sức mạnh (tâm thức tức là ý thức trong tâm). Lấy một ví dụ đơn giản, có chuyện gì đó đã xảy ra với gia đình quý vị, và trong tâm quý vị nghĩ: “Hôm nay con cầu xin Bồ Tát phù hộ cho con. Con sẽ dùng hết tâm lực để cầu xin Bồ Tát, và Bồ Tát nhất định sẽ gia trì cho mình thôi”. Khi quý vị tập trung tâm lực cầu xin Bồ Tát với ý niệm rất tập trung, thì ý thức trong tâm của quý vị nghĩ rằng: “Chư Phật và Bồ Tát nhất định sẽ cứu độ những người trong gia đình chúng ta”. Lúc này, tâm của quý vị sẽ sinh ra một loại sức mạnh to lớn, để quý vị có thể thoát khỏi những phiền não trên thế gian, và một loại thánh quả sẽ sinh ra trong tâm quý vị. Nhiều người ngồi thiền nói rằng: “Tôi thiền tu và thiền định”, nhưng họ không có sức lực hay năng lực, thì ngồi đó chỉ có thể ngủ gật và đã “nhập định” – cái mà họ nhập vào gọi là “hôn mê đại định”. Khi vừa ngồi xuống là muốn ngủ, nhiều
người khi vừa tụng kinh là muốn ngủ. Tất nhiên có người hỏi: “Thưa Thầy, khi con vừa tụng kinh là đã ngủ rồi, vậy có tốt không?” Đài trưởng nói: “Còn hơn là có tạp niệm tán loạn trong đầu.” Nhưng nếu quý vị có thể chuyên tâm chăm chỉ niệm kinh, thì sức mạnh và tâm lực của quý vị sẽ không bị phân tán. Nếu quý vị tập trung tâm trí, có thể hoàn toàn giải thoát bản thân khỏi những phiền não của thế gian, nó sẽ khơi dậy đại năng và trí tuệ bên trong. Nếu một người tập trung tâm lực và ngồi đó cầu xin một sự việc, năng lượng của người đó là vô hạn, đó là loại trí tuệ và khối năng lượng to lớn – nghĩa là năng lượng tích cực, toàn bộ đều sẽ xuất hiện. Theo thuật ngữ hiện đại mà nói, đó là “sự tập trung”. Mọi người thử nghĩ xem, một người chỉ tập trung vào một việc thì có thể thành công hay không? Nếu một người không tập trung vào việc này thì không thể thành công. Vì vậy, việc tiêu trừ được vọng niệm phụ thuộc vào sự tập trung và năng lực tỉnh thức của chính mình. Trong Phật giáo có nói, nếu có thể tiêu trừ được vọng niệm, có năng lực tiêu trừ được vọng niệm và có thể giác tỉnh thì quý vị chính là “Định giác chi” theo định nghĩa của Phật giáo. Chỉ khi nào con người có thể định lại được thì họ mới có được giác ngộ, chỉ khi nào họ có thể thiền định, thiền toạ thì họ mới có được định lực và trí tuệ.
Là một người học Phật, muốn trở thành một người giải thoát, phải học cách giác tỉnh và tăng cường khả năng chịu đựng trong nội tâm trước những kích động bên ngoài. Bởi vì mỗi ngày nội tâm của chúng ta sẽ phải chịu những kích động bởi ngoại duyên, hôm nay tình cảm của chúng ta bị tổn thương, hôm nay lời nói của chúng ta bị tổn thương, và hôm nay một hành vi của người khác cũng có thể khiến nội tâm của chúng ta bị kích động, khiến chúng ta đau khổ không chịu đựng nổi và phiền não. Điều được phản ánh là một loại mất tập trung và mất tâm thức do vọng niệm khởi khắp mọi nơi. “Anh ta hận mình như vậy, mình phải làm sao? Mình nên đánh trả? Mình nên đối đầu trực diện hay gây sự sau lưng anh ta?” Lúc này tâm trí của quý vị sẽ tán loạn, thì sẽ khởi lên đau khổ, hơn nữa trong suy nghĩ sẽ muốn trả thù, muốn làm điều gì đó, miễn là nó trở thành trọng tâm trong ý thức của quý vị, quý vị sẽ nhanh chóng mất đi lý trí vì sợ hãi.
Vì vậy, chúng ta phải hiểu lời Bồ Tát đã dạy: “Chư hành vô thường”. Cho dù chúng ta làm gì đi chăng nữa, chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, tứ đại giai không. Hôm nay suy nghĩ cả buổi nhưng không làm được, vậy thì sự việc này có nghĩ đến cũng vô ích, tại sao quý vị lại nghĩ đến nó làm gì? Nghĩ đến thì chỉ thêm phiền não và chướng ngại trong trường ý thức thứ tám của quý vị mà thôi. Hôm nay làm như vậy, sau này sẽ có báo ứng, sau đó quý vị lại sợ hãi, sau khi
sợ hãi, cuối cùng sẽ không có gì. Tại sao vậy? Quý vị bị người khác trả báo, oan oan tương báo, cuối cùng đã kết thúc, hoặc để người khác trả thù quý vị hoặc quý vị trả thù người khác như một cách giải thoát. Sự giải thoát này là hư ảo. Đó là một loại hạnh phúc nhất thời, giống như “Tôi đã đánh bại hắn”, nhưng thực ra đó là một loại phiền não của con người, hoàn cảnh lúc đó cho phép quý vị có được một loại an ủi nội tâm tạm thời.
Mọi vật chất trên thế gian, dù là hiện tượng vật chất hay hiện tượng tinh thần, mọi phương pháp mà quý vị sử dụng, trong hiện tượng vật chất, Phật giáo gọi chúng là “sắc pháp”; nếu trong hiện tượng tinh thần, quý vị hận người khác, tranh đấu với người khác, thực ra đây chính là “tâm pháp” – đều không thể giữ lại. Ý niệm của quý vị sẽ không được giữ lại, và sự tranh chấp của quý vị với người khác cũng sẽ qua đi. Dù người khác tốt với quý vị hay không tốt với quý vị, đều sẽ mất đi, bởi vì khi thời gian trôi qua, mọi thứ không phải là vĩnh viễn hay thường trụ, bởi vì mọi sắc pháp và tâm pháp vốn là trống rỗng, chúng đều rỗng tuếch. Những gì quý vị nghĩ đều trống rỗng, những gì được làm về mặt vật chất cuối cùng cũng đều trống rỗng, nên gọi là “tứ đại giai không”. Vì vậy, Bồ Tát dạy chúng ta rằng “Chư pháp vô ngã, chư hành vô thường.” Mọi người phải hiểu rõ những đạo lý này và đừng bám chấp vào nhiều thứ giả dối trên thế gian mà ngay từ đầu quý vị không thể có được, hơn nữa đó đều là những thứ hư vọng. Ngay cả khi ai đó làm tổn thương quý vị, nếu quý vị trả thù họ, sẽ chỉ tự gây thêm đau khổ và khó khăn cho chính mình, khiến quý vị ở trong thế giới phàm trần, chìm đắm trong những phiền não đau khổ và làm tổn thương trái tim quý vị hết lần này đến lần khác. Chúng ta phải hiểu rõ những vật chất hư vọng không có thực, tức là đối với những gì đã xảy ra, chúng ta không nên có bất kỳ động thái nào để nhớ lại, khó để xả bỏ, sân hận, ghen tị hoặc không thể buông bỏ. Bồ Tát giúp cho chúng ta được giải thoát, tại sao chúng ta lại lo lắng về những điều chưa xảy ra, khiến bản thân phải gặp nhiều phiền toái, rắc rối và phiền muộn?
Sau khi học Phật, chúng ta phải sử dụng trí tuệ của chính mình – trí tuệ của thức thứ chín trong bổn tánh của chúng ta – để cải thiện những điều có thể cải thiện được.Sự việc này vẫn có thể được cải thiện, chúng ta hãy cố gắng hết sức để cải thiện nó. Đối với những sự vật không thể cải thiện được và đã xảy ra, chúng ta phải học cách dũng cảm đối mặt với nó bằng thiền định và định trụ bản thân, “Chuyện đã xảy ra, chuyện đã như vậy rồi, tôi không muốn vướng mắc đến nó nữa, và tôi không muốn tự tạo thêm rắc rối cho mình về vấn đề này. Người hiện đại “Duy nhân tự triệu”, nếu ai đó mắng quý vị một câu, về nhà nghĩ không
thông. Họ mắng quý vị một câu, khi về nhà quý vị có thể nghĩ về điều đó hàng trăm lần và tự làm tổn thương mình cả trăm lần. Điều này chính là ngu si.
Bồ Tát khuyên chúng ta hãy bình tĩnh và chấp nhận một số hiện thực, không có chút hỷ nộ ái lạc hay phấn khích nào về bất cứ điều gì trên thế gian, đừng nên có hành vi hay suy nghĩ kích động đối với bất kỳ sự việc nào, và giữ thái độ như như bất động trước bất kỳ sự kích thích nào do thế giới bên ngoài mang đến cho chúng ta, như vậy chúng ta mới không tự chuốc thêm rắc rối cho mình. Mọi người phải ghi nhớ, vì tất cả những điều này rồi sẽ trôi qua, những phiền muộn sẽ trôi qua, pháp hỷ cũng sẽ trôi qua, bất kỳ ai còn đang vướng vào những niềm vui và phiền não ở thế gian thì họ sẽ chỉ không còn hy vọng giải thoát mà còn tăng thêm nỗi đau cho chính mình ở nhân gian hơn nữa.
Vì vậy, chúng ta phải đối mặt với ngoại duyên (kích động bên ngoài), bản thân sử dụng thiền định cho tốt, tránh khỏi đau khổ, phản ứng chậm rãi chứ không nhanh chóng. Đối với bất cứ điều gì, đừng để người ta mắng mình, liền mắng trả lại ngay; ai đối xử tốt với mình liền đáp trả ngay; ai đối xử với mình thế nào liền lập tức đối xử như thế đó – không nên như vậy. Quý vị phải như như bất động, vì những điều này rồi cũng sẽ qua nhanh thôi. Chỉ cần quý vị suy nghĩ cách thực hiện trong từng bước ra sao, thì quý vị sẽ nảy sinh ra trí tuệ, điều này trong Phật giáo gọi là “Hành xả giác chi”.
43. Vô tướng chính là không chấp tướng
Tập 43
VÔ TƯỚNG CHÍNH LÀ KHÔNG CHẤP TƯỚNG
(15/04/2020)
Tại sao làm người không nên chìm đắm trong những phiền não? Chuyện đã xảy ra rồi, nếu cứ khăng khăng để tâm đến những phiền não đó, thì sẽ ngày càng phiền não hơn.
Bồ Tát “bất trụ vô vi”. Thế nào là “bất trụ vô vi”? Nghĩa là tâm của Bồ Tát là “Hôm nay tôi làm việc này thì chắc chắn là vô vi”, nghĩa là không có mục đích mà làm, làm việc không mục đích, và hoàn toàn không đặt những việc vô vi này ở trong tâm chút nào. Hôm nay Bồ Tát đi giúp đỡ người khác, họ rất biết ơn Ngài và nói: “Những gì Ngài đang làm là Bồ Tát đạo. Ngài đang giúp đỡ người khác và cứu độ chúng sinh”. Ngài trả lời: “Không có, tôi cũng giống như mọi người thôi, tôi chỉ mong mọi người cũng như tôi”——suy nghĩ của Bồ Tát , chính là “bất trụ vô vi”. Ngay cả khi quý vị làm việc thiện, quý vị cũng không nghĩ rằng bản thân làm việc thiện, thì quý vị đã đắc đạo và đã chứng đắc Niết bàn. Nhiều người không hiểu “Niết bàn” là gì, nếu quý vị không sống trong cảnh giới mà mình đang có chính là đã vượt qua được cảnh giới này, đây gọi là Niết bàn.
Cho nên phải hiểu rằng, hôm nay mình làm được điều gì tốt thì mình sẽ rời khỏi cảnh giới làm việc tốt; nếu hôm nay mình gặp phiền não thì rời khỏi phiền não; nếu hôm nay mình có được rồi thì hãy rời khỏi “có được”. Bởi vì mọi thứ đều là hư huyễn nên chúng ta phải học “Tánh không”. Trong Phật giáo có nói: “Tu để học tánh Không, đừng lấy tánh Không làm chứng đắc, tu để học Vô tướng-Vô tác, không lấy Vô tướng-Vô tác làm chứng đắc. Tu để học Vô khởi, không lấy Vô khởi làm chứng đắc”. Tu để học tánh Không là gì? Chúng ta phải học Không tướng và Không tánh. Nói ví dụ, hôm nay bất luận làm việc gì thì nó cũng sẽ trôi qua đúng không? Trôi qua rồi có phải là trống rỗng rồi không? Chuyện này một năm trước có xảy ra không? Có. Hiện tại chuyện này đã qua rồi, có phải là đã trống rỗng rồi không? Giống như bao đứa trẻ của chúng ta, chúng đã từng trải qua giai đoạn đi học. Học xong bây giờ có phải là sắp bước vào giai đoạn trưởng thành không? Vậy thì giai đoạn đi học lúc đó được gọi là “tánh Không”. Đó là lý do Đài trưởng nói quý vị phải học cách xem tất cả mọi thứ đều là trống rỗng. Bởi vì nó đã trôi qua rồi thì sẽ không còn hình tướng nữa, quý vị cũng không còn những hành động đó nữa rồi. Bởi vì quý vị đã không còn đi học nữa, cho nên quý vị cũng không cần tiếp tục đến trường để làm bất cứ hành động gì
nữa rồi. Đây cũng chính là “Tam giải thoát” mà sư phụ đã giảng cho mọi người ở tập trước.
Sự trống rỗng có nghĩa là mọi thứ về cơ bản là trống rỗng. Khi chúng ta học Phật và làm người, chúng ta phải hiểu rằng thế giới này khi chúng ta đến là trống rỗng, khi chúng ta đi cũng trống rỗng. Khi chúng ta đến, chúng ta không mang theo thứ gì cho thế giới này, khi chúng ta ra đi, chúng ta cũng không thể mang theo gì cả, cho nên khi chúng ta đến và đi, nó đều trống rỗng, mọi thứ đều là trống rỗng. Mọi thứ trên đời này đều là cho quý vị mượn tạm, là do quý vị mượn về, có cái gì thực sự thuộc về quý vị không? Vì vậy, các bậc pháp sư đều có tâm thanh bạch (lưỡng tụ thanh phong), họ hiểu rằng “vì ở thế gian là một quá trình nên mình sẽ không ở thế gian mãi mãi”. Ở nhân gian là tôi đang mượn một môi trường giả để tu thật, nên tôi không bám chấp vào mọi thứ trên thế gian, vì tôi biết chúng đều trống rỗng.” Đây là điều mà Sư phụ đang nói với mọi người, nếu quý vị đi du lịch đến một hòn đảo rất đẹp, được cấp cho một căn phòng rộng để ở, và quý vị cho rằng trong phòng thiếu cái này thiếu cái kia, nếu quý vị có tất cả đồ đạc trang trí trong phòng, cho dù quý vị có mua cái này, mua cái kia đi chăng nữa, thì sau vài ngày quý vị cũng phải rời khỏi hòn đảo này, vì đây không phải là ngôi nhà thực sự của quý vị. Khi chúng ta đến nhân gian, vài chục năm trôi qua trong chớp mắt, đây không phải là ngôi nhà thực sự của chúng ta, ngôi nhà thật sự của chúng ta là ở thiên thượng. Bằng cách này, chúng ta sẽ hiểu được rằng mọi thứ trên thế gian này vốn là trống rỗng, nên gọi là học không – tức là học tập tánh không. Học Phật phải dựa trên tánh Không làm cơ bản. Học Phật hôm nay quý vị đã học được chưa? Học rồi sau này cũng đừng kiêu ngạo hay tự hào, bởi vì sau khi quý vị đã học xong, nó sẽ đi vào trường thức thứ tám và sau đó trống rỗng. Bởi vì sau khi quý vị học xong, nó sẽ không còn nữa và đã kết thúc rồi, nó đã đi vào ý thức của quý vị. Sau đó, ý thức của quý vị sẽ có trong cuộc sống của quý vị, nên mọi thứ đều trống rỗng.
Vô tướng có nghĩa là không chấp vào hình tướng. Hôm nay cho dù quý vị là tiến sĩ hay giáo sư, nếu đến tuổi già, mắc chứng mất trí nhớ và không thể nhớ được bất cứ điều gì thì quý vị còn được xem là giáo sư gì nữa không? Quý vị đã quên hết mọi thứ rồi. Vì vậy, đừng nên vướng chấp hôm nay quý vị là ai, bởi vì mọi thứ của hôm nay đều trống rỗng. Hy vọng mọi người hiểu được và chúng ta không nên bị những hiện tượng này lừa dối. Người ham sĩ diện là đang ở trong hiện tượng, những thứ ở nhân gian mà quý vị nhìn thấy, tưởng rằng đây là thật, đó cũng là thật, nhưng thực ra quý vị đã bị nó lừa rồi, bởi vì thực sự sống trong thế giới này là Không tánh, là trống rỗng.
Bồ Tát dạy chúng ta Vô tác, làm mà như không làm, tưởng chừng như quý vị đã làm nhưng thực chất lại như chưa từng làm qua. Hãy thử nghĩ xem, khi còn nhỏ có phải chúng ta đã làm rất nhiều việc không? Bây giờ có nhớ lại được không? Đã từng làm nhưng giống như chưa từng làm qua vậy. Hồi nhỏ có từng tức giận qua không? Có. Đã có lúc rất tức giận, nhưng bây giờ giống như chưa từng tức giận vậy. Khi mọi người còn nhỏ, tổ chức tiệc gặp mặt hoặc đã từng tổ chức buổi tiệc sinh nhật, bố mẹ giúp con mời rất nhiều người đến, hôm đó quý vị ăn mặc thật đẹp, mọi người đều vỗ tay và ăn bánh kem, vô cùng vui vẻ. Đã trải qua chưa? Làm mà như không làm, bây giờ quý vị nghĩ lại giống như chưa từng làm qua bao giờ. Đây chính là “Bổn” mà Bồ Tát cho chúng ta nhìn thấy, theo ngôn ngữ hiện đại mà nói, mọi hành vi đều là “qua rồi thì thôi, qua rồi là hết”. Cũng chính là dạy chúng ta hiểu rằng Vô nguyện, là không mang đến nguyện vọng gì, cũng không mang đi được bất kỳ nguyện vọng nào, bởi vì mọi thứ đều là Không-Vô tướng-Vô tác, đó chính là ba cửa giải thoát của Phật giáo Đại thừa.
Sư Phụ dạy mọi người rằng khi cầu xin Bồ Tát, quý vị cũng phải biết cách giải thoát. Chúng ta thường nói với Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: “Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài hữu cầu tất ứng” có phải là đã nói như vậy không? Nhưng hãy nhớ rằng, quý vị có “hữu cầu” thì Bồ Tát có thể “tất ứng”, nhưng vấn đề ở chỗ là năng lượng, công đức của quý vị có được bao nhiêu và Bồ Tát có nghe thấy không? Và điều quan trọng nhất là nếu cầu xin Bồ Tát mà có thể đạt được hữu cầu tất ứng thì phải có thêm một điều kiện nữa, đó chính là tâm thành tắc linh. Nếu hôm nay quý vị không thành tâm, không chân thành mà học Phật với tư tưởng đầu cơ thì nhất định quý vị sẽ không nhận được hồi báo thực sự. Nếu quý vị chỉ vì cầu xin một việc nào đó mà hoàn toàn nương nhờ vào Bồ Tát, mà không dùng tâm học Phật thật sự của mình để phối hợp, thì tuyệt đối sẽ không thể linh nghiệm được. Có rất nhiều người không thành tâm. Chúng ta cũng không dễ gì hiểu được Bồ Tát, bởi vì chúng ta cầu này, cầu kia, rồi công đức của chúng ta không đủ, nguyện lực của chúng ta không đủ mạnh, chúng ta chỉ vì một điều gì đó mà cầu xin, trong khi nghiệp chướng của bản thân thì quá nặng nề, khi đó lời cầu xin sẽ không linh ứng, quý vị lại trách Bồ Tát. Quý vị ngày ngày hứa nguyện, mong muốn đạt được nguyện vọng cho bản thân, cầu đến sau cùng thì lại biến thành “oán” rồi — chính là oán trách ” Bồ Tát, tại sao Người lại không hiển linh vậy”?
Dù có làm gì đi nữa, chúng ta cũng phải học cách hiểu rõ tánh Không, hiểu rõ Không-Vô tướng-Vô tác thì mới buông bỏ được tất cả. “Hôm nay tôi cầu xin điều gì? Tôi biết điều đó là trống rỗng nhưng tôi đã cầu xin và dùng tâm của
mình để cầu xin. Những gì tôi nhận được chỉ là một giải pháp tạm thời cho những vấn đề của thế gian, vì cuối cùng tôi vẫn rời bỏ thế giới này”. Vì vậy, đây không phải là thứ quý vị thực sự cần và nó cũng là sự trống rỗng. Dần dần, Đức Phật dạy chúng ta phải “tu học tánh Không, không lấy tánh Không làm chứng đắc”. Có nghĩa là gì? Nếu một người nói với quý vị rằng “Tôi trống rỗng rồi, tôi đã nghĩ thông rồi, tôi hoàn toàn không còn suy nghĩ gì nữa”, thì quý vị không nên tin anh ta, bởi vì anh ta còn chấp vào sự trống rỗng này và nghĩ rằng “Tôi đã chứng đắc Không Tánh rồi”. Như thế thì vẫn chưa trống rỗng. Người mà thực sự chứng đắc được tánh Không, thậm chí cái “không” này cũng không còn nữa. Đây là điều mà Sư phụ thường nói với mọi người, nếu một người nói: “Tôi không muốn tranh giành với bạn chút nào, những thứ này các bạn cứ tranh nhau đi, tôi không muốn chút nào, thậm chí tôi cũng không nghĩ tới nó.” Nói xem, người này có đang nghĩ về nó không? Trong lòng họ đang suy nghĩ về chuyện này, mọi người đều tranh nhau, người này còn nói: “Tôi mới không cần, tôi mới không muốn nghĩ đến việc này”, nhưng trong lòng họ có nghĩ đến chuyện này không? Trong lòng họ không thực sự trống rỗng .
Thầy muốn mọi người tu học Vô tướng và Vô tác, tức là không dính mắc vào hình tướng, không nên tập trung vào sự việc này và việc gì cũng đều buông bỏ được, đây mới là tánh Không thực sự, bởi vì biết nó là trống rỗng như vậy rồi. Khi học Phật, chúng ta tuyệt đối không được nhập vào tánh Không: “Tôi biết sự việc này là trống rỗng, nên tôi sẽ không bước vào tánh Không.” Nghĩa là: “Tôi biết thế gian này là vô thường, nhưng tôi sẽ không bước vào trong sự vô thường này”. Có rất nhiều người nói rằng: “Sao cũng được. Cuộc đời rất ngắn ngủi nên đối với tôi nó không quan trọng chút nào. Dù bạn có cho tôi hay không cũng không quan trọng”. Bởi vì quý vị vẫn cảm thấy rằng “Tôi không bước vào tánh Không”, nhưng thực ra quý vị đang ở trong sự trống rỗng này rồi. Đây chính là triết lý Phật giáo mà Sư Phụ đang nói đến, bởi vì ý thức của quý vị vẫn còn ở bên trong. Giống như Sư Phụ thường tư vấn tâm lý và nói chuyện với một số bệnh nhân, có người nói: “Tôi đã buông tay từ lâu rồi. Tôi không còn quan tâm nữa. Nếu anh ấy bỏ tôi thì thôi, tôi không đau khổ chút nào. Tôi nói thật… Tôi không trả lời tin nhắn của anh ấy, tôi cũng không nhớ anh ấy, và mỗi ngày tôi sẽ…” Cô ấy nói đến tận bây giờ, vẫn luôn nói về người bạn trai cũ này, thì quý vị có nghĩ rằng cô ấy đã có được sự trống rỗng không? Mặc dù miệng thì nói không bước vào sự trống rỗng, nhưng thực ra trong lòng tràn ngập vướng chấp về tánh Không.
Đã trống rỗng rồi, nhưng chúng ta vẫn chưa thể hoàn toàn trống rỗng, cũng không thể “ngoan không”(“ngoan không” có nghĩa là Cái “Không” sai lầm mà những người cuồng thiền thường hay chấp vào). Bởi vì sau khi hoàn toàn trống rỗng, thì ai sẽ cứu thế giới này và ai sẽ độ chúng sinh? Nếu chúng ta không mượn giả để tu thật, thì làm sao Bồ Tát Đại thừa có thể trải nghiệm được nhập thế hành thiện? Những vị Bồ Tát trên thiên xuống thế gian ai nấy đều phải nhập thế để làm việc thiện và cứu độ tất cả chúng sinh. Dù chúng ta muốn trống rỗng nhưng chúng ta vẫn phải nhập thế để làm những việc thiện.
Phải tu học Vô khởi. Vô khởi là gì? “Đừng lấy Vô khởi làm chứng đắc.” Vô khởi có nghĩa là tuy chúng ta ở trong tánh Không, mặc dù có đôi lúc nhập vào thế gian để làm việc thiện, chúng ta vẫn phải ở trong tánh Không để làm việc thiện và phải cứu độ chúng sinh. Trên thực tế vẫn là đang ở trong tánh Không, nhưng không nhập vào tánh Không, cũng không hoàn toàn rời khỏi tánh Không. Đây chính là triết học. Vô khởi chính là không động tâm. Chúng ta không lấy việc vô khởi làm chứng đắc, nếu tâm không lay động thì hãy thôi nghĩ đến những điều làm cho tâm lay động. “Tôi phải đi cứu người. Hôm nay tôi đến thế gian này và tôi đã phát nguyện rồi. Thì tôi nhất định phải cứu độ những chúng sinh hữu duyên” – Như thế thì quý vị vẫn có khởi tâm, vì quý vị đã khởi động tâm niệm của mình. Vì vậy, học Phật càng về sau, tốt nhất là có thể không động tâm. Tích cực làm việc thiện và tìm thật nhiều việc tốt để làm công đức mỗi ngày, nhưng không thể động cái tâm này làm mục tiêu cuối cùng. Cũng chính là nói, quý vị không được hành thiện hay làm bất cứ chuyện gì vì mục đích của bản thân. Quý vị không được xem cái kết quả đạt được đó là thành quả.Vì vậy, Phật giáo khi giảng dạy càng về sau thì thực sự khó vô cùng, tức là “Khởi tâm động niệm đều là nghiệp”. Hôm nay nếu có niệm thiện thì quý vị sẽ được thăng thiên, nếu có niệm ác thì sẽ xuống địa ngục. Nhiều người hỏi: “Tại sao Thầy bảo chúng con không được tùy ý khởi tâm động niệm ?” Đó là phải nghĩ đến tánh Không. Khi quý vị nghĩ đến sau khi làm mọi việc rồi, cuối cùng nó sẽ trở về trống rỗng, thì quý vị sẽ không còn cảm thấy “Tôi đang bố thí, tôi đang cho đi”. Quý vị “có thể phân biệt chư pháp không tướng”. Bởi vì Không tánh có nghĩa là đã rời khỏi. Ví dụ như hai người đang cãi nhau, sau khi quý vị rời khỏi hai người đó, thì tất cả các pháp đều không có hình tướng, nghĩa là khi quý vị nhìn thấy mọi hành vi, suy nghĩ và lời nói của hai người này, quý vị biết được đó đều là trống rỗng, một lúc sau sẽ biến mất rồi. Chỉ bằng cách này, quý vị mới có thể biết được trên thế giới này, việc hai người cãi nhau là do nhân quả. Quý vị không tham gia vào nhân quả, nhưng họ đã bước vào nhân quả rồi. Nếu quý vị nói ai đúng ai sai là quý vị đã tham gia vào nhân quả thị phi này ở thế gian
này. Nếu quý vị nói người này là “thị” thì người kia là “phi” (tức là không đúng); nếu trong lòng quý vị cảm thấy “sự việc này là đúng” và có cái “thị” này rồi thì trong tâm quý vị nhất định sẽ có cái “phi”. Cho nên, không bước vào nhân quả, đó mới là ý nghĩa thứ nhất.
Nếu chúng ta muốn chứng đắc đạo quả của Bồ Tát, muốn học cách giữ giới, tu định, thì quý vị phải hiểu rằng muốn thành Phật, trước tiên phải không vọng niệm, không lo âu, hơn nữa phải Không tánh, nhưng cũng không được cố chấp vào Không tánh. Người đã thành Phật họ có còn động niệm nữa không? Họ không có suy nghĩ gì nữa cả, vì Ngài đã là Phật rồi, bất luận họ làm gì đều là Phật ngôn Phật ngữ, họ làm bất cứ điều gì cũng đều là hành vi và trí tuệ của Phật, hoàn toàn không cần phải nghĩ đến chuyện “Tôi là Phật” hay “Tôi không phải là Phật”, hay “Tôi phải làm những việc của Phật vì tôi là Phật”. Cũng giống như một người nói: “Tôi là người tốt và tôi muốn làm những điều tốt. Hôm nay tôi là một người công nhân gương mẫu và tôi phải làm những việc gương mẫu”. Khi đó quý vị vẫn đang ở trong sự “gương mẫu” này và vẫn cố chấp vào điều này”, vẫn chưa hoàn toàn trống rỗng. Quý vị phải thực sự buông bỏ, dù biết mình là tấm gương cho mọi người noi theo, nhưng mà bản thân quý vị đã quên mất mình là tấm gương này, tóm lại là nhìn thấy những việc mà người gương mẫu đáng lẽ nên làm, nên giúp đỡ người khác thì quý vị sẽ làm.
“Năng thiện phân biệt.” Nếu quý cảm thấy điều này là tốt hay xấu thì quý vị có thể phân biệt được chúng. Thực ra trong tâm quý vị vẫn có sự phân biệt. Chỉ khi không phân biệt, mới có thể giỏi phân biệt mọi pháp tướng. Chỉ khi quý vị thoát ra khỏi những cuộc cãi vã của người khác, quý vị mới nhận ra rằng những cuộc cãi vã của họ thực chất là đều nằm trong nhân quả. Cho nên chúng ta phải rời khỏi, rời khỏi có nghĩa là nương vào tánh không, dựa vào việc không chấp tướng. Sư phụ nói với mọi người đến tận bây giờ, mong quý vị hiểu rằng dù làm việc gì, thì làm rồi cũng như chưa làm, không chấp tướng. Hãy dùng tâm thiền định để nhìn thấu thế giới này, nó hoàn toàn là hình tướng ảo ảnh do thiền định tạo ra, dần dần quý vị sẽ hiểu tánh “Không” là gì.
Mong rằng mọi người sẽ học Phật thật tốt, hiểu tường tận tư tưởng của Phật giáo và những nghĩa lý đầu tiên của Phật pháp, để có thể hoàn toàn thoát khỏi “tướng Không” này – tức là không những quý vị đã trống rỗng rồi, mà còn phải thoát ra khỏi hình tướng trống rỗng đó – khi đó quý vị có thể chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi.
44. Được nghe Phật pháp tôn trọng cúng dường
Tập 44
ĐƯỢC NGHE PHẬT PHÁP TÔN TRỌNG CÚNG DƯỜNG
(15/04/2020)
Hôm nay Đài trưởng sẽ kể cho đại chúng nghe một câu chuyện về thời Đức Phật còn tại thế.
Năm ấy Đức Phật thường xuyên đi hoằng pháp khắp nơi, khi Ngài hoằng pháp tại vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Ðộc nước Xá Vệ, có một trưởng lão rất giàu có ở thành phố này, ông cưới con gái của một nhà quý tộc danh môn làm vợ. Ông đặc biệt thuê những nhạc công giỏi nhất trong thành hàng ngày chơi đủ loại nhạc hay để làm vợ ông vui lòng.
Vợ trưởng lão sinh ra một bé trai kháu khỉnh sau mười tháng mang thai. Đứa trẻ này sau khi sinh ra, tự nhiên được quấn trong một bộ quần áo dệt từ hoa Tu Mạn, không những mềm mại, nhiều màu sắc mà còn tỏa ra một loại hương thơm hiếm có trên thế gian, mang lại cho người ta cảm giác sảng khoái khi ngửi thấy. Vì lý do này, vị trưởng lão đã đặc biệt mời thầy bói địa phương đến xem tướng cho con trai mình. Khi các thầy bói nhìn thấy vẻ ngoài trang nghiêm và độc đáo của đứa bé, họ thốt lên: “Đứa trẻ này thật không thể tin được!” Họ hết lời tán tụng và lần lượt hỏi vị trưởng lão: “Có điềm tướng lành gì trong quá trình sinh đứa trẻ không?” Cặp vợ chồng trưởng lão đáp: “Đứa bé được sinh ra với bộ quần áo hoa Tu Mạn đầy màu sắc trên thân..” Các thầy bói thấy khó tin nên đặt tên cho đứa bé là “Tu Mạn Na” (Tu Mạn Na chính là tên của loài hoa).
Tu Mạn Na lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, tính cách của cậu bé rất khiêm tốn, luôn dịu dàng và nhã nhặn với người khác, càng ngày càng hiếu thảo với cha mẹ, mọi người đều thích đến gần đứa trẻ này. Điều đáng kinh ngạc hơn nữa là bộ quần áo hoa Tu Mạn trên người cũng lớn lên theo cơ thể của cậu bé, đứa trẻ lớn đến đâu thì quần áo cũng sẽ lớn đến đó, luôn vừa vặn và hoàn hảo.
Cặp vợ chồng trưởng lão biết rằng Tu Mạn Na có thể mặc được bộ áo hoa Tu Mạn trang trọng này trên người chắc hẳn phải có nhân duyên đặc biệt nào đó nên họ đã yêu cầu Tu Mạn Na đến vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Ðộc nước Xá Vệ để xuất gia tu hành (ngày xưa muốn xuất gia không hề dễ dàng, đó là bước vào một loại cảnh giới của hoàng thân quý tộc, rất cao quý), đồng thời theo Tôn giả A Na Luật học tọa thiền và các pháp môn khác.
Sau khi xuất gia, Sa di Tu Mạn Na đã rất siêng năng học tập, dưới sự giảng dạy của Tôn giả A Na Luật, không bao lâu đã sớm chứng đắc quả A-la-hán, tiếp đó
cậu đã có được tam minh lục thông và có đủ tám giải thoát. Tam minh là thiên nhãn minh, túc mệnh minh, lậu tận minh. Lục thông đó là: thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mệnh thông, lậu tận thông, và còn có thần túc thông. Nói cách khác, đứa trẻ này có khả năng đặc biệt và có thể đi đến khắp mọi nơi. Có lẽ mọi người đều biết về những thần thông khác, nhưng lại không hiểu về lậu tận thông. “Lậu” thực ra có nghĩa là phiền não, nếu có thể loại bỏ hết phiền não thì sẽ không còn phiền não nữa. Đứa trẻ này được chư thiên thế nhân ngưỡng mộ và mọi người đều kính trọng nó.
Một hôm, Tôn giả A Na Luật bảo Tu Mạn Na đi đến sông Bạt Đề ở phía xa để múc nước tinh khiết cúng dường Đức Phật, nên Tu Mạn Na đã đến sông Bạt Đề. Sau khi đổ đầy nước sạch vào bình, cậu ta ném nó lên không trung, không ngờ bình thanh lọc đó trong không trung bay theo cậu ta , rồi đi theo Tu Mạn Na và bay về phía Tinh Xá Trúc Lâm. Các vị Tỳ kheo đang ở trong Vườn Cấp Cô Độc lúc bấy giờ ai nấy đều rất ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc bình chứa đầy nước bay qua, sau khi biết rằng Tu Mạn Na chỉ là một Sa di, đã xuất gia không được bao lâu, họ rất ngạc nhiên khi Tu Mạn Na có thể có được thần thông kỳ diệu như vậy và không thể tin được: “Cậu ta mới xuất gia, sao lại có thần thông to lớn đến như vậy?”. Sau đó tất cả chư Tăng kính cẩn đến gặp Đức Phật và xin Ngài chỉ dẫn: “Bạch Thế Tôn, Sa di Tu Mạn Na rốt cuộc trước đây đã tu loại phước báo gì, mà không những ở đời này, cậu ta còn được sinh ra trong một gia đình giàu có, hơn nữa lại được sinh ra với bộ quần áo hoa Tu Mạn trên thân và sau khi cậu ta xuất gia không bao lâu, lại có thể chứng đắc quả vị A-la-hán và có được thần thông như vậy?” Khi ấy Đức Phật từ bi tiết lộ nhân duyên cho tất cả các vị Tỳ-kheo nghe. Đức Phật rất từ bi, chỉ cần ai hỏi Ngài điều gì, thì Ngài sẽ nói cho họ biết về nhân quả đó.
Cách đây chín mươi mốt kiếp, khi Đức Phật Tỳ Bà Thi còn tại thế, lúc bấy giờ Ngài đã hoằng dương Phật pháp ở nước Ba La Nại và giáo hóa cho dân chúng, sau khi công đức viên mãn, Ngài nhập Niết-bàn, tức là Ngài đã hoàn toàn chứng đắc vô thượng Không tánh, chứng đắc vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc bấy giờ, vua Phạm-ma-đạt-đa còn là đệ tử của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhập niết bàn, Ngài phát tâm xây dựng Tứ Bảo Tháp để cúng dường xá lợi của Đức Phật. Lúc này có một cậu bé chạy đến trước tháp, ngước mắt lên đảnh lễ bảo tháp: “Thật uy nghi, thật tốt lành, thật là một bảo tháp thù thắng và trang nghiêm!” Cậu cảm thấy hoan hỷ trong lòng khi nhìn thấy ngôi bảo tháp này, nên cậu đã phát nguyện sẽ xuất gia, nhưng từ khi còn nhỏ cho đến khi về già cậu vẫn chưa thể khai ngộ . (Cho nên đối với mỗi đứa trẻ, đi tu không nhất thiết là
đã khai ngộ, và học Phật cũng không nhất thiết là đã có trí huệ.) Cậu tự trách mình và sám hối rất nhiều trong suốt cuộc đời: “Tại sao mình tu cả cuộc đời mà vẫn chưa khai ngộ?”
Một hôm, vị Tỳ kheo tự trách này đã dùng hết tiền tiết kiệm của mình để mua hoa Tu Mạn, đích thân dùng chỉ mỏng khâu từng bông hoa Tu Mạn thành chiếc áo hoa Tu Mạn có thể che phủ toàn bộ bảo tháp và cúng dường Phật tháp xá lợi (Trải hoa khắp chùa, quý vị có thể thấy được nguyện lực này mạnh mẽ đến nhường nào), và phát nguyện: “Tôi phải được sinh vào thế giới của Đức Phật (nghĩa là sau này có tái sinh, nhất định phải được sinh ra trong thế giới của Đức Phật), theo Phật xuất gia và chứng ngộ đạo quả.” Trong những câu chuyện về các vị Phật này được Sư Phụ kể, nguyện lực của nhiều người là “Tôi phải được sinh vào thế giới mà nơi Đức Phật trụ thế.” Đây chính là đại nguyện lực.
Sau đó, Đức Phật bảo với mọi người rằng, vị Tỳ kheo Tu Mạn đã tạo công đức cúng dường này nên không bao giờ bị đọa vào địa ngục, súc sinh hay ngạ quỷ trong chín mươi mốt kiếp tới. Bất kể là thiên nhân ở cõi trời hay ở cõi nhân gian, vị Tỳ kheo này luôn mang theo y áo hoa Tu Mạn (tức là dù có là thiên nhân cũng có y áo hoa này, và ở cõi người cũng có y áo hoa này), và hưởng thụ phước báo của thiên nhân. Hơn nữa, nhờ công đức sám hối và phát nguyện, trong đời này, cậu ta đã có thể gặp được Đức Phật, theo Đức Phật xuất gia và chứng đạo quả. Vì vậy, mọi người phải hiểu thế nào là “sám hối và phát nguyện”, là sám hối sự ngu si, chưa khai ngộ của mình và “Con phát nguyện nhất định phải tăng trưởng trí tuệ của Phật”. Bởi vì khi quý vị phát nguyện sau khi sám hối, sức mạnh của lời nguyện đó đặc biệt mạnh mẽ và đặc biệt linh ứng. Vì vậy, Sư Phụ bảo quý vị hãy niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn trước khi phát nguyện. Khi Đức Phật giảng đến đây, mọi người đều nghe lời Đức Phật dạy, tuân theo lời dạy của Ngài và vui vẻ làm theo.
Điều này muốn nói với mọi người rằng một người có thể không khai ngộ, nhưng không thể không có tâm sám hối, một người có thể phạm sai lầm, nhưng không thể không có tâm sửa đổi. Trong 《Kinh Đại Bát Niết Bàn》 có nói: “Nếu thấy Xá Lợi của Như Lai thời là thấy Phật” Điều này chính là nói với chúng ta rằng, khi quý vị nhìn thấy kinh Phật và thấy xá-lợi Như Lai của Phật, thực ra cũng giống như nhìn thấy Phật vậy. Vị Tu Mạn Na này đã phát tâm xuất gia khi còn trẻ ở kiếp trước, nhưng khi về già ông vẫn chưa khai ngộ. Ông không vì thế mà đánh mất đi Bồ-đề tâm, ngược lại có thể nhìn lại và quán chiếu về chính mình ”Tại sao cả đời tôi đều không khai ngộ?” và cảm thấy ăn năn. Khi trong
lòng ông ta khởi lên sám hối, cùng lúc phát đại tâm nguyện, và cố gắng toàn tâm toàn ý nguyện cúng dường, cũng là lúc ông đã tạo ra được công đức cúng dường. Vì thế ông cảm được bộ quần áo hoa Tu Mạn trên thân mình khi vừa chào đời, còn được gặp Đức Phật tại thế và xuất gia tu hành, đó là quả báo thù thắng của chứng đạo Phật Quả.
Hôm nay chúng ta đang học Phật và đã được nghe Phật Pháp, chúng ta chính là những người rất may mắn. Tại sao suốt ngày chúng ta vẫn không trân trọng và hài lòng với nhiều thứ? Chúng ta có trí tuệ, nhưng trí tuệ này là trí tuệ của thế gian. Chúng ta phải biến nó thành trí tuệ và công đức của Phật. Và phải sám hối quá khứ của mình. “Sinh vào cõi Phật khó, gặp được chánh pháp thật khó.” Tuy ngày nay chúng ta không thể “tái sinh vào cõi Phật” (có nghĩa là Đức Phật còn sống ở thế gian này) nhưng chúng ta thật may mắn vì có được Chánh Pháp của Đức Phật vẫn còn ở trên thế gian, chúng ta vẫn có thể học tốt, và chúng ta càng nên nắm bắt các nhân duyên khác nhau, và cố gắng nghe Phật Pháp, kính trọng cúng dường và tinh tấn không lười biếng.
Nếu hôm nay quý vị trông thanh tú thì kiếp trước chắc chắn đã cúng hoa; nếu mắt tốt thì chắc chắn đã cúng dầu; nếu có tài hùng biện chắc chắn đã từng nói lời ái ngữ; nếu tâm trí quý vị thanh tịnh và không có tai kiếp thì chắc chắn kiếp trước quý vị đã từng tu hành. Vì vậy, mọi thứ đều “do tâm tạo ra” ở kiếp trước và kiếp này. Hôm nay quý vị muốn có tín giải hành chứng (tức là quý vị muốn giải thoát thì phải tin, phải tu và chứng đắc Phật quả), quý vị phải tin vào nó, phải “đạt được tâm ấn Cổ Phật”, và phải nắm chắc năng lượng tích cực của Bồ Tát, đặt nó vào trong tâm mình và để Phật tánh trong trường thức thứ tám gặp Phật tánh nguyên thủy của thức A-ma-la trong trường thức thứ chín. Đây chính là Phật tánh nguyên thủy của thức A-ma-la. “Khế hợp tâm Phật hợp nhất”, chỉ bằng cách này quý vị mới có thể một kiếp tu thành và vĩnh đoạn luân hồi.
Cảm ơn đại chúng, bài giảng hôm nay đến đây kết thúc. Chúng ta hẹn gặp lại vào lần sau.
45. Tứ diệu đế chính là giải thoát đế
Tập 45
TỨ DIỆU ĐẾ CHÍNH LÀ GIẢI THOÁT ĐẾ
(18/04/2020)
Hôm nay chúng tôi sẽ tiếp tục giảng cho đại chúng nghe về “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Học Phật là phải giải thoát. Trong suốt cuộc đời, khi đến tuổi trung niên, con người sẽ bắt đầu hồi tưởng về cuộc đời và tuổi trẻ của mình. Con người thường sẽ nghĩ: Tại sao đời người lại mất mát nhiều đến thế? Tại sao những thứ chúng ta có được khi còn trẻ, bao gồm bạn bè, gia đình, giờ lại không còn nữa? Chúng ta đến nhân gian rốt cuộc là để làm gì? Nhiều người nói, chẳng lẽ chúng ta đến thế giới này cũng giống như bao người khác, cũng trải qua một vòng lặp cuộc sống như vậy sao? Cứ như vậy đi hết con đường của cuộc đời mà không biết mục đích mình đến thế giới này là gì, chỉ khi hoàn thành quá trình đó chúng ta mới nhận ra rằng thì ra ở trong thế giới này nên học Phật, hiểu được mình nên đi đâu sau khi rời khỏi thế giới này. Nhưng chưa có ai nghĩ tới điều này, bởi vì họ sẽ không nghĩ đến việc học Phật khi còn ở nhân gian. Trước hết, họ không có được duyên phận này, vì suốt ngày chỉ chăm chăm vào tổ ấm nhỏ của mình mà quên mất rằng còn có một “ngôi nhà” của Huệ mệnh. Mỗi người đều có Huệ mệnh của riêng mình, thân thể là một ngôi nhà, nhưng trí tuệ lại sở hữu một “ngôi nhà” khác, và “ngôi nhà” trí tuệ này sẽ giải thoát quý vị khỏi những phiền não và đau khổ trong cuộc đời.
Nhiều người cả cuộc đời ở trong xã hội này chịu khổ đau vì chưa tìm được một “ngôi nhà” trí tuệ. Nhiều người cái thân họ sở hữu nhà cửa, ô tô, sở hữu những dinh thự sang trọng và một số bạn bè, nhưng những thứ này chỉ là phù du (như quá nhãn vân yên) và sẽ sớm biến mất. Không ai nghĩ về những gì nên làm cho tương lai của mình – rốt cuộc là chuẩn bị đi đến nơi nào – chuẩn bị một số thứ gì. Tại sao cuộc đời tôi lại đau khổ đến vậy, tại sao ở tuổi trung niên của tôi lại xảy ra nhiều chuyện như vậy? Bởi vì quý vị không tìm được một sinh mệnh khác, đó chính là Huệ mệnh.
Vì vậy, Sư phụ mong rằng mọi người sẽ thoát khỏi đau khổ, thoát khỏi phiền não và có được Huệ mệnh cho riêng mình. Con người chúng ta thật đáng thương, nhiều người trong chúng ta mới học Phật, mới tìm được “ngôi nhà” cho riêng mình, nhưng do vô minh nên có nhiều liệt căn tính (thói hư tật xấu) và nghiệp chướng, nên sau đó lười biếng. Đã tìm được Phật Pháp, nhưng dần dần lại mất Pháp, bởi vì không thể khắc phục được những phiền não khi học Phật và không kiềm chế được bản thân, không thể nhẫn nại, không thể quên đi những oán kết của người khác đối với mình từ nhiều kiếp, không thể tha thứ và không
thể bao dung cho người khác, ngày ngày sống trong đau khổ và phiền não, Huệ mệnh vì thế lại bị đánh mất một lần nữa. Bởi vì nhìn thấy môi trường bên ngoài của xã hội này đầy rẫy “nhĩ tranh ngã đoạt” (sự tranh đoạt giữa bạn và tôi), suốt ngày gặp phiền não vì sự đố kỵ giữa bạn bè với nhau, nên họ cũng gia nhập vào hàng ngũ này và xa rời Huệ mệnh của chính mình.
Người học Phật cần hiểu, điều gì mang đến cho mình nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời? Đó chính là thân thể của mình. Thân thể của quý vị cảm thấy dễ chịu trong chốc lát, hoặc cảm thấy khó chịu trong chốc lát, cảm thấy đau hoặc không đau trong chốc lát. Trong cuộc sống, quý vị phải dùng thân xác của mình để tận hưởng những thứ vinh hoa phú quý vô hình, những thứ mà rất nhanh sẽ mất đi, khi một ngày quý vị phát hiện mình mắc bệnh nan y, tất cả những thứ đó sẽ tan biến như mây. Vì thế chúng ta tiếp tục sống trong vòng luân hồi này, không thể buông bỏ được, cho nên chúng ta không thể thoát khỏi nó. Nhiều người khi phát hiện mình mắc bệnh hiểm nghèo họ sẽ rời bỏ thế gian này với sự tiếc nuối cả đời, điều này nghĩa là họ chỉ có thể sở hữu được thân xác, mà không giữ lại được Huệ mệnh cho mình.
Vì vậy Sư Phụ bảo mọi người phải học, Phật pháp chính là dạy chúng ta cách thoát khỏi những phiền não trong cuộc sống. Trong Phật pháp có một điều vĩ đại nhất đó là “Tứ Diệu Đế”, cho mọi người biết rằng có một chân đế, ở đời này chỉ cần quý vị nắm vững được chân đế này và hiểu cách vận hành của thế giới, thì quý vị sẽ khắc phục được những phiền não của chính mình và biết cách thoát ra khỏi vực sâu của cuộc đời. Hôm nay Sư Phụ sẽ nói vắn tắt với mọi người về “Tứ Diệu Đế”.
Đức Phật dạy chúng ta rằng, thực ra đạo lý đơn giản nhất của Phật giáo là “Tứ Diệu Đế”, lý luận cơ bản của Phật pháp chính là Tứ Diệu Đế, cho chúng ta biết ý nghĩa thực sự trong xã hội này là gì và làm thế nào để hiểu được ý nghĩa thực sự đó. Trước hết, “Đế” trong Tứ Diệu Đế có nghĩa là gì? “Đế” là chân lý tuyệt đối, chân đế chính là chân lý, không ai khác có thể bác bỏ được. “Tứ Đế” là Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế, theo quan điểm của Phật giáo mà nói thì đó là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Vậy tại sao đây lại là một chân lý vĩnh cửu? Chính là để nói với mọi người rằng cuộc sống diễn ra như thế đấy, dù cho quý vị không hiểu thì đó cũng là một sự thật mà quý vị phải trải nghiệm.
Chẳng hạn, về “Khổ đế”, mọi người hãy nghĩ xem, khổ đau của con người là sinh, lão, bệnh, tử và không ai có thể thoát khỏi nó. Ngày nay, dù giàu có hay danh lợi đến đâu đi chăng nữa, cũng không thể thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử,
không ai có thể thoát khỏi nó. Điều này có phải là chân đế không? Quý vị nói xem người giàu sẽ không chết sao? Người có sức khoẻ tốt đến đâu không phải cũng sẽ chết sao? Đây chính là điều Phật pháp dạy chúng ta đó là khổ, vì khi chết sẽ rất đau khổ. Về già không thể làm được điều gì mình muốn, rất đau khổ. Sinh ra rất khổ, khi sinh ra đứa bé muốn ăn gì cũng không được, không có răng, lạnh nóng thất thường, lại không thể nói được, chỉ biết khóc. Quý vị thấy con người khổ biết bao, nên Bồ Tát dạy cho chúng ta chân lý thứ nhất đó là khổ, vì không ai có thể thoát khỏi sinh, lão, bệnh, tử.
Điều thứ hai nói về “Tập Đế”, “Tập Đế” tức là tập hợp các nguyên nhân gây ra đau khổ. Vì sao có khổ nạn? Bởi vì tất cả chúng sinh từ vô thỉ kiếp đã có phiền não tham, sân, si, đời trước tham, sân, si sẽ tiếp nối đến đời sau. “Tập Đế” là tập hợp “nhị thập ngũ hữu” (25 cõi trong tam giới) của nguyên nhân gây ra quả khổ. “nhị thập ngũ hữu” là hình tượng sanh mệnh với 25 cõi luân hồi sinh tử. Nhiều người đến từ sáu cõi – địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, cõi người và cõi trời. Trong Thiên giới cũng bao gồm 6 tầng của cõi trời Dục giới, cõi trời Sắc giới và cõi trời Vô sắc giới. Bồ Tát dạy chúng ta rằng tất cả những thứ này đều tồn tại trên thế gian, nên muốn mọi người hiểu nó, tổng cộng được phân thành 25 cõi nên gọi là “nhị thập ngũ hữu”. Tức là dù quý vị có muốn thoát cũng không thể thoát ra được, đây là chấn đế, bởi vì luân hồi sinh tử chính là ở trong vòng luân hồi không thoát ra được. Bồ Tát dạy chúng ta rằng, Khổ, Tập – chính là do sự luân hồi quả khổ của “nhị thập ngũ hữu” này mà khiến cho tham, sân, si của quý vị tích lũy ngày càng nhiều ở các kiếp, và những khổ nạn này mới phát sinh ra quả khổ của sinh tử trong ba cõi. “Tập” này là tập hợp những nguyên nhân gây ra khổ nạn, quý vị phải tự mình tìm ra lý do tại sao quý vị lại đau khổ. Một số tôn giáo nói về nguyên tội luận (là luận bàn về nguồn gốc tội lỗi), cho rằng con người sinh ra là đã có tội, theo giới Phật giáo mà nói đó chính là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. “Tập” ám chỉ nhân quả mà chúng ta đã mang lại ở kiếp trước, kiếp này chúng ta phải tiếp tục nhận lấy quả báo và hồi báo của chúng, thiện có thiện báo, ác có ác báo. Kiếp trước chưa báo hết thì kiếp này sẽ tiếp tục báo.
Thứ ba là “Diệt đế”. “Diệt đế” nhằm nói với mọi người rằng, trên thế gian này dù là người hay đồ vật thì cuối cùng cũng sẽ có một ngày kết thúc và một ngày nào đó sẽ diệt vong, có sinh sẽ có diệt. Ví dụ, nếu nơi này bị cháy, cuối cùng nó sẽ được dập tắt, nếu người này thích nói chuyện điện thoại cỡ nào đi chăng nữa, thích nói chuyện điện thoại thật lâu thì dù có nói bao lâu, cho dù là một tiếng đồng hồ thì cuối cùng cũng sẽ cúp máy. Trong cuộc sống cũng vậy, dù cho quý vị sinh ra có sức khỏe tốt đến đâu hay cảm thấy cuộc sống rất tốt đi chăng nữa,
thì đến một ngày nào đó cũng sẽ ra đi. Dù chúng ta mua căn nhà tốt đến đâu và sống trong đó bao lâu, quý vị có thể sống ở đó hàng trăm năm không? Cuối cùng một ngày nào đó cũng sẽ diệt độ đúng không? Kỳ thực, “Diệt đế” chính là Niết Bàn mà Bồ Tát nói với chúng ta. Nhiều người cho rằng Niết Bàn có nghĩa là biến mất, là chết rồi, thực ra Niết Bàn là một loại giải thoát. Khi quý vị hiểu được điều này, khi biết rằng con người sẽ không chết đi, thì quý vị sẽ được giải thoát. Vì vậy, “Diệt đế” thuộc về sự tương tục của sinh tử, bởi vì trong Phật giáo không nói rằng cái chết giống như một ngọn đèn dập tắt, bởi vì con người hoàn toàn biết mình sẽ đi về đâu sau khi chết, và sẽ không thực sự chết đi. Con người sẽ tái sinh lần nữa, hoặc lên cõi trời hoặc xuống địa phủ. Vì vậy, sự tương tục sinh tử này chính là “Diệt đế”, có nghĩa là để cho con người biết được chân đế của thế giới này chính là: dù quý vị có bị mê hoặc hay hiểu rõ đi chăng nữa thì sự mê hoặc cuối cùng sẽ chấm dứt; nếu quý vị có trí tuệ hay thông minh, dù có đạt được gì thì cuối cùng nó cũng sẽ bị diệt độ. Vì vậy, chúng ta phải hiểu rằng, trên thế giới này, dù cho là đau khổ hay niềm hạnh phúc thì một ngày nào đó đều sẽ biến mất, vậy thì tại sao quý vị không thể sớm khai ngộ để tránh xa những phiền não của thế gian và tránh xa đau khổ của sinh tử?
Thứ tư là “Đạo đế”, “Đạo đế” là đã tìm ra con đường này. Nếu chúng ta đang lái xe mà đi lạc đường, không biết đi đâu, thì chúng ta cứ đi lòng vòng mãi cho đến khi tìm được đường về nhà, chỉ cần tiếp tục lái xe về phía trước là được. Khi quý vị tìm thấy con đường này, thì quý vị đã tìm thấy chân đế, bởi vì quý vị sẽ tiếp tục dũng cảm tiến về phía trước, thì quý vị sẽ được giải thoát. Đợi đến khi quý vị hoàn toàn hiểu được đạo lý của cuộc sống, đó là sự chứng đạo của cảnh giới Niết Bàn.
Như quý vị đã hiểu, biết rằng thế giới này chẳng qua là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Đây là lý luận uyên thâm mà Phật giáo dạy cho chúng ta hiểu được, cho chúng ta biết rằng dù con người có làm gì thì sự sống và cái chết đều vô thường. Cuối cùng sẽ có sinh, lão, bệnh, tử và tất cả đều sẽ bị diệt độ. Vì vậy, bảo quý vị ở nhân gian đừng tranh đấu với người khác, đừng cướp đoạt với người khác, bởi vì tất cả những điều này đều sẽ qua đi, đó là Diệt đế, đây chính là chân lý.
Trong xã hội này, chúng ta phải học cách bình tĩnh, hạ thấp tâm thái một chút, đừng hở ra thứ gì cũng tranh giành, hãy giảm bớt việc nhìn vào ưu điểm của mình mà hãy nhìn vào ưu điểm của người khác nhiều hơn, hãy khiến cho cho sự kiêu ngạo của chúng ta dần trở thành khiêm tốn và được tôn trọng. Quý vị nhìn xem, bất kì một người nào tôn trọng người khác thì người khác chắc chắn sẽ tôn
trọng họ. Khi quý vị tôn trọng tất cả mọi người, quý vị sẽ tự nhiên cảm thấy môi trường xung quanh mình rất hòa hợp, sự hòa hợp này diễn ra như thế nào? Là do chính quý vị tạo ra. Vì vậy, tử tế với người khác sẽ thu hút người khác tử tế với quý vị; ghen tị và sân hận với người khác sẽ thu hút người khác ghen tị và sân hận với quý vị. Sư Phụ nói cho mọi người biết nhiều mâu thuẫn giữa con người với nhau đều bắt nguồn từ chính bản thân mà ra. Quý vị không thể hiểu rằng thế giới này không còn thời gian dài đối với quý vị nữa, bởi vì mọi thứ sẽ qua đi. Nghĩ lại tuổi trẻ của chúng ta trôi qua rất nhanh, tuổi thiếu niên, tuổi thanh niên, tuổi trung niên, mọi thứ đều như mộng huyễn bào ảnh.
Sư phụ muốn mọi người hiểu rằng, đừng bao giờ kiêu ngạo, bởi vì mọi người đều giống nhau và không thể rời khỏi được Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Luôn cảm thấy mình thông minh hơn người, mở mang kiến thức nhiều hơn người, hiểu biết hơn người và dần dần những xung đột sẽ nảy sinh trong cuộc sống của quý vị. Mâu thuẫn gia đình bắt nguồn từ đâu? Đó chính là không thể hạ thấp bản thân mình. Tại sao lại có mâu thuẫn với vợ và chồng, chính là không thể hạ thấp bản thân và luôn cho rằng mình đúng, đây là tâm ngạo mạn. Cũng có người học Phật học không tốt, suốt ngày than vãn và hình thành thói quen luôn nói xấu người khác, phàn nàn về người khác, khi đó tâm trí của họ sẽ giống như một xiềng xích không thời khắc nào có thể thoát ra được. Khi trong linh hồn của quý vị bị trói buộc, quý vị không có cách nào giải thoát mình khỏi thế giới nội tâm, quý vị sẽ phải chịu đau khổ và phiền não.
Chúng ta phải thực sự hiểu hạnh phúc là gì trên thế giới này. Sư phụ nói cho mọi người biết hạnh phúc không phải là có được nhiều hơn, mà là ít phàn nàn hơn. Càng ít phàn nàn thì cuộc sống của quý vị sẽ càng hạnh phúc; nếu ngày nào cũng phàn nàn, ngày nào cũng phiền não, thì cuộc sống và số phận của quý vị chắc chắn sẽ không hạnh phúc. Vì vậy, học Phật học càng về sau, đừng quá khắt khe với người khác và đừng phàn nàn khi có chuyện xảy ra. Sau khi học Phật, phải biết kiềm chế cảm xúc và tâm thái của mình, nếu biết hôm nay tâm trạng không tốt, phải học cách kiềm chế nó thì mới có được sự yên bình trong nội tâm.
Ở thế gian này, thường nghe người khác nói: “Đạo Phật dạy rằng nhân sinh là vô thường, không có gì tồn tại mãi mãi.” Khi quý vị nghe “Nhân sinh là vô thường”, và nghĩ: “Ai da, điều này thật nhàm chán”, và trong lòng cũng thoáng qua một chút thê lương, “Không có gì tồn tại lâu dài, thật khó chịu làm sao.” Cảm thấy rằng mọi thứ trên thế gian này cuối cùng sẽ trở nên tồi tệ, rằng mọi nỗ
lực đều vô nghĩa, rằng những nỗ lực cuối cùng sẽ thay đổi, rằng sẽ không có gì sau khi chết đi, và rằng sinh mệnh không có giá trị nữa. Họ sẽ đau khổ, vì thế không có trọng điểm hay trọng tâm nào trong tâm trí – rốt cuộc là bản thân cần làm gì, rốt cuộc là cần làm gì trên thế gian này, và ngày tháng cứ như thế trôi qua, ngày này qua ngày khác, không có mục đích. Một số người nghe Phật giáo nói về vô thường lại ôm giữ một tâm thái khác: vì mọi thứ đều vô thường và không tồn tại lâu dài nên mình nên nhanh chóng hưởng thụ, tận hưởng thời gian, ngày ngày tửu sắc tài khí, tham sân si, sống trong tài sắc danh thực thùy. Trong ngũ dục, dùng niềm vui giả tạo đó để làm bản thân mê hoặc, làm lấp đầy sự trống trải và bất an trong lòng. Tuy nhiên, khi niềm vui qua đi, nó lại mang đến cho bản thân nhiều nỗi đau, sự trống trải, cô đơn và bất an, giống như khi một người gặp chuyện phiền muộn họ uống một chút rượu, người đó có thể tạm thời giải tỏa được phiền muộn, nhưng sau một thời gian họ sẽ lại gặp phải phiền não. Cho nên Sư phụ muốn mọi người hiểu rằng nếu quý vị là phàm nhân không học Phật thì sẽ hiểu thế giới vô thường một cách phiến diện – cho rằng “chán lắm, dẫu sao cũng vô thường”, nên nhiều người hiểu sai về vô thường.
Vô thường là chân tướng của cuộc sống. Quý vị hiểu được mọi thứ trên đời này đều là vô thường. Tuy nhiên, nếu quý vị không nhận thức đúng về vô thường thì quý vị sẽ không có niềm hy vọng đúng đắn về cuộc sống. Trong tâm quý vị và trong sự tiếp xúc thực tế với người khác, sử dụng chủ nghĩa duy tâm gây ra nhiều mâu thuẫn với người khác. Lấy một ví dụ đơn giản, khi người khác nói “Tôi phải chăm chỉ”, thì người này sẽ nói “chăm chỉ để làm gì? Tất cả đều là vô thường thôi, sau này cũng sẽ không còn nữa”. Trên thực tế, loại chướng ngại này tạo ra vô số phiền não không dứt trong lòng mỗi người, thế nên hiện thực và lý tưởng sẽ khác nhau và dần dần sẽ bắt đầu cảm thấy: “Tại sao lại sinh ra tôi, khiến tôi phải đau khổ đến thế?”, nhiều đứa con thường có suy nghĩ: “Tại sao cha mẹ sinh ra tôi để tôi phải chịu khổ? Đó chính là sự hiểu biết không bình thường về cuộc sống và họ sẽ không hiểu được đâu là khởi đầu của một cuộc sống trọn vẹn.
46. Quán pháp vô ngã, thường hằng bất biến
Tập 46
QUÁN PHÁP VÔ NGÃ, THƯỜNG HẰNG BẤT BIẾN
(18/04/2020)
Sư phụ muốn nói với mọi người rằng giữa vô thường có một dòng sinh mệnh thường hằng bất biến, chúng ta cần tìm ra dòng sinh mệnh thường hằng bất biến của mỗi người. Khi chúng ta ở thế gian này dù mọi thứ sẽ thay đổi, nhưng điều thay đổi đó chính là một loại vật chất và tư duy của chúng ta. Nếu có thể tìm thấy tâm niệm của mình và tìm thấy được Phật tánh của thức thứ chín, như quý vị đã biết sinh, trụ, dị, diệt. Con người có sinh, lão, bệnh, tử. Thế giới có thành, trụ, hoại, không, và hết thảy vạn vật trên thế gian được tạo ra bởi sự kết hợp của các mối nhân duyên với nhau, quý vị sẽ rõ một khi ý niệm này đã được định hình thì nó cũng sẽ thay đổi, bởi vì các mối nhân duyên đang thay đổi. Giống như nếu trước đây quý vị rất ghét ai đó mà người đó vẫn đối xử tốt với quý vị, thì thời gian lâu dần, quý vị sẽ thay đổi quan điểm của mình.
Chúng ta ở nhân gian rất khổ, tại sao có người lại tìm thấy được niềm vui trong đau khổ? Có người đặt hy vọng lớn vào một số hành chính sự nghiệp với kỳ vọng cao, rồi cuối cùng lại thất vọng, nhưng họ không thực sự thất vọng vì họ đã tìm thấy chân lý thường hằng bất biến trong trái tim mình. Họ biết thế gian này là do nhân duyên tạo thành, chỉ cần nỗ lực và đợi đến khi nhân duyên hội tụ, thì nhất định sẽ thành công. Đây là lý do tại sao có nhiều nhà khoa học, giống như hai anh em người Mỹ chế tạo máy bay, sau vô số thất bại mới tạo nên thành công của họ. Ở nhân gian, sau vô số vấp ngã, chúng ta mới có thể đứng dậy và dũng cảm tiến về phía trước, chỉ sau vô số phiền não, chúng ta mới có thể xây dựng được cái thân kim cang bất hoại của mình.
Khi học Phật, môi trường xung quanh đang thay đổi, nhưng cái tâm học Phật của quý vị thì không thể thay đổi. Chúng ta có thể lựa chọn trốn chạy và buông lung khi gặp phiền não, nhưng chúng ta phải hiểu rằng những điều này không thể giải quyết được vấn đề, đây không phải là bản chất con người của chúng ta, cũng không phải là lý niệm mà trí tuệ con người chúng ta nên có. Chúng ta nhất định phải tích cực trong cõi vô thường đầy sự biến hoá huyền ảo này, chúng ta mượn đạo lý của vô thường để vận dụng Nhân Duyên Pháp và tích cực tạo dựng cũng như thiết lập nên Duyên Khởi của cái thiện (sự thiện lương).
Lấy một ví dụ đơn giản, nếu cho quý vị ba ngày để làm một việc gì đó, quý vị sẽ biết rằng sau ba ngày việc đó sẽ không phải mình làm nữa, nếu quý vị nắm bắt thời gian trong ba ngày này, có niềm tin và dành ba ngày này phát huy hết tác dụng, có nghĩa quý vị đã nắm bắt được nhân duyên trong ba ngày này, người khác sẽ khen ngợi quý vị và sẽ không nói quý vị đã không nắm bắt thời gian và
không làm những việc quý vị nên làm, đây chính là chúng ta nắm bắt từng chút một thời gian của cuộc đời mình. Ví dụ như hôm nay quý vị thật không dễ dàng để có được một ngày nghỉ, thời gian của ngày nghỉ này, ngủ thì cũng ngủ hết rồi, bình thường mỗi ngày đi làm rất khổ cực, rốt cuộc cuối cùng cũng có được một ngày ở nhà lau chùi dọn dẹp. Nếu quý vị dậy từ sáng sớm và dọn dẹp đến tối, dù rất mệt nhưng quý vị có thể dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, lúc này, cảm giác hạnh phúc của quý vị bắt đầu có rồi, vì quý vị đã hoàn thành được điều mình mong muốn và vì quý vị đã dùng sự vô thường và đã kết thúc sự việc này trong vô thường.
Cuộc đời của những người học Phật chúng ta cũng rất vô thường, nhưng chúng ta dùng cuộc đời vô thường ngắn ngủi này để cứu độ chúng sinh và giúp đỡ tha nhân khắp nơi, chúng ta tự tạo công đức cho mình và học cách chạy đua với vô thường trong vô thường, khi chúng ta thay đổi người khác, thì chúng ta cũng đang thay đổi chính mình và chúng ta đã tạo ra vô số kì tích để giúp đỡ chúng sinh trong kiếp sống ngắn ngủi của họ. Đây là điều mà Phật Pháp đòi hỏi chúng ta phải hiểu, làm thế nào để sử dụng cuộc đời hữu hạn của mình để cống hiến không giới hạn vì chúng sinh và cứu độ tất cả chúng sinh, nhằm hoàn thành việc thay đổi vận mệnh của chính mình.
Vì vậy, trong kiếp sống ngắn ngủi của chúng ta, đừng để người khác mắng mình là người ích kỷ, là người đố kỵ hay người rất bẩn thỉu. Trong kiếp sống ngắn ngủi này, chúng ta phải làm những việc thiện, tránh làm những việc ác, tự lợi lợi tha, phải giúp đỡ người, và phải giác ngộ hữu tình, nói cách khác là phải làm cho người khác hiểu được, khơi dậy được tình cảm của người khác, khơi dậy thiện căn của tất cả chúng sinh, khiến cho nhiều người có tấm lòng nhân hậu, nói những lời thiện lương, khơi dậy trí tuệ lương thiện, thì sẽ giúp được họ thoát khỏi đau khổ, phù phiếm và phiền não. Một người hằng ngày sống một cuộc sống viên mãn trên thế gian, học cách giúp đỡ người khác và cứu độ chúng sinh, người đó không sống trong ảo tưởng mỗi ngày mà sống trên con đường Phật Pháp, thực thực tại tại tìm kiếm tương lai của chính mình. Đây chính là “Đạo” của Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Chúng ta cần tìm ra nó và phải hiểu được con đường Phật giáo chân chính của đạo Phật, bởi vì đạo Phật cho chúng ta hiểu rằng có một trái tim Phật sống mãi trong lòng chúng ta, thì đó mới chính là bản chất và lương tâm chân thật của chúng ta.
Nhiều người học Phật nói rằng chúng ta đang chạy đua với vô thường vì sinh mệnh của chúng ta có hạn, nhưng chúng ta phải làm nhiều việc thiện và giúp đỡ
nhiều người trong sinh mệnh hữu hạn này, và chúng ta không thể nhìn nhận vô thường một cách khác biệt được nữa. Nếu không hiểu được vô thường, có thể sẽ mất phương hướng. Cũng giống như đi máy bay, khi thông báo cho quý vị biết phải mất bao nhiêu giờ mới đến nơi, thì quý vị sẽ sắp xếp ổn thoả bốn giờ đồng hồ này của mình, và bốn tiếng sẽ trôi qua trong chốc lát; nếu không thông báo cho quý vị biết là bao nhiêu giờ và chỉ nói với quý vị là thời gian rất ngắn, thì khi đó quý vị sẽ bồn chồn, sẽ thắc mắc tại sao vẫn chưa đến, tại sao vẫn chưa đến. Trong cuộc sống của chúng ta cũng vậy, nhiều người sống trên đời này thắc mắc tại sao thời gian trôi qua chậm quá nên họ mới chơi mạt chược và làm những việc nhàm chán đó khiến họ lãng phí cuộc đời mình. Khi quý vị biết rằng cuộc sống là quý giá và thời gian là quý báu, thì quý vị sẽ ra sức ôm lấy hy vọng và dũng cảm tiến về phía trước, thay vì nghĩ rằng cuộc đời sẽ chẳng có gì khi sinh mệnh kết thúc và từ đó sẽ trở nên suy đồi. Chúng ta biết rằng tất cả những công đức chúng ta đã và đang làm hôm nay, sẽ giúp nhiều người hơn nữa lìa khổ được vui và sẽ giúp cho bản thân chúng ta bước đi trên con đường của Phật sau khi chúng ta rời khỏi thế giới này, bởi vì chúng ta có ánh sáng trong tâm và biết mình nên đi về đâu. Cuộc sống tươi sáng thực tế của chúng ta mang lại cho chúng ta một tâm thái tích cực trong xã hội, đồng thời cũng tạo ra một thế giới tương lai hoàn hảo sâu thẳm trong trái tim mình.
Kinh Phật nói rằng, kẻ ngu trở nên mất tinh thần giữa vô thường, tức là người ngu si trong cuộc đời vô thường, mỗi ngày như đang chết dần chết mòn, lười biếng và nhàn rỗi, sống không có mục tiêu, chỉ biết sống qua ngày. Người trí dù trong vô thường vẫn có thể vận dụng vô thường để thay đổi hoàn cảnh khó khăn trước mắt. Lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay gặp phiền não hay khó khăn, nếu quý vị nghĩ: “Điều này là vô thường, mình có thể thay đổi nó, thời gian có thể thay đổi nó, tụng kinh có thể thay đổi nó”, thì quý vị sẽ tạo ra một điều kỳ diệu khác của cuộc sống, chỉ bằng cách này quý vị mới có thể tạo ra nguồn sống tốt hơn.
Hiểu được sự thay đổi của vô thường, quý vị sẽ quán tâm phản chiếu, sẽ có được từ bi tâm và lương tâm. Khi một người đang lo lắng, họ sẽ nghĩ: “Tại sao tôi phải lo lắng? Tôi vẫn chưa hài lòng sao? Tôi cần phải hiểu rằng, tôi tốt hơn những người khác rất nhiều. Khi hôm nay mắt tôi vẫn có thể nhìn thấy được, tôi cần phải biết rằng, trên thế giới có hàng chục triệu người mù; hôm nay tôi còn có thể nói được, tôi cần phải cảm nhận được trên thế giới này có bao nhiêu
người câm điếc; khi tôi vẫn còn có thể đi được, tôi cần phải nghĩ rằng biết bao nhiêu người đã mất cả hai chân hoặc mất mạng do tai nạn ô tô”. Đây là lý niệm của quý vị, được gọi là quán tâm phản chiếu. Hãy suy nghĩ xem, chúng ta chưa đền đáp được ơn đức của cha mẹ đã ban cho, vậy tại sao chúng ta vẫn còn ghét thế gian, bản thân chúng ta chưa mang lại nhiều công đức và đóng góp cho xã hội, vậy tại sao chúng ta vẫn phàn nàn về thế giới và xã hội này? Thế nên phải quán chiếu suy nghĩ này của mình, đừng sinh khởi những suy nghĩ ô uế mà hãy dập tắt đi những lý niệm ô uế đó. Hãy luôn sống đúng với trái tim mình và thấu hiểu thế giới này. Dù có làm gì đi nữa, nó vẫn bất sinh bất diệt. Bởi vì chúng ta có một trái tim vĩnh cửu và một trái tim luôn giúp đỡ người khác. Chúng ta không có một trái tim làm hại người khác. Trái tim tích cực này sẽ thường trụ tại thế. Chỉ bằng cách tiến về phía trước theo trái tim này, chúng ta mới thực sự làm chủ được trái tim mình và tạo ra một tương lai tốt đẹp hơn.
Sư phụ nói với mọi người rằng mọi thứ trên thế giới đều là hư vọng, đều là giả. Quý vị thấy đấy, người không tranh cãi người khác là người có trí tuệ, người không làm ầm ĩ với người khác là người có Bát nhã. Một người có thể hiểu được điều này bởi vì người đó hiểu《Kinh Kim Cang》nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, tức là từ ngày sinh mệnh bắt đầu cho đến ngày ra đi, mọi tướng mà quý vị nhìn thấy đều là hư huyễn. Bởi vì chúng ta không thể mang nó đi được, thân xác của chúng ta cũng vậy. Nghĩ mà xem, từ khi còn nhỏ chúng ta đã có bao nhiêu ý nghĩ, có rồi, diệt độ, có rồi, diệt độ… Lúc thì nghĩ về điều này, lúc thì nghĩ về điều kia, nghĩ không có được gây chuyện, nghĩ có được rồi còn muốn nhiều hơn. Vì vậy những suy nghĩ này của chúng ta đang trong quá trình sinh diệt. Nếu quý vị thật sự hiểu được nó là hư huyễn thì quý vị mới có thể hiểu được một câu trong《Kinh Kim Cang》- “Nhất thiết hữu vi pháp. Như mộng, huyễn, bào, ảnh. Như lộ diệc như điện”. Tức là tất cả những gì bản thân cho rằng cần phải làm hôm nay thì giống như điện vậy, đi qua rồi, cũng giống như sương, khi được mặt trời chiếu sáng sẽ biến mất; quý vị nên coi nó như thị quán, nó là rất bình thường, nó không ảnh hưởng gì đến quý vị, nó là hư ảo, mọi thứ đều chỉ là ảo ảnh mà thôi.
Ở nhân gian, chúng ta phải học nhận biết tình yêu chân thật, đó là một loại tình yêu vĩ đại, là một loại trí tuệ tạo ra điều tốt đẹp nhất cho người khác, biết nghĩ đến người khác, là loại tình yêu vĩ đại vượt trên cả tình yêu người phàm trần để giúp đỡ người khác. Chúng ta không nên theo đuổi nữa, chúng ta đã tốn rất
nhiều thời gian trong quá khứ, và những cái kết từng khiến trái tim chúng ta tan vỡ đã là những thăng trầm trong lòng bấy lâu nay, làm tổn thương linh hồn của chúng ta. Vì vậy, trong cuộc sống, con người không thể bám víu vào mọi thứ vật chất, danh lợi thế gian, bởi vì những danh tiếng này sẽ không còn, lợi ích cũng mất đi nên quý vị sẽ không bị danh lợi vật chất chi phối. Sư phụ từng nói với mọi người rằng khi quý vị thích một thứ gì đó, quý vị sẽ bị thứ mình thích điều khiển: quý vị thích một đứa con thì quý vị sẽ bị đứa trẻ này điều khiển; quý vị thích một ngôi nhà thì quý vị sẽ bị ngôi nhà này điều khiển, bởi vì quý vị muốn mua căn nhà này, nên để có được lợi ích này, quý vị đã bạt mạng làm ba, bốn, năm công việc để rồi tự làm tổn thương lấy chính mình. Bởi vì con người vốn cố chấp, vì vậy đừng bị khống chế bởi những danh lợi đó.
Chúng ta không thể theo đuổi những thứ cảm quan đó trên thế gian – là những thứ mà quý vị cảm thấy rất tốt và cho là tốt, một khi chúng bị mất đi, tiếp theo đó quý vị sẽ trở nên không vui vẻ và không hạnh phúc, bởi vì tất cả đều sẽ mất đi. Sư Phụ đưa ra một ví dụ đơn giản: một sinh viên quốc tế đã làm việc bán thời gian trong nhiều năm, tiết kiệm tiền và ăn mì gói mỗi ngày chỉ để mua một chiếc xe mới tốt. Khi mua chiếc xe mới này, anh ấy đã nhìn nó hàng ngày và đánh bóng nó hàng ngày. Anh ấy rất thích nó. Đề nghị anh ấy mua bảo hiểm nhưng anh miễn cưỡng vì không có tiền. Một tháng rưỡi sau, chiếc xe mới bị đánh cắp. Đây là mộng huyễn bào ảnh và thứ mà cậu ta nhận được chỉ là hư ảo. Đây chính là điều mà Sư phụ đang nói với mọi người, con người không thể theo đuổi những thú vui nhục dục đó.
Con người có một nỗi đau, là quan tâm quá nhiều đến cảm giác và cảm xúc của chính mình. Chúng ta không được nghĩ rằng chúng ta đau khổ chỉ vì chúng ta đang trong hoàn cảnh khốn cùng, vì có nhiều người còn đau khổ hơn mình. Đừng nghĩ rằng quý vị là người vô tội nhất trên thế gian. Thực ra, có nhiều người vô tội hơn quý vị. Phật giáo dạy chúng ta rằng mọi thứ đều là hư ảo. Hôm nay quý vị có thể giàu có, thì cũng có thể bị phá sản, hôm nay quý vị có sức khỏe tốt, các cơ quan nội tạng như tim, gan và mọi thứ khác đều ở tình trạng tốt. Quý vị cảm thấy không có vấn đề gì đúng không? Cuối cùng, một ngày nọ, bị một chiếc xe cán qua người rồi tử vong. Tất cả điều này giống như mộng huyễn bào ảnh. Vì thế sư phụ nói cho mọi người biết “Nhân sinh như mộng tùy phong tản, tụ tản hỷ ưu giai thị duyên” (cuộc đời như giấc mộng tan theo gió, vui buồn tụ hội đều do duyên phận gây ra). Hoan hỷ và chia ly là một loại duyên phận, người hiểu được duyên phận sẽ dần dần hiểu được cách thay đổi bản thân. Vì
vậy, Sư Phụ hy vọng rằng quý vị sẽ hiểu được ý nghĩa thực sự của việc học Phật ở khía cạnh này.
Tiếp theo Thầy sẽ nói với mọi người về việc “khả năng phân biệt thiện”, nghĩa là người này có khả năng phân biệt được điều tốt và điều xấu, điều gì có thể làm và điều gì không thể làm, có thể phân biệt đây là điều tốt hay điều xấu, điều này nói lên rằng người này vẫn đang còn trong tâm trí phân biệt. Để thực sự học Phật, người ta phải như như bất động và phải học cách quên đi. Hôm nay quý vị nói: “Tôi biết đây là việc tốt và tôi muốn làm”, nhưng quý vị vẫn có tướng và vẫn còn phân biệt, không phải là không có phân biệt. Đức Phật có năng lực phân biệt các pháp tướng, nhưng phàm phu lại càng theo đuổi các pháp tướng khác nhau đó, nói cách khác, Bồ Tát biết điều này là tốt hay xấu, nhưng có một số người không biết, họ truy tìm và nghiên cứu xem nó là tốt hay xấu và bám chấp lấy nó, khi đó họ sẽ rơi vào ác niệm thay vì thiện niệm, bởi vì mãi đuổi theo khiến tâm người đó trở nên hoặc là tốt hoặc là xấu. Trong vấn đề này, khi quý vị hiểu rõ chân tướng và nói “đây là điều tốt” hay “đây là điều xấu”, thực tế là quý vị sẽ rơi vào hoặc là thiện, hoặc là ác, hoặc là rơi vào trạng thái vô kí niệm không thiện cũng không ác. Vô kí niệm là điều mà kinh Phật nói đến, “vô” có nghĩa là không có, “kí” có nghĩa là “kí” của kí lục (ghi chép), và “niệm” có nghĩa là niệm đầu (suy nghĩ). Bởi vì chỉ cần quý vị dính líu vào trong việc này, nhất định sẽ có ba loại kết quả này, hoặc rơi vào ác, hoặc rơi vào thiện, hoặc trở thành không thiện không ác.
Chỉ những người đã thành Phật và chỉ những người có cảnh giới mới có thể phân biệt rõ ràng hết thảy các pháp tướng. Trong kinh nói là ý nghĩa gì? Khi ai đó nói với quý vị rằng hai vợ chồng này đang cãi nhau, người bình thường sẽ nói: “Để tôi hỏi thăm xem sao” và cuối cùng, “Ồ, là do người chồng không tốt”. Hoặc là có người điều tra ra và nói: “Ồ, là vợ anh không tốt”. Hoặc người này nói: “Khi hai người cãi nhau thì cả hai đều không tốt”. Vậy thì có phải quý vị đã bị rơi vào trong tình trạng có tướng không? Nếu quý vị ở cảnh giới cao hơn, là Phật, là Bồ Tát, là người đã khai ngộ chứng đạo hoặc người đã thành Phật, nếu hôm nay họ nhìn thấy hai vợ chồng cãi nhau, họ sẽ mỉm cười, bởi vì sau khi cãi nhau rồi thì sẽ không còn nữa. Đây là duyên phận của họ, bởi vì họ đã nhìn ra chân đế – hễ có chia ly thì sẽ có sum họp, và hễ có sum họp thì sẽ có chia ly. Sự tranh cãi hôm nay sẽ dẫn đến sự hòa giải của ngày mai, và sự hòa giải hôm nay sẽ dẫn đến sự tranh cãi của ngày mai, đây chính là duyên, đây chính là quả. Thế nên không cố thuyết phục họ, sẽ không bị dính mắc vào và nói “Anh là người tốt”, cũng không dính mắc vào và nói “Anh là người xấu”, không nói người
chồng tốt, cũng không nói người vợ tốt, và cũng không nói chuyện này tất cả mọi người đều không tốt, bởi vì không rơi vào nhân quả.
47. Nếu có thể bố thí tâm mới có thể hành thâm trí tuệ
Tập 47
NẾU CÓ THỂ BỐ THÍ TÂM MỚI CÓ THỂ HÀNH THÂM TRÍ TUỆ
(18/04/2020)
Kinh Phật là kiệt tác như thế đó. Một người đã chứng ngộ thành đạo có khả năng khéo phân biệt mọi pháp tướng. Tuy trong lòng họ biết, chuyện này đã có cãi vã, dù tốt hay xấu, thì họ cũng có ý niệm này, dù họ có nghĩ đến nhưng không bị dính mắc vào nó, nghĩa là tuy có ý tưởng này nhưng họ vẫn chưa bước vào trong giai đoạn hình tướng bị dính mắc, nên được cho là tánh “Không”. Sư phụ đã giảng cho mọi người trong mấy tập trước về Tánh Không – Vô tướng – Vô tác. Khi tâm của quý vị đã trống rỗng và biết được mọi thứ đều là nhân duyên, thì quý vị sẽ không tham gia vào những cuộc cãi vã ở nhà người khác, quý vị sẽ trống rỗng. Nếu quý vị đã trống rỗng thì có phải là Vô tướng không? Quý vị nghĩ người vợ tốt hay người chồng của người ta tốt hơn? Vô tướng, thì sẽ không chấp vào tướng nữa, không vì mình là bạn của chị vợ mà nói người vợ tốt hay vì mình là bạn của anh chồng mà nói người chồng tốt. Nếu không chấp trước vào hình tướng thì tiếp theo đó sẽ không có hành động tạo tác và sẽ không nói xấu người khác, cũng sẽ không đi khuyên ngăn, chỉ có thể mỉm cười, đây là đạo lý mà quý vị hiểu rất rõ, và đó chính là “Tam Giải Thoát Môn” được nhắc đến trong kinh Phật.
Nếu người khéo phân biệt sẽ biết dùng sự phân biệt như như bất động tốt đẹp này, vì bổn tánh của bản thân hiện tại là trống rỗng, nên sẽ không còn dính mắc vào mọi thứ trên thế gian, đây là nghĩa thứ nhất, chính là nghĩa đế thứ nhất của Phật học, tức là: Chân đế. Chân đế chính là “Tam Giải Thoát Môn” mà chúng ta nói đến, vì bản thân nó là trống rỗng, nên nó Vô tướng và Vô sinh. Trong “Tâm Kinh” chính là nói về Vô sinh và Vô tướng, vậy nên chân đế của Phật học hoàn toàn không phải là hình thức hay hình tướng của người tu đạo, tức là không phải là thể hiện hình thức của Đạo Phật, mà là thể hiện trí tuệ của nội tâm chân chính. Theo những lý giải của triết học hiện đại, người học Phật thường nói về bản thể là gì, thực ra bản thể là chân đế, chính là điều mà trong lòng quý vị nghĩ rằng rốt cuộc sự việc này đang xảy ra chuyện gì, là chân đế trong bổn tánh của quý vị và là chân đế không ai có thể thay đổi được, chân lý chính là như thế. Trước đây thường hay có câu: Nói 18 câu đạo lý chỉ có 1 câu là chân lý (nói nhiều điều hay nhưng chỉ có 1 câu là thật) chính là đạo lý này. Bời vì trong lòng quý vị đã rõ ràng hiện hữu một chân lý chân thật không hư vọng rồi, cho nên “nếu người khéo phân biệt, đệ nhất nghĩa bất động”. Nếu quý vị có thể phân biệt và giải thích rõ ràng mọi pháp tướng (tất cả hiện tượng) trên thế gian ngày nay thì đây chính là “đệ nhất nghĩa bất động” trong tâm quý vị, nghĩa là quý vị có
bổn tánh như như bất động, quý vị biết được chân đế nên sẽ không thay đổi dù thế nào đi nữa, chính là ý đế đầu tiên.
Cảnh giới tâm ý thức của phàm phu thay đổi theo hoàn cảnh bên ngoài, người khác nói người này tốt, quý vị cũng nói người này tốt, người khác nói người này xấu, quý vị cũng có thể nói họ xấu, nhưng người có trí tuệ họ có tâm thanh tịnh và sau khi tâm thanh tịnh lại được thì mới có thể đạt tới tất cả các trạng thái Thiền, nghĩa là “tâm tịnh dĩ độ chư Thiền”. Khi tâm quý vị hiểu được chân đế thì sẽ có Thiền định trong tâm quý vị, và tất cả thiền định sẽ hiện ra. Vì vậy, “Dĩ vu chư pháp đắc tự tại” (Đã đạt được tự tại trong mọi pháp), với tất cả pháp tướng trong thế gian, nếu quý vị có thể nhìn thấu, nhìn rõ tất cả các tướng và có thể giác ngộ, tất nhiên quý vị sẽ cảm thấy vô cùng tự tại. Ví dụ như hai người cãi nhau đã lâu, quý vị mỉm cười cho rằng đây là nhân quả, ngày mai họ sẽ ổn. Vài ngày sau quý vị đến gặp lại, đảm bảo họ sẽ rất tốt với nhau. Khi quý vị biết được nghĩa đế này, thì làm sao lại bị vướng vào cuộc mâu thuẫn này?
“Có khả năng khéo phân biệt mọi pháp tướng” có nghĩa là hành vi và hành động tạo tác của quý vị “đệ nhất nghĩa bất động” (dù là câu mang ý nghĩa đệ nhất cũng không động lòng). Tại sao đạo Phật dạy chúng ta phải như như bất động? Đừng thay đổi quan điểm của mình vì những gì người khác nói; đừng thay đổi ý định ban đầu của mình vì những gì người khác đang làm; đừng để trái tim mình thăng trầm vì những gì người khác đang nghĩ. Đây là lời Sư Phụ nói với mọi người, có khả năng quý vị nghe được người khác nói gì về mình, nên nghĩ “Tôi phải kiềm chế”, điều này là đúng. Nếu quý vị nói người khác đang làm điều gì thì có nghĩa là quý vị đã thấy và đã nghe, đây là một sự thật. Nhưng những gì người khác đang nghĩ, quý vị cho rằng: “Tôi không nhìn thấy, cũng không nghe thấy, tôi cũng không thấy anh ấy có hành động gì và cũng không nghe thấy anh ấy nói gì, nhưng tại sao tôi lại tức giận và khó chịu đến như vậy?”. Vì suy nghĩ của người khác sẽ ảnh hưởng đến quý vị, trong cách thể hiện nội tâm rất tinh tế của cuộc sống, họ sẽ dùng những biểu hiện và hành vi tế nhị để khiến quý vị cảm thấy họ ghen tị, căm ghét hoặc khen ngợi quý vị. Đây là ngôn ngữ cơ thể trong tâm lý học (body language). Vì vậy, giữa người và người với nhau “Tâm hữu linh tê nhất điểm thông” (trong lòng có điểm sừng tê để cảm thông) “Linh tê” này thực chất ám chỉ ý thức thứ sáu của chúng ta. Mắt, tai, mũi, lưỡi và thân là năm loại ý thức, là ý thức đơn nhất, còn ý thức thứ sáu là ý thức toàn diện. Cảm xúc của quý vị, ngay khi tiếp xúc với người này, quý vị sẽ biết người này có thiện ý hay ác ý. Đối phương chưa nói lời nào nhưng quý vị biết hôm nay
người đó không phải là người tử tế, đây chính là “linh tê” của con người và là giác quan thứ sáu.
Sau khi hiểu được điều này, chúng ta phải như như bất động trong thế gian này, chúng ta hiểu rằng mọi thứ trên thế gian này tất cả đều là hư ảo. Chỉ khi tìm được cảnh giới của Phật, thì chúng ta mới có thể tự tại mà không bị chấp trước, và chúng ta mới có thể biết rằng tất cả những điều này sẽ trôi qua. Cho dù hôm nay khó khăn có lớn đến đâu, ngày mai vẫn sẽ là một ngày tươi đẹp; cho dù những phiền não hôm nay có lớn đến đâu, chúng cũng sẽ qua đi vào ngày mai, bởi vì chúng là vô thường. Điều này là để dùng sự vô thường của năng lượng tích cực để lý giải cuộc sống của quý vị, thay vì hằng ngày chỉ dần dà cho qua ngày tháng và nghĩ “dù sao thì nó cũng vô thường, tôi không quan tâm”. Cho nên “đây là pháp khể thủ”, có nghĩa là người nào hiểu được Tứ Diệu Đế đều phải cúi đầu đúng mực. Chúng ta nói “Khể thủ quy y tô tất đế”, khể thủ có nghĩa là khấu đầu. Trong “Tâm Kinh” nói về việc “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, ngũ uẩn chính là sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Làm thế nào chúng ta có thể soi sáng được tánh Không của ý thức mình? Là chúng ta phải có sức mạnh của Bát nhã, sức mạnh của Bát nhã chính là trí tuệ.
Cuối cùng, Sư phụ muốn kể cho đại chúng nghe một câu chuyện. Một việc thiện có thể hóa giải trăm tai họa trên thế gian, vì vậy đừng nghĩ rằng làm một việc tốt nhỏ là không có công đức gì.
Trong kinh điển Tây Tạng, có một người Ấn Độ hái một bông hoa trong vườn hoa bên đường, ông chưa bao giờ thấy một bông hoa nào đẹp đến thế, bông hoa có màu vàng kim và rất trang nghiêm, ông muốn cắm nó lên đầu trước để làm trang nghiêm cho chính mình. Sau đó ông nghĩ: “Cái đầu của tôi là vô thường,” và rồi ông lại nghĩ: “Nếu tôi chết, cái đầu này sẽ bị chó, cáo, hoặc các loài động vật khác ăn thịt. Uhm, tôi không đáng để cắm bông hoa này lên đầu.” Thế là ông ta không cắm bông hoa lên đầu mình nữa.
Ông ấy nâng niu bông hoa đẹp như thế trên tay và bước vào chùa, khi nhìn thấy tượng Phật Thích Ca Mâu Ni rất trang nghiêm, ông liền niệm Phật: “Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật…” Vì công đức niệm Phật, mà thân thể ông bỗng nhiên nóng bừng, các lỗ chân lông đều mở ra, nóng vô cùng và rất dễ chịu. (Giống như những người học Phật chúng ta bây giờ tụng kinh, nếu tụng tốt thì sẽ cảm thấy ấm áp khắp người.) Khi vừa dâng hoa, ông vừa nghĩ: “Đức Phật là đại từ đại bi, đức Phật rất có trí tuệ, đức Phật là đấng có đầy đủ hai điều Phước Huệ.” (Vừa có Phước và vừa có trí
tuệ), nếu tôi cúng dường hoa với tấm lòng như vậy, Đức Phật chắc chắn sẽ gia trì cho tôi.”
Cúng dường xong, ông đặt bông hoa trước mặt Đức Phật và nói: “Con cúng dường bông hoa đó thì có được bao nhiêu công đức?” Trong lòng ông so đo công đức của việc cúng dường bông hoa. Không biết mình có được bao nhiêu công đức nên đã tìm một vị Tỳ kheo và hỏi: “Thưa đại đức, vừa rồi con với tâm trạng như vầy: mọi lỗ chân lông trên cơ thể của con lập tức phản ứng với sức nóng, khi con dâng một bông hoa như vậy cúng dường lên Đức Phật, Ngài xem thử công đức lớn đến mức nào ạ?”. Vị Tỳ kheo này nói: “Tôi mới xuất gia và thọ giới cách đây không lâu, tôi chỉ biết nỗi đau khi rời khỏi thế gian, ngoài ra tôi không biết gì khác. Và tôi cũng không có đạo đức gì, cũng chưa bao giờ đọc bất kỳ kinh sách nào, cũng không có học hành gì, nếu ông hỏi tôi điều này, tôi không thể trả lời ông, ông đi tìm một vị pháp sư đã từng đọc kinh mà hỏi xem sau khi ông cúng dường bông hoa này sẽ có được bao nhiêu phước đức. Ông ta lại đi đến gặp một vị pháp sư đang đọc kinh và hỏi: “Thưa sư phụ, con cúng dường bông hoa này thì có công đức gì?” Vị pháp sư này trả lời ông: “Tôi không biết ông có bao nhiêu công đức khi cúng dường bông hoa này và tôi cũng không có thần thông, tôi chỉ tụng kinh và cầu phước đức cho mình mà thôi. Kinh nói cúng hoa có công đức, còn cúng hoa này có bao nhiêu công đức thì tôi không biết. Bên kia có một vị A La Hán đang ngồi thiền, ông hãy đi hỏi xem, vị ấy có thần thông và đã chứng đắc quả vị A-la-hán.”
Việc này xảy ra không lâu sau khi Đức Phật nhập niết bàn, có rất nhiều người đắc đạo đã đạt được quả vị A-la-hán. Vì vậy, người cúng dường hoa bước tới và hỏi vị A-la-hán đã đắc sáu năng lực: “Thưa đại đức, Ngài đã đắc quả vị A-la-hán. Xin Ngài cho biết tôi sẽ nhận được bao nhiêu lợi ích từ việc cúng hoa?” Vị A-la-hán này đã nhập định, khi nhập định hồn phách sẽ đi ra ngoài quan sát, sau khi quan sát xong, Ngài nói: “Ta đã thấy ngươi cúng dường bông hoa này. Sau khi ngươi từ bỏ Báo thân của mình, ngươi sẽ được hưởng phước ở trời, cuộc đời của ngươi kéo dài hàng ngàn tỷ kiếp, đó là một đại kiếp.
Từ một đại kiếp đến tám vạn đại kiếp, chỉ vì ngươi cúng bông hoa này mà phước của ngươi vẫn chưa dùng hết, về tương lai thì ta không biết. “Ông ấy có công đức đấy”. (Thần thông của A-la-hán có thể thấy được tám vạn đại kiếp. Tại sao ở nhân gian có người chỉ thấy được âm phủ mà không thấy được thiên thượng? Có người chỉ thấy được ma quỷ mà không thấy được Bồ Tát? Có người chỉ thấy được Bồ Tát, nhưng không nhất thiết thấy được ma? Tất cả điều này
tùy thuộc vào mức độ công đức tu tâm lớn nhỏ của vị ấy.) Bởi vì thần thông của vị A-la-hán chỉ đạt đến tám vạn đại kiếp, và cao hơn nữa thì họ không biết được. Dân chúng tụ tập chung vui quanh đó hỏi vị A-la-hán: “Thưa sư phụ, thưa sư phụ, Thầy có thần thông, nếu thầy không trả lời được thì thầy có thể lên trời hỏi Di Lặc Bồ Tát được không?”. Để vị A-la-hán này có thể lên nơi cao hơn nữa hỏi Bồ Tát.
Thế là, vị A-la-hán ngồi đó và nhập định, linh hồn và thần thức của ông đi đến Đâu Suất Thiên để cầu hỏi Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc Bồ Tát nói: “Người này chỉ thọ phúc thế (tức là người này chỉ hưởng phước báo của thế gian) khi quả báo thiện chưa tận (tức là vì công đức cúng dường hoa của ông lớn đến mức, đã hưởng phước thế gian đến tận bây giờ mà vẫn còn phước phần và quả báo thiện chưa dùng hết). Chuyện các ngươi muốn hỏi thì chỉ có Phật và Phật nải năng cứu cánh (tức là chỉ có Phật mới có được kết quả, mới có thể khám phá ra được rốt cuộc có bao nhiêu phước phần khi cúng dường bông hoa này), còn các vị Bồ Tát bổ ngoại đều không thể biết được kết quả (Bổ ngoại có nghĩa là vị trí dự bị, chưa đạt đến vị trí của Phật).” Ý của Di Lặc Bồ Tát là chỉ có Đức Phật mới có thể biết được điều tối thượng về những sự việc này, và ngay cả các vị Bồ Tát dự bị cũng không thể biết được điều đó, tất cả đều không biết và không thể nhìn thấy được tận cùng. Di Lặc Bồ Tát mỉm cười và nói: “Đợi khi ta hạ thế và thành Phật rồi ta sẽ nói cho ngươi biết.” Nghĩa là: “Đợi sau khi ta xuống nhân gian cứu nhân và thành Phật rồi, ta sẽ nói cho ngươi biết.”
Câu chuyện này dạy cho chúng ta rằng, ông chỉ dâng một bông hoa với tâm tình cúng dường Đức Phật, mà ngay cả Di Lặc Bồ Tát cũng không thể diễn tả được phước đức của ông. Cúng dường một bông hoa sẽ có được công đức như vậy. Công đức của việc bố thí sẽ giúp quý vị được theo ý muốn, ngày hôm nay sau khi quý vị dâng tặng một bông hoa, thì có nhiều việc sẽ diễn ra suôn sẻ. Trong mắt chúng ta, vẫn còn quá chú trọng vật chất, ông nói: “Tôi muốn cúng dường hoa, thì tôi có được gì …” Nhưng trong mắt Bồ Tát, không coi bông hoa này đó là điều quan trọng lắm, vì Bồ Tát nghĩ rằng cúng hoa là chuyện bình thường và vật chất là tùy duyên.
Câu chuyện này dạy chúng ta rằng dù có cúng dường gì đi nữa, cũng giống như vị cư sĩ vừa rồi, chúng ta phải cúng dường bằng cả tấm lòng của mình. Cảm thấy mình chưa đủ xứng đáng, ông muốn dâng bông hoa vàng kim mà ông cho là rất đẹp này lên Đức Phật vĩ đại. Đó không chỉ là cúng dường bông hoa này mà còn phải có pháp cúng dường, ý nghĩa của pháp cúng dường là dùng tâm để
đối xử tử tế với người khác và cúng dường người khác bằng tâm của mình, bởi vì với cách cúng dường này, quý vị sẽ không còn tham lam những phước đức ở thế gian, thậm chí cả trí tuệ cũng không tham nữa. Nhưng nếu quý vị không tham thì quả báo thiện này có tồn tại không? Câu chuyện này dạy mọi người rằng chỉ cần không tham thì sẽ có được công đức vô lượng vô biên, phước đức và trí tuệ vô lượng vô biên. Nếu quý vị cúng dường mọi thứ một cách cẩn thận và tận tâm, chắc chắn sẽ thành tựu được Phật quả, nên không có cách nào để nói ra công đức này. Dâng một bông hoa nho nhỏ lên cúng dường Đức Phật vĩ đại mà chỉ có Phật và Phật với nhau mới biết được kết quả cuối cùng, hay nói cách khác chỉ có Đức Phật mới biết được việc cúng dường bông hoa này có được bao nhiêu công đức, còn con người chúng ta không thể biết được có bao nhiêu công đức khi cúng dường bông hoa này.
Những người học Phật chúng ta, phải biết dùng tâm của mình, làm việc gì phải sâu sắc, phải làm bằng tâm (đó là nội tâm). Đây chính là “hành thâm” được nhắc tới trong “Tâm Kinh” – hành phải sâu, “Hành thâm Bát nhã ba La mật đa thời”. Khi quý vị làm điều này, Quán Thế Âm Bồ Tát nói: mới có thể “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Nói cách khác, quý vị càng học Phật một cách nghiêm túc thì càng có thể chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Mong rằng mọi người hãy học Phật cho tốt và nếu có thể chiếu kiến ngũ uẩn giai không thì quý vị sẽ có khả năng đạt được Chánh đẳng Chánh giác và sau này còn có thể thành Phật
– tức là vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Được rồi, bài giảng hôm nay xin tạm dừng tại đây. Hy vọng có thể giảng cho đại chúng cách “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” vào lần tới. Cảm ơn đại chúng.
48. Cố chấp là sai lầm, giải thoát là trí tuệ
Tập 48
CỐ CHẤP LÀ SAI LẦM GIẢI THOÁT LÀ TRÍ TUỆ
(22/04/2020)
Hôm nay Đài trưởng sẽ tiếp tục giảng cho đại chúng về “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Người học Phật phải hiểu rằng “Vi thiện tất xương”, chỉ cần một người làm việc thiện thì nhất định sẽ thịnh vượng, nhất định sẽ phồn vinh hưng thịnh. Nếu “Vi thiện bất xương” có nghĩa là đã làm rất nhiều việc tốt nhưng chưa nhận được kết quả tốt, là do họa cũ (nghiệp cũ) vẫn chưa dứt và vẫn còn những điều đã từng làm sai trong quá khứ. “Ương tận tất xương”, tức là khi nghiệp cũ đã tiêu cạn, tất sẽ thịnh và chắc chắn sẽ ngày càng tốt đẹp hơn. “Vi ác tất ương”. Nghĩa là làm điều ác chắc chắn sẽ bị trừng phạt và chắc chắn sẽ không tốt. “Vi ác bất ương, tất hữu dư xương”. Có nghĩa là người này đã làm rất nhiều điều ác nhưng vẫn còn được hưởng phước báo ở đời, là do vượng cũ chưa dứt, tức là những việc tốt đã làm trong quá khứ hay những việc tốt đã làm ở kiếp trước vẫn còn, chưa dùng hết, tiền dành dụm vẫn chưa dùng hết. “Xương tận tất ương” tức là khi mọi phước báo đã cạn kiệt, thì tai họa chắc chắn sẽ theo sau. Đây là lý do tại sao về sau nhiều người bắt đầu gặp xui xẻo vì họ liên tục làm điều ác và sẽ bị báo ứng khi phúc đã cạn kiệt. Người học Phật nên hiểu những nguyên lý này và khi cầu xin Bồ Tát thì đừng nóng vội, vì Bồ Tát đều nhìn thấy tất cả.
Để học Phật và làm người là phải biết luôn cảm thấy hổ thẹn, cảm thấy có lỗi: “Tôi có lỗi với người ta, tôi có lỗi với cha mẹ tôi, tôi có lỗi với phật hữu. Mọi người đều rất tốt với tôi, tại sao tôi còn như vậy?” Nếu luôn cảm thấy hổ thẹn thì sẽ không sân oán trong lòng và sẽ không hận người khác. Nếu luôn cảm thấy bản thân không tốt thì sẽ không hận người khác. Nếu thường xuyên cảm thấy người khác sai thì sẽ sinh tâm hận họ. Vì vậy, điều rất quan trọng đối với người học Phật là luôn khởi tâm hổ thẹn, điều này quan trọng vô cùng. Sau khi thường khởi tâm hổ thẹn sẽ luôn cảm thấy hoan hỷ, hơn nữa sẽ nảy sinh lòng từ bi. Bởi vì khi cảm thấy hạnh phúc, người này sẽ trở nên từ bi. Trong cuộc sống cũng vậy, một khi vui vẻ thì sẽ “không sao đâu, tôi làm giúp bạn”, “không sao, chuyện này để tôi làm”. Họ sẽ không so đo tính toán với người khác. Hễ có tâm sân oán, hay vừa khởi tâm sân thì rừng công đức sẽ bị đốt cháy, trong giới Phật giáo thường nói “một niệm sân tâm khởi, trăm vạn cửa chướng mở”. Quý vị nhìn một người mất bình tĩnh, chắc chắn người đó sẽ không thuận lợi. Nếu mọi chuyện suôn sẻ thì tại sao họ lại nổi giận chứ? Người vui vẻ thì nổi giận làm gì? Người nổi giận ắt có chướng ngại.
Đôi khi, người học Phật là phải khác biệt hơn so với những người khác: “Cho dù người khác có nổi giận thì tôi cũng không tức giận, vì tức giận thì sẽ sinh bệnh, không ai bệnh thay cho tôi được.”. “Người ta tham, nhưng với tôi thì tôi không tham”. Thì những gì quý vị nhận được sẽ khác với người khác. Khi nói đến việc học Phật và làm người, đôi khi người ở thế gian nói rằng: “Bạn học Phật thì ăn không được những món sơn hào hải vị và còn phải chịu biết bao đau khổ. Trên thực tế, rốt cuộc thì ai mới chính là người đang chịu đau khổ? Người học Phật là người đi ngược dòng, bề ngoài trông rất khốn khổ. Thực ra, chúng ta đang kiên trì và không bao giờ lùi bước; chúng ta biết rằng bằng cách tìm kiếm chân lý, chúng ta mới có thể giải thoát bản thân khỏi những phiền não của chính mình, và bằng cách sử dụng Bát nhã của Đức Phật, chúng ta nhất định sẽ đánh bại được chính mình. Con người khó chiến thắng nhất chính là bản thân mình, phiền não là do chính mình gây ra, nếu có thể đánh bại được nó thì mới thành công.
“Tùy duyên tiêu nghiệp cũ”, Bồ Tát dạy chúng ta thuận theo duyên phận mà diệt trừ nghiệp cũ. “Thận mạc tạo tân ương“, tức là cẩn thận đừng tạo thêm tai họa mới. Đừng che đậy khuyết điểm của mình, đừng hở ra là che giấu hay che đậy cái sai của mình, còn phải biện minh và giải thích. Nhiều người hở ra là nói đạo lý với người khác, khi người khác nói, “Chỗ này bạn sai rồi”, còn đáp trả “Không phải đâu, bởi vì ・・・・・・, cho nên ・・・・・・ không chỉ・・・・・・ mà còn.. ”. Chẳng phải loại người này đang “che đậy lỗi lầm” của mình sao? Hiểu được những điều tưởng chừng như đơn giản này, thực ra lại dạy cho quý vị hiểu được niệm niệm vô thường. Mọi thứ trên thế gian này đều là vô thường và chẳng có gì đáng phải lo lắng trong đó cả, bởi vì mọi thứ sẽ qua đi, mọi thứ đều vô thường, còn thế giới thì vốn dĩ vô thường và vô ngã – có quý vị trong đó không? Không có, dường như có và dường như không. Nó tồn tại khi con người còn sống nhưng biến mất khi con người đã chết. Nhiều người khi còn tồn tại thì nơi này có họ, một khi tôi rời khỏi nơi này, từ nay trở đi tôi sẽ “vô ngã” – tức là không có tôi nữa.
Phải học cách không cố chấp, người học Phật không cố chấp là trí tuệ. Người học Phật nên giữ pháp thân như như bất động. Pháp thân ở thế gian là gì? Là cái thân để học Phật. Ví dụ, quý vị có thân thể như bao người khác, quý vị có thể ăn, có thể ngủ và có thể làm những việc khác trong cuộc sống như người thường, nhưng trong tâm quý vị có Pháp, có pháp của Phật. Khi quý vị tiếp xúc với người khác, Phật tánh sẽ hiện ra; khi quý vị nói chuyện với người khác, lời Phật sẽ hiện ra; khi quý vị suy nghĩ, người khác đang nghĩ đến ngũ dục lục trần,
còn quý vị đang nghĩ đến Phật pháp. Vì vậy, khi một người rất trong sạch và như như bất động chính là Pháp Thân. Ngoài mặt thì tôi như như bất động, nhưng thực ra tôi có được nhiều tự do hơn, chính là “như đến như đi, có qua có lại”. Sư Phụ đưa ra một ví dụ đơn giản, bề ngoài thì quý vị đang dừng xe khi có đèn đỏ và không lái xe qua để vượt đèn đỏ , thực ra quý vị có được sự tự do hơn, vì khi chuyển qua đèn xanh quý vị có thể lái xe qua ngay lập tức. Nếu khi dừng đèn đỏ mà quý vị cương quyết vượt qua và bị xe của người khác tông phải, thì tiếp theo đó sẽ không còn tự do nữa, thế nên phải biết giữ giới.
Không có gì đến, cũng không có gì đi. Đôi khi làm người giống như “Tôi đã từng đến nhân gian nhưng dường như chưa đến nhân gian bao giờ”. “Tôi đã học Phật nhưng dường như chưa học Phật pháp bao giờ” vậy. Mọi thứ đều yên bình. Hết thảy không có gì đi, bởi vì không có gì đến từ nó cả, có rồi cũng như không có, nếu không có thì lại coi như đã xảy ra. “Vô lai vô khứ” mới có thể làm nên “nhất thiết như như”. Lấy một ví dụ đơn giản, ở nhà giữa hai vợ chồng, đã nói với nhau những câu khó nghe và luôn giữ câu nói ấy trong lòng, đó chính là có “qua” vì quý vị đã ghi nhớ câu nói này nên quý vị luôn không vui. Dù quý vị có làm gì đó nữa, chỉ cần giữ câu nói này trong lòng, quý vị sẽ không thể sống hòa bình và thân thiện với người đó được. Đích thực của “vô lai vô khứ, nhất thiết như như” là đừng giữ mọi thứ vô thường ở trong tâm, mọi thứ sẽ qua và mọi thứ đều vô thường. “Hằng tại thường trụ bất biến dị ”, cũng có nghĩa là thường trụ vĩnh hằng – luôn giữ Phật tánh trong tâm, không thay đổi, đó chính là như như bất động. Người hiểu được đạo lý, họ sẽ không nói cho quý vị biết điều này đúng hay điều kia sai, bởi vì trên đời mỗi người đều có lý do đúng sai của riêng mình. Khi bước vào đúng sai, tức là đã bước vào thị phi, và dần dần sẽ bị mê hoặc vào trong đúng sai mà không thể giải thoát được. Cho nên Sư Phụ muốn mọi người phải có được Pháp Thân “Bổn tự như như” của Phật, nếu trong lòng có Pháp Thân của Phật, thì sẽ như như bất động và có được trí đức viên mãn. Mỗi người đều có loại trí tuệ này, mọi người ở khắp nơi trong Pháp giới, trí tuệ của mỗi người đều rất vĩ đại, không cần phải tìm kiếm đâu cả, điều chúng ta cần tìm là cái tâm bị ngũ dục lục trần làm ô nhiễm. Nó làm cho quý vị mất đi trí đức và khiến quý vị không thể viên mãn được.
“Vô thỉ vô chung, phi tu phi chứng” (Không có khởi đầu và cũng không có kết thúc, không có sự tu tập cũng không có sự chứng ngộ). Người tu tốt thì coi như chưa từng tu qua, ví như cũng là 1 đứa trẻ được sinh ra vô cùng ngây thơ chất phác, nó sẽ không có tính toán thiệt hơn, nó sẽ không khôn lỏi, đứa trẻ này “Phi tu phi chứng”, và nó sống trong thế giới “Vô thỉ vô chung” Bởi vì nó biết rằng
“Tôi là như thế đó” – Như như, chân như. Cái tâm chúng ta thật ra không có biểu hiện gì, Sư phụ thường nói với mọi người: Tâm con người giống như một tấm gương, chiếu kiến được thứ gì thì trong tâm có được thứ đó. Hôm nay cái tâm này thấy ác thì trong tâm có ác; hôm nay cái tâm này thấy thiện thì trong tâm có thiện. Nói một cách đơn giản hơn, cái tâm này là một nhà kho, là một đạo tràng, nếu đạo tràng này chứa đầy Phật Pháp, chứa đầy lòng từ bi và chứa đựng những điều con người nên làm thì cái tâm đó chính là thiện, giống như một nhà kho trống rỗng, nó chứa đầy những điều tốt đẹp, thì đồ trong kho rất tốt, nếu trong tâm chứa đựng những thứ xấu như chất độc.v.v. thì tâm sẽ tràn đầy tà ác.
Sư phụ muốn mọi người hiểu rằng trái tim của quý vị phải rộng lớn bao la như vũ trụ, phải mênh mông như đại dương. Trong tâm con người không nên có sự phân biệt vì nó đã rộng lớn như vũ trụ rồi. Tại sao quý vị lại ghen tị với người khác, bởi vì tâm quý vị nhỏ nhen. Nếu tâm quý vị rộng lớn như vũ trụ — lấy một ví dụ đơn giản, nếu nhà của quý vị cực kỳ lớn và có ai đó hỏi: “Tôi sẽ ở nhà bạn hai ngày” khi đó quý vị sẽ trả lời “Được rồi, được rồi, chúng tôi có một ngôi nhà cách đây một km, cậu đến đấy mà ở”, quý vị nhất định sẽ không quan tâm rằng người này có ở trong nhà mình hay không. Nhưng nếu nhà quý vị chỉ có hai mươi mét vuông và có ai đó hỏi: “Tôi ở nhà bạn một đêm được không?” Thì chắc chắn rằng quý vị sẽ không cho họ ở đó, vì không gian lớn nhỏ khác nhau. Cho nên Sư Phụ bảo quý vị phải hiểu Minh Không, trong tâm phải quang minh thì mới có khả năng biểu lộ ra được tánh Không của mình. Nếu một người có cái tâm không sáng thì sẽ không có tánh Không. Chỉ khi có được tánh Không thì quý vị mới có thể thanh tịnh – tức là không có tâm phân biệt. “Minh Không” đó chính là có được trái tim bao la của vũ trụ. Tâm vốn dĩ không có nhân cũng không có quả mà là do chính quý vị tạo ra – vạn pháp đều dựa vào tâm. Vì vậy, Sư Phụ mong rằng quý vị có thể dùng tâm nhẫn nhục để đoạn tận tâm phiền não của mình, để trái tim mình có thể rộng lớn như vũ trụ, chuyện gì cũng đều không có tăng giảm. Dù người khác có đối xử với quý vị như thế nào, cũng đừng làm tăng thêm sự căm hận của mình; cho dù người khác làm tổn thương quý vị ra sao, cũng đừng làm giảm đi tình yêu Phật tánh của quý vị dành cho họ. Đây là tấm lòng đại ái của Bồ Tát, đây chính là không tăng cũng không giảm, có như thế trong tâm quý vị mới có được tâm bình đẳng trọn vẹn của Bồ Tát.
Tâm vô hữu khởi, trong tâm không có ý niệm xấu khởi lên, trong tâm không có ác niệm nào khởi lên, mọi nhân duyên đều bị tiêu diệt. Quý vị luôn đối xử với người khác như thế, vì quý vị không hề tạo ra nhân ác nào, nên quý vị cũng
không gặp phải bất kỳ ác duyên hay ác quả nào, quý vị sống cuộc sống như như bất động của mình. Sư Phụ nói với mọi người, thực ra cuộc đời chỉ là một hiện tượng, kinh Phật thường nói con người là hiện tượng hư ảo. Hư ảo là gì? Hư ảo chính là chân tướng về nhân quả luân hồi. Chính vì tâm con người giả tạo nên mới khởi vọng niệm, mới có hành vi, đây gọi là “vọng động”, nếu tâm không tạo ác niệm và không làm hại người khác thì tâm chúng ta sẽ không vọng động. Điên đảo, vọng tưởng, cố chấp, phiền não, những điều này đều do tâm sinh ra. Lấy một ví dụ đơn giản, chuyện của người khác không liên quan gì đến quý vị, tại sao quý vị lại ghen tị với người khác khi họ làm tốt? Trên đời này có rất nhiều điều tốt đẹp, vậy quý vị đều đi ghen tị sao? Đó là vì quý vị tiếp xúc với lục trần nên quý vị mới có ghen tị, vì nó ở gần quý vị. Tại sao phải “viễn ly điên đảo mộng tưởng”? Trong Tâm Kinh nói đến, nếu quý vị không xa lìa nó thì nó sẽ làm ô nhiễm quý vị. Cũng giống như nhiều loại virus, nếu quý vị tránh xa nó thì quý vị sẽ tự bảo vệ được bản thân mình, nếu quý vị tiếp xúc quá gần và tiếp cận với điên đảo thì tâm quý vị sẽ có vọng tưởng, vọng niệm. Chỉ cần tâm quý vị còn tiếp xúc với sự cố chấp, thì quý vị dần dần sẽ nảy sinh những phiền não không ngừng và cuối cùng phát triển những quan điểm sai lầm trong việc học Phật cũng như trong cuộc sống. Cho nên Bồ Tát dạy chúng ta “tâm bất vọng niệm, tánh tự bổn vô.” Cũng có nghĩa là trong tâm không có vọng niệm, những điều không đáng nghĩ thì chúng ta không nên suy nghĩ, “Tánh tự bổn vô” – bổn tánh của quý vị vốn dĩ chưa bao giờ tồn tại. Một đứa trẻ làm sao có thể học được những điều xấu nếu không có ai dạy nó những điều xấu? Nếu nó chưa từng tiếp xúc với thuốc lá từ khi còn nhỏ, thì ta tin rằng nó sẽ không bao giờ hút thuốc lá trong đời.
Tại sao vô minh không thể giải thoát? Vì không hiểu biết nhiều điều nên sẽ gây ra nhân quả của luân hồi và gây ra những tai họa lớn. Trong giới Phật giáo có câu “Kỷ sự kỷ minh”, việc mà mình đang làm phải hiểu rõ bản thân mình đang làm gì. Tất cả các bạn Phật tử hiện nay đều biết mình đã và đang đi trên con đường tu học Phật pháp, bản thân nên hiểu rõ cách đi trên con đường này, có như thế mới được giải thoát một cách tự nhiên. Nhiều người không thể đạt được giải thoát trong suốt cuộc đời, bởi vì bản thân họ không hiểu mình đang làm gì. Không tin thì quý vị vào trại giam mà hỏi. Nhiều người đã phạm tội và không biết mình đã làm gì sai. Cũng giống như con trẻ của chúng ta làm sai mà không biết “mình sai ở chỗ nào”, điều đó còn nguy hiểm hơn. Nếu biết mình sai và “Kỷ sự kỷ minh” thì tự nhiên sẽ được giải thoát. “Chỗ này tôi đã làm sai rồi, tôi không được làm như vậy nữa.” Thì quý vị đã buông xả và lần sau sẽ cẩn thận hơn. Cũng giống như khi chúng ta lái xe, nếu không biết đường, chúng ta sẽ lái
sai đường, thậm chí tông vào tường, hoặc đi sai hướng – lái xe trong một thời gian dài “Ồ, sai hướng rồi”. Đài trưởng tin rằng tất cả mọi người đều đã có trải nghiệm này. Nếu quý vị biết thì sẽ không phạm sai lầm, khi quý vị không biết thì sẽ còn tiếp tục lái theo hướng mà bản thân mình không rõ ràng.
Làm thế nào để hóa giải, làm sao để những chuyện của mình có thể tự mình làm sáng tỏ? Là người thì phải biết cách thấu hiểu được chúng sinh. Chỉ bằng cách hiểu được tất cả chúng sinh, chúng ta mới có thể hóa giải được những phiền não trong tâm mình. Giới Phật giáo dạy rằng: “Sở ngôn nhân dã, vị chúng sinh tâm”(Con người mà chúng ta đang nói tới chính là tâm của tất cả chúng sinh). Bồ Tát bảo tại sao gọi chúng ta là con người, vì con người thuộc về tâm của chúng sinh. Con người hoàn toàn có thể trở thành Bồ Tát, khi có cảnh giới cao chính là Bồ Tát. Trong suốt cuộc đời, “Nhược tâm vô sinh, nhân vô chúng sinh”. Tâm không sinh phiền não thì phiền não con người từ đâu ra? Tâm con người không sinh ác niệm thì ác niệm từ đâu ra? Thậm chí còn không biết ai đã đặt tên cho mình. Thực ra, nhân quả là do tự làm tự chịu, và mọi thiện niệm hay ác niệm của thân, khẩu, ý cũng đều trở thành nghiệp lực của chúng ta.
49. Trí tuệ bát nhã của Đức Phật vượt qua mọi ràng buộc
Tập 49
TRÍ TUỆ BÁT NHÃ CỦA PHẬT VƯỢT QUA MỌI RÀNG BUỘC
(22/04/2020)
Nghiệp lực giống như một quả bom, sớm muộn gì cũng sẽ nổ. Thiện nghiệp sẽ không nổ, thiện nghiệp như một bông hoa, còn ác nghiệp như một quả bom, nó có thể nổ bất cứ lúc nào. Vì thế, nghiệp lực sẽ dần dần hình thành nghiệp duyên của sáu cõi luân hồi: làm việc thiện thì vào đường thiện; làm việc ác thì vào đường ác, và phải trả báo nghiệp ở kiếp sau – ở nhân gian, chỉ cần làm điều thiện hay điều ác thì sẽ phải luân hồi trả báo. Tại sao pháp sư lại không muốn nhận quá nhiều đồ cúng dường của người khác, bởi vì phải trả nợ cho người, nếu tiếp nhận quá nhiều, có thể kiếp sau không thể tu thành mà vẫn phải trả lại cho người ta. Cho nên Sư phụ bảo với mọi người, nếu người khác đối xử tốt với quý vị, cho quý vị quá nhiều, đối xử tốt với quý vị, nấu ăn cho quý vị… Nếu quý vị không có công đức và nhận quá nhiều cúng dường (kể cả phụng sự viên cũng vậy) thì chắc chắn sẽ gánh nghiệp, nó chỉ tùy theo đó là nghiệp thiện hay nghiệp ác mà quý vị phải hoàn trả mà thôi.
Kinh Phật dạy cho chúng ta “đoạn hoặc chứng chân” tức là cắt đứt mê lầm để chứng minh cuộc đời chân thật của mình. Khi sự mê lầm không còn nữa, con người mới có thể sống trong thế giới thực của mình. Người suốt ngày nói dối thậm chí không thể phân biệt được điều mình nói cuối cùng là thật hay giả, loại mê lầm này khiến người ta không thể tìm thấy vị Phật chân thật trong tâm mình.
Người tu tâm là báu vật vô giá. Tu tâm là vô giá. Tại sao vậy? Bởi vì thứ mà họ đang tu dưỡng chính là trái tim, và trái tim này là báu vật vô giá – kho báu trong tim – hay còn gọi là kho báu trong tâm. Một khi tâm được tu dưỡng tốt, mọi thứ đều đủ đầy, không có nợ nần, bất sinh bất diệt thì trái tim này sẽ trong sạch, trái tim này sẽ có thể dùng nó một cách tự tại. Vì vậy, tu tâm càng về sau là tu trái tim của loài người này. Bất kì ai không tu tâm mà dùng tấm lòng nhân hậu của mình để lừa gạt hay làm tổn thương người khác thì sẽ chuyển thế ngàn lần và vẫn sẽ còn mang đến cho họ ngàn lần sai lầm.
Sư phụ sẽ dạy cho mọi người đơn giản hơn một chút, chuyện tốt cần phải ghi nhớ cho tốt, chuyện xấu hãy quên nó đi, sau khi cảnh giới nâng cao, thì thiện ác đều không nghĩ đến, cũng có nghĩa là khi cảnh giới của quý vị đã được nâng cao, khi làm việc thiện, đừng xem đó là việc thiện, càng không nghĩ đó là việc ác. Đôi khi lòng từ bi có nghĩa là giúp đỡ người khác, đôi khi nó có nghĩa là tỏ lòng thương xót tất cả chúng sinh và thấy người khác đáng thương, đôi khi nó
có nghĩa là bố thí, và đôi khi nó có nghĩa là nói những điều tốt đẹp đến người khác cũng là một loại từ bi.
Đối với người học Phật, tâm con người là quan trọng nhất, tâm là sản vật của sự tác động hoàn cảnh bên ngoài. Vì tâm tiếp xúc với những tình huống khác nhau nên sẽ nảy sinh ra những ý tưởng, khái niệm khác nhau nên tâm trí sẽ thay đổi theo những chuyển đổi của hoàn cảnh bên ngoài. Khi nhìn thấy mọi người như vậy, tâm quý vị cũng sẽ lay động; ai cũng tham, nên quý vị cũng tham; ai cũng ghét người này, nên quý vị cũng ghét họ; ai cũng làm những điều ngu xuẩn, nên quý vị cũng làm như vậy. Nhiều tên côn đồ đang làm những việc tục tĩu, khi quý vị nhìn thấy mười người xung quanh quý vị làm điều đó, quý vị cũng làm theo, bởi vì họ đều đang làm điều đó. Vì thế, tâm chúng ta phải biết tránh xa môi trường bên ngoài của nhân gian và tìm kiếm sự tốt lành của bản chất từ nội tâm chúng ta, đó chính là tìm thấy Phật tánh trong tâm mình. Chỉ cần trái tim bên ngoài cộng với bản chất bên trong của quý vị (tức là bổn tánh) thì nghiệp chướng của quý vị mới có thể được cải sửa và mới có thể hợp hai thành một. Nếu quý vị có nhân cách tốt thì cầu xin việc gì cũng linh ứng. Hôm nay, cái tâm bên ngoài của quý vị đang cầu xin cho gia đình quý vị, nhưng cái tâm bên trong quý vị có lòng từ bi – bản chất của Bồ Tát, khi quý vị quỳ xuống là quý vị đã hợp nhất với Bồ Tát. Nếu cầu xin không được linh ứng thì có nghĩa là tâm đang cầu nhưng bổn tánh không phát ra hào quang của Phật, Bồ Tát. Chúng ta nên cầu xin với lòng tôn kính, lòng từ bi của chư Bồ Tát và lòng biết ơn của chư Phật, tâm thành tắc linh. Sư Phụ dùng bạch thoại Phật pháp để nói rằng chỉ khi nào quý vị thành tâm thì quý vị mới có thể cầu xin linh ứng được. Vì thế, nhiều người tùy tùy tiện tiện cầu Phật rằng: “Để thử xem, không chừng có thể toại nguyện”. Với loại tâm nguyện này, chắc chắn sẽ không thành công. Tại sao tâm là tiêu chuẩn duy nhất để tu tâm và là điều quan trọng nhất? Tại sao Sư phụ lại nói với mọi người rằng “niệm kinh tức là niệm tâm?” Kinh văn là những thứ trong tâm quý vị – những thứ thuộc về bản chất của quý vị. Hãy dùng trái tim của quý vị để lộ ra sự thiện lương của bản chất bên trong. Vì vậy, Tâm Kinh là thánh bảo (là bảo bối) trong kinh điển.
Giảng đến đây Sư Phụ muốn giảng giải ngắn gọn về Tâm Kinh cho quý vị hiểu. “Tâm Kinh”, mỗi người chúng ta đều tụng hàng ngày, trong “Tâm Kinh” có một câu “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, dường như ai cũng hiểu được câu này. Đầu tiên, chúng ta cần hiểu năm uẩn là gì – sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Vậy làm thế nào để chiếu được tánh Không của nó đây? Trước hết chúng ta phải hiểu rằng muốn thâm nhập và chiếu được nó thì trước hết chúng ta phải có một
loại sức mạnh nào đó, loại sức mạnh này là năng lượng sức mạnh vô cùng vĩ đại, để chúng ta mới có thể “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Sức mạnh này được gọi là “Lực Bát nhã”, bởi vì chỉ có trí tuệ chúng ta mới có thể “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Bát nhã không phải là thứ quý vị tìm kiếm từ bên ngoài. Nhiều người nói: “Tôi đi học một ít trí tuệ”. Đó là điều quý vị không thể học được; mà trí tuệ đến từ bên trong, còn người khác chỉ có thể truyền cảm hứng cho nội tâm của quý vị mà thôi. Lấy một ví dụ đơn giản, nếu trình độ văn hóa của quý vị không cao thì dù giáo sư có nói với quý vị bao nhiêu đi chăng nữa, cũng không thể truyền cảm hứng cho Bát nhã bên trong của quý vị, quý vị phải có hạt giống Bát nhã và chỉ khi người khác truyền cảm hứng cho quý vị thì quý vị mới có thể hiểu được. Vì vậy, Bát nhã không phải được tìm kiếm từ bên ngoài mà được khám phá từ bên trong, đây là điều mà Đức Phật đã nói cách đây 2500 năm “tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”.
Bản thân quý vị có năm uẩn, và con người chính là năm uẩn, chỉ khi năm uẩn trống rỗng, mới có thể độ nhứt thiết khổ ách. Năm uẩn giống như năm chướng ngại, giống như những trở ngại không thể vượt qua trong cuộc sống, nếu nhìn thấu được chúng thì có thể “độ nhất thiết khổ ách”, nếu hôm nay quý vị bị năm uẩn vướng mắc và bị chúng bám chặt thì quý vị sẽ không thể nhận biết được chính mình. Ví dụ: “Sắc, thọ, tưởng, hành, thức”, nếu hôm nay quý vị nhìn thấy một điều gì đó tốt đẹp và trái tim quý vị bị thu hút bởi nó, thì có phải quý vị đã bị mất đi cơ hội để “độ nhứt thiết khổ ách” rồi không? Nếu hôm nay quý vị cảm thấy đau khổ, thì có phải quý vị cảm thấy bực bội bất bình không? Nếu quý vị cho rằng, hôm nay người này có điểm xấu trong ý thức của quý vị, có phải là quý vị sẽ luôn đối xử tệ với họ không? Kỳ thực, nếu quý vị luôn đối xử tệ với họ, chính là trong lòng quý vị có hận thù, vậy thì làm sao quý vị có thể vượt qua được khó khăn của chính mình đây? Bởi vì nếu quý vị hận họ, người khổ nhất là chính quý vị. Vì vậy Sư phụ muốn mọi người hiểu rằng để nhận biết được chính mình thì phải vượt qua nó.
Lấy một ví dụ đơn giản, người này rất tốt bụng và sống với quý vị đã lâu, nhưng vì họ làm sai điều gì nên ý thức của quý vị cảm thấy “cậu ta thật đáng ghét”, tuy nhiên, quý vị không thể vượt qua năm uẩn này và không thể nhìn thấu được năm uẩn này, nếu quý vị ghét cậu ta thì cuối cùng quý vị sẽ không vượt qua nổi thời khắc quan trọng này, không vượt qua nổi khổ ách này, nếu quý vị ly hôn hay rời xa họ, thì có phải sẽ mang lại cho quý vị nhiều đau khổ hơn không?
Người người niệm Phật nhưng có thể cũng không biết được Phật; người người đều tụng Tâm Kinh nhưng không hiểu những nguyên lý trong Tâm Kinh; người người đều biết Phật là ai, nhưng có bao nhiêu người thật sự hiểu được Phật? Vì chúng ta đã bị ngũ uẩn vây quanh và có thể dựa vào đâu để thúc đẩy bản thân “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Đó là nương vào sức mạnh Bát nhã sâu thẳm trong tâm. Chỉ bằng cách “hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời”, thì mới có thể “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Điều này muốn nói với quý vị rằng chỉ khi quý vị thực hành con đường Bồ Tát thật sâu sắc và hiểu sâu sắc lời dạy của đạo Phật, thì tâm của quý vị mới có thể nhìn thấy được miền cực lạc, hiểu được ý nghĩa thực sự và phương hướng học Phật, khi cảnh giới của quý vị cao thì mới có thể “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.
Chữ “thâm” trong “Hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời” rất quan trọng, thực ra chữ “thâm” có nghĩa là càng học sâu thì cảnh giới của người này càng cao. Đại thừa được gọi là “thâm Bát nhã” và Phật giáo Tiểu thừa được gọi là “tiểu Bát nhã”. Bát nhã thâm sâu là hiểu được trí tuệ lớn lao; Bát nhã nhỏ là hiểu được trí tuệ của Bồ Tát ở mức độ nhỏ. Bát nhã, nếu quý vị có thể hành thâm, tức là quý vị có thể tu tập đến mức độ rất thâm sâu, quý vị sẽ hiểu được lời niệm Phật: Phật từ đâu đến, tại sao Phật sống ở thế gian này, và thế giới này tại sao lại tồn tại chân đế? Quý vị nhìn Phật đọc kinh sẽ thấy càng ngày càng sâu hơn. Khi quý vị “hành thâm” thì không dễ nhìn thấy được tận cùng. Cũng giống như biển, nếu nó rất sâu, thì quý vị không thể nhìn thấy được thế giới dưới đáy biển. Quý vị không biết nó sâu đến mức nào, nếu đi “hành thâm” quý vị sẽ dần dần hiểu được lời kinh Phật dạy: “vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ” (chẳng từ đâu đến, lại cũng chẳng đi về đâu). Bởi vì thâm sâu quá, ta không biết biển từ đâu đến, cũng không biết nó đi về đâu, hình như ở đó, nhưng dường như không có ở đó, bởi vì nó sâu quá, ta không biết được mực nước biển sâu bao nhiêu mét.
Cho nên “cố danh Như Lai” (gọi là Như Lai). Khi chúng ta niệm Phật, dù niệm vị Phật nào, chúng ta đều hiểu rõ trong lòng rằng “chẳng đến cũng chẳng đi”, tức là “các pháp đều không có nguồn gốc”. Chư Phật Bồ Tát dạy chúng ta hiểu rằng mọi pháp trên thế gian đều “không có nguồn gốc”, vì nó quá thâm sâu nên chúng ta không thể thấy rõ, không thể thấy được nó đến từ đâu, thì chúng ta mới hiểu được đây là kinh Phật, Pháp Phật rất thâm sâu, nếu nó có nguồn gốc thì Như Lai không còn “vô sở tòng lai” nữa rồi. Nếu chúng ta hiểu điều gì đó một cách nhanh chóng, thì chúng ta không thể hiểu nó một cách sâu sắc. Thử nghĩ xem, tâm con người có phải như vậy không? Có nhiều người bây giờ yêu nhau rất nhanh mà không hề biết đến thế giới nội tâm của đối phương. Tại sao có
nhiều người yêu nhau, lấy nhau rồi lại bị lừa? Tại sao có người yêu nhau mấy chục năm, tương thân tương ái nhưng cuối cùng mới hiểu được đối phương? Bởi vì tình yêu đã đạt đến mức sâu thẳm. Vì vậy, danh hiệu của Đức Phật cũng vậy, chẳng từ đâu đến, lại cũng chẳng đi về đâu. Thâm là gì? Chúng ta cần phải học trí tuệ thâm sâu vô tận của Bát nhã, khi hiểu được trí tuệ vô tận của đạo Phật là quý vị đã hoàn toàn nhập vào Tánh Không rồi.
50. Ngũ uẩn giai không hành thâm bát nhã
Tập 50
NGŨ UẨN GIAI KHÔNG HÀNH THÂM BÁT NHÃ
(22/04/2020)
Khi hiểu được trí tuệ vô tận của đạo Phật là quý vị đã hoàn toàn nhập vào Tánh Không. Nếu không biết chuyện gì, thì quý vị sẽ trống rỗng; nếu quý vị biết rồi, quý vị sẽ gặp phiền não. Lấy một ví dụ đơn giản, khi quý vị biết một điều gì đó, quý vị sẽ rất phiền não, còn khi quý vị không biết, thì quý vị sẽ không quan tâm đến nó nữa: “Tôi cũng không thể hiểu được điều này”, thì quý vị sẽ không còn lo lắng nữa rồi đúng không? “Chuyện này, đúng, tôi đã hiểu rõ rồi, là do anh ấy không tốt, là bạn đúng”. Một lúc sau lại: “Tôi không rõ nữa, chính bạn là người sai, và anh ấy đúng”. Quý vị rơi vào giữa đúng sai mà không thực sự hiểu rõ nguyên nhân dẫn đến cãi vã của hai người họ. Đài trưởng thường kể cho mọi người nghe về “cảnh giới Không tánh”, tức là thực chất đang bước vào một thế giới khác – một thế giới rời xa với thế giới ngũ trược ác thế.
Bất cứ điều gì quý vị nhìn thấy, dù tụng kinh, bái Phật hay xem “sinh từ đâu đến, tử đi về đâu?”, thực ra đều là một khái niệm, bởi vì “vô sinh diệc vô tử, dĩ vô sở đắc cố”. Hết thảy các pháp đều “không từ đâu đến”, quý vị không biết pháp này đến từ đâu, và quý vị cũng không biết pháp này đi như thế nào. Điều sâu sắc nhất mà quý vị biết là kinh Phật và pháp Phật đều đến từ Phật Bồ Tát, nhưng trí tuệ của Bồ Tát lại từ đâu đến? Thâm sâu khó thể đo lường, đó mới gọi là “hành thâm”, đó mới gọi là “Bát nhã ba la mật đa thời”. Muốn sang bờ bên kia phải hiểu sâu sắc trí tuệ của đạo Phật nên Bát nhã gọi là “Thâm Bát nhã”. Người có thiện căn đôi khi ngồi thiền cảm thấy thân thể trống rỗng và hạnh phúc. Có thật là trống rỗng rồi không? Thân thể trống rỗng rồi, nhưng trong lòng không trống rỗng, trong lòng tạp niệm phân phi. Khi thân thể trống rỗng, thì tâm niệm bắt đầu trỗi dậy. Có rất nhiều người ngồi bên dưới nghe pháp không để tâm. Rất nhiều người nói chuyện với Sư phụ, tâm không đặt nơi đây, hết nhìn bên trái rồi nhìn bên phải, họ chỉ nghĩ đến việc riêng của bản thân, rồi làm việc riêng. Vậy thì người này có thể tập trung được sao? Trong tâm mỗi người chúng ta có vô số vọng niệm, theo ngôn ngữ hiện đại mà nói thì tâm vọng tưởng nhiều vô kể. Vọng tưởng vô vàn như vậy thì phải làm sao để chúng không khởi ra? Chỉ có thể dùng trí tuệ và trong tâm tràn đầy trí tuệ Bát nhã, thì tự nhiên tâm vọng tưởng sẽ không khởi lên được, khi đó tâm Niết bàn và tâm trí tuệ sẽ hiển lộ. Cho nên, trong thâm sâu Bát nhã, Quán Thế Âm Bồ Tát đã nói: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.
Ngũ uẩn chính là chúng sinh và ngũ uẩn cũng có thể nói là chính mình, bởi vì mỗi chúng sinh đều có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nếu muốn nhận biết chính
mình, quý vị phải hiểu rằng bản thân chính là một người có thân ngũ uẩn. “Uẩn” có nghĩa là che đậy, một nghĩa khác là nó có thể che đậy bản chất bên trong như mây hay sương mù.
“Uẩn” này có năm loại sắc mây, năm loại mây mù, nó có thể che lấp được bổn tánh nên phải xuyên thấu qua nó. Nó tựa như ánh mặt trời bị che lấp bởi đám mây đen. Nếu như có thể xuyên qua đám mây ấy thì sẽ thấy được mặt trời, thấy được ánh sáng của cầu vồng chiếu rọi, cũng giống như tâm Bồ-đề không còn bị che phủ bởi ngũ uẩn nữa. Chỉ bằng cách hiểu rõ ngũ uẩn thì Bồ-đề tâm mới có thể xuất hiện. Vậy hiện nay chúng ta đang có loại tâm nào? Tâm hiện tại của chúng ta được gọi là “tâm vọng tưởng”. Nếu không khắc phục được ngũ uẩn của chính mình thì quý vị sẽ có tâm vọng tưởng. Nếu xa rời Bồ-đề tâm thì không thể gọi đó là tâm chân đế. Vì không hiểu “chân đế” là gì, nên sẽ có “Ngã thị phi tâm”. Mỗi người đều có tâm thị phi sai đúng và tâm tham chấp danh lợi. Ngũ uẩn chỉ có thể thấy được Bồ đề tâm tự tánh khi chúng trống rỗng, vì vậy việc tu tâm phải bắt đầu từ tu Bồ-đề tâm và tiếp tục tu cho đến khi thành Phật. Nhiều người nói rằng nếu muốn sanh về thế giới Cực Lạc thì hiểu ngũ uẩn như thế nào? Nếu muốn đến được thế giới Cực Lạc, cần phải bước vào được thế giới của Tánh Không và tu thành ngũ uẩn giai không.
Kiếp trược chính là sắc uẩn, phiền não trược chính là tưởng uẩn. Kiếp trược, kiếp là kiếp nạn, kiếp nạn trược là nhìn thấy được tai họa bên trong và tai họa bên ngoài, là sắc uẩn. Phiền não trược chính là tưởng uẩn. Khi quý vị buồn phiền, có phải trong đầu đang suy nghĩ không? Kiến trược là thọ uẩn. Chúng sinh trược, mọi sự tiếp xúc với tất cả chúng sinh đều là hành uẩn. Mệnh trược có nghĩa là ý thức của quý vị tạo ra phương hướng của sự sống. Vậy nên, chỉ khi ngũ uẩn đều trống rỗng mới có thể thoát khỏi được sự quấy rầy của ngũ trược ác thế, mới có thể đến Tây Phương Cực Lạc và chiếu kiến được ngũ uẩn giai không. Khi đó, tâm quý vị mới có thể biến thành cõi nhân gian tịnh độ hiện hữu trong tâm thức của quý vị.
Tất cả kinh do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết, thực ra đều bảo chúng ta phải làm rỗng không ngũ uẩn và phải chiếu kiến được hết thảy ngũ uẩn giai không. Tuy nhiên “Tâm Kinh”, cũng như “Kinh A Di Đà” cũng dạy chúng ta rời bỏ ngũ trược và ngũ uẩn để có thể làm trống rỗng ngũ uẩn. Có một cuốn kinh trong giới Phật giáo là “Giải Thâm Mật Kinh”, quyển kinh này nói về ý thức của hạt giống và thức A-đà-na, thực ra là cách chuyển đến thức thứ tám về tánh Không. Sư phụ có rất nhiều lời Phật dạy cần nói với quý vị, về sau sẽ giảng cho quý vị về
tứ trí, chuyển thức thành trí — tức là trở thành trí huệ, chuyển hóa thức thứ tám thành tứ trí.
Mọi người đều biết thức thứ tám, phải không? Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý (sáu thức), thức thứ bảy là thức Mạt-na thức, và thức thứ tám là A-lại-da-thức. Làm thế nào để chuyển hóa thức thứ tám? Thức thứ tám chính là ngũ uẩn – tức là quý vị có năm uẩn này và chúng ở trong thức thứ tám. Nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức và thân thức (năm thức đầu) chính là thọ uẩn, và năm trần tương ứng là sắc uẩn; thức thứ sáu là tưởng uẩn, tức là trong tư duy; thức thứ bảy là thực ra ý thức của quý vị đang vận hành, tư duy của quý vị đang hoạt động và ý thức phân biệt của quý vị đang quyết định, đó là hành uẩn; thức thứ tám, A-lại-da thức là ý thức uẩn của hình thành suy nghĩ, được gọi là “thức uẩn”. Mọi người phải hiểu rằng những thứ trong thức thứ tám này đều đến từ ngũ uẩn.
Thuyết duy thức dạy chúng ta chuyển hóa thức thứ tám thành Tứ trí (4 loại trí tuệ): Đại Viên Cảnh Trí, Bình Đẳng Tánh Trí, Diệu Quan Sát Trí và Thành Sở Tác Trí. Thuyết duy thức đòi hỏi chúng ta phải chuyển hóa thức thứ tám, cũng có nghĩa là dù chúng ta có hình dáng bên ngoài như thế nào ở nhân gian, chỉ cần chuyển hóa được thức thứ tám, là chúng ta có thể làm trống rỗng năm uẩn. Chỉ cần có một sự việc chuyển hóa được thì sự việc này sẽ trở thành trí tuệ. Ý nghĩa này có thể nhiều người không hiểu, Sư phụ sẽ cho quý vị một ví dụ đơn giản. Thử nghĩ xem, khi vợ chồng cãi nhau mà người chồng rất hận người vợ mình, khi đó chỉ cần người chồng biết nghĩ đến việc cô vợ phải khổ sở thế nào khi ở bên mình, khi ý thức này chuyển hóa thì người chồng sẽ cảm thấy cô vợ thật đáng thương, người chồng sẽ có sự thương xót trong lòng và sẽ không đối xử với cô vợ bằng những hành động và lời nói làm tổn thương cô ấy. Ví dụ như đứa trẻ này quá phiền phức, mặc dù chính bản thân mình sinh ra nó, nhưng nó thực sự rất đáng ghét, nếu lúc này, quý vị nghĩ, nó đầu thai đến nhân gian chịu đựng nhiều đau khổ như vậy cũng không dễ dàng, nó cũng đã từng mang đến hạnh phúc cho gia đình – khi quý vị nghĩ được như vậy, có phải quý vị đã chuyển hóa được ý thức của mình thành trí tuệ rồi không? Có phải trí tuệ đã xuất hiện rồi không? Tại sao nên chuyển hóa thành Đại Viên Cảnh Trí và Bình Đẳng Tánh Trí? Đó là những điều Sư phụ sẽ nói với mọi người tiếp theo vào lần sau: Nên làm thế nào để có được trí tuệ vĩ đại, dùng trí tuệ vĩ đại để bao dung và giải quyết những phiền não trên thế gian. Tứ Trí – Trí tuệ này là bốn loại trí tuệ, xuất phát từ Phật tánh, vậy nếu quý vị có thể chuyển hóa được thức thứ tám – tức là nếu quý vị có thể chuyển hóa mọi phiền não trên thế gian thành trí tuệ, chẳng phải là quý vị đã có được Bồ-đề tâm ở chốn nhân gian rồi sao?
Mỗi lần như vậy, sau cùng Sư phụ sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện. Điều mà Sư phụ muốn nói với mọi người hôm nay chính là một trong những đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vĩ đại, ông là một người đáng kính tên là Tôn giả Châu Lợi Bàn Đà Già (Suddhipanthaka), nhiều người đã nghe nói đến và Sư phụ dường như đã kể sơ về câu chuyện này qua rồi. Câu chuyện hôm nay thú vị hơn và được kể dưới hình thức mở rộng. Mọi người đều quen thuộc với câu chuyện này, chúng ta đều biết Đức Phật có một đệ tử như vậy, người đệ tử này sau này được gọi là Tôn Giả, hay còn gọi là Bàn Đặc. Vị Tôn Giả này thực ra từ nhỏ đã tương đối ngu ngốc, cha vị Tôn giả này là một nô lệ mù chữ, nhưng điều kỳ lạ là mẹ của Tôn giả lại là con gái của một trưởng lão giàu có quyền lực và lại được giáo dục tốt.
Khi mẹ Tôn giả sắp sinh, bà nhớ mẹ bà đến nỗi bất chấp tất cả để trở về quê hương xa xôi. Khi sắp về đến nhà mẹ, không ngờ đột nhiên chợt cảm thấy đau bụng không chịu được, vội vàng tấp vào bên vệ đường. Không lâu sau, một bé trai da trắng và mập mạp ra đời, Bàn Đặc đã đến thế giới này trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy. Đáng tiếc đứa bé này từ nhỏ đã là một đứa trẻ đần độn ngu ngốc, rất nhiều chuyện cơ bản trên đời nó chẳng hiểu chút nào cả. Nhưng sau này, ông may mắn được gặp Đức Phật và xuất gia học Đạo. Bởi vì bản tính của ông tương đối đần độn, Đức Phật rất từ bi và dạy bốn câu kệ cho ông, nhưng thậm chí ông không thể niệm thuộc được bốn câu kệ đó.
Để giáo hóa người đệ tử đặc biệt này, nên Đức Phật đã mở rộng phương tiện cho ông. Thấy Bàn Đặc đang quét nhà, Đức Phật chỉ vào cây chổi và nói: “Này Bàn Đặc, từ nay về sau, khi ngươi quét nhà, hãy niệm từ “quét bụi” trong khi quét nhé. Nếu ngươi có thể nhất tâm chuyên niệm thì tự nhiên sẽ niệm được lợi ích thôi.”
Lúc đầu, khi Bàn Đặc niệm từ “quét bụi”, ông ấy thường niệm “quét” mà quên “bụi”, và khi niệm “bụi” ông ấy lại quên niệm “quét”. Đối với người hoàn toàn không có trí nhớ gì như Bàn Đặc, tất cả những ai nhìn thấy ông đều thì thầm, cười nhạo và lắc đầu.
Một ngày nọ, hoàng tử Kỳ Vực mời Đức Phật và các đệ tử của Ngài vào cung để nhận cúng dường (ngày xưa, nhiều quý tộc hoàng gia đã mời pháp sư vào cung để cúng dường họ, đó là một điều rất cao quý), họ đã cố tình từ chối Bàn Đặc tham dự và không cho ông đi. Khi Đức Phật và các đệ tử của Ngài đến nhà vua Kỳ Vực để nhận cúng dường, chủ nhà theo phong tục của vùng nhiệt đới Ấn Độ, mang ra một chậu nước để khách rửa chân trước khi mời khách. Nghi
thức này được gọi là “hành thanh tịnh thủy” (tức là mọi người rửa chân sạch sẽ. Trong hệ thống tu viện cũ, sau khi rửa chân đi ngủ, nên rửa chân sạch sẽ và loại bỏ hết bụi bẩn). Hoàng tử Kỳ Vực đem nước đến dâng Đức Phật nhưng Đức Phật từ chối. Hoàng tử Kỳ Vực rất ngạc nhiên và hỏi: “Thưa Đức Phật, tại sao ngài không nhận nước tinh khiết?”
Đức Phật nói: “Trong số những người đến nhận cúng dường, Tỳ kheo Bàn Đặc có mặt ở đây không?”
Hoàng tử Kỳ Vực trả lời: “Thưa Đức Phật, Tỳ kheo Bàn Đặc thậm chí không thể phát âm hai từ “quét bụi”. Ông ta còn tệ hơn cả một người chăn cừu, nên chúng tôi đã không mời ông ấy đến.”
Đức Phật dạy: “Không, Phật giáo là bình đẳng, là không có cao thấp hay khác biệt. Nếu Ngài không mời Bàn Đặc, thì ta cũng không nhận nước”. Đức Phật cũng từ chối chấp nhận nghi thức này.
Hoàng tử Kỳ Vực biết rằng không được phép làm trái ý Đức Phật và ra lệnh: “Nào, đi, nhanh lên, nhanh lên, đi mời Tôn giả Bàn Đặc đến cho ta.” Hoàng tử liền sai cấp dưới đi mời. Chẳng lâu sau, Đức Phật rất vui mừng khi thấy Bàn Đặc đến và yêu cầu Tôn giả A-nan đưa cho ông thụ bát (tức là đưa cho ông một cái bát khất thực để ăn và nhận cúng dường). Bàn Đặc rất thật thà và trong sáng nên vui vẻ nhanh chóng đứng dậy (như thể rất tôn trọng, khi có người đưa đồ cho mình thì ông ấy sẽ đứng lên cảm ơn). Nhưng Đức Phật nhìn thấy ông và nói: “Ông hãy ngồi xuống, không cần phải đứng lên, ngồi xuống là được rồi.” Đức Phật có mục đích riêng của Ngài, bởi vì Bàn Đặc đã xuất gia sớm hơn A-nan.
Đức Phật biết chỗ ngồi của Bàn Đặc rất xa với mình (tức là rất xa phía sau), và việc trả lại bát cho Đức Phật sau khi ăn thực sự không dễ dàng nên Đức Phật bắt đầu giúp ông (thực ra Đức Phật chỉ muốn mọi người tôn trọng Châu Lợi Bàn Đà Già). Khi đó Bàn Đặc đã dựa vào năng lượng mà Đức Phật ban cho mình lúc đó là năng lực uy thần của Đức Phật (vì vậy đôi khi đứa trẻ ngốc hơn một chút thì có thể dễ dàng tiếp nhận được khối năng lượng, đứa trẻ có tâm hồn trong sáng, đứa trẻ có đầu óc thẳng thắn, ít khôn vặt, rất dễ tu thành. Khi ông tiếp nhận lấy, liền cảm nhận được năng lượng của Bồ Tát). Trước khi người khác chú ý, thì “vù”, chiếc bát đã được trao đến tay Đức Phật (nghĩa là cái bát ông đã ăn xong, khi Đức Phật vừa đưa tay ra thì nó bay đến và được trao qua tay). Hiện tượng kỳ lạ này khiến tất cả mọi người phải quay lại nhìn, đặc biệt là Hoàng tử Kỳ Vực,
ông vội vàng tiến tới, khi nhìn thấy Bàn Đặc có thần thông này, ông quỳ xuống trước mặt Tôn giả Bàn Đặc và sám hối, sau đó phong làm khách quý.
Bàn Đặc tuy ban đầu ngu ngốc nhưng lại có tính kiên cường và kiên trì, sau sáu năm, ông không chỉ đọc thuộc lòng nhiều chữ mà còn không nản lòng khi bị người khác cười nhạo, ông coi việc chế nhạo là tiêu trừ nghiệp chướng cho mình: “Các người cười nhạo tôi là các người đang tiêu trừ nghiệp chướng cho tôi”. Tâm trí ông thay đổi, ông dần dần tỉnh táo, tu hành ngày càng tốt hơn, không còn bị tán loạn nữa, cho đến một ngày ông khai ngộ và chứng được thánh quả. Từ đó, tâm linh trí tuệ được khai mở, ông có thể hiểu được những giáo lý đạo Phật vi tế và sâu sắc, ông có thể hiểu được những lời dạy Pháp thâm sâu của Đức Phật. Những người trước đây coi thường ông dần bắt đầu tôn trọng ông và không còn cười nhạo ông nữa.
Tôn giả Bàn Đặc có lần theo Đức Phật và bốn trăm chín mươi chín vị đệ tử của Ngài đến nhận cúng dường từ vua A-nậu-đạt. Đi đến ao A-nậu-đạt, Đức Phật căn dặn các đệ tử: “Mỗi người uống một ít nước tám công đức trong ao, vì sau khi uống nước tám công đức các ngươi có thể biết được ngay cảnh tượng kiếp trước của mình”. Lúc này, Đức Phật để các đệ tử lần lượt kể lại cho đại chúng nghe những gì họ đã thấy ở kiếp trước sau khi uống nước.
Khi đến lượt Bàn Đặc, ông tuân lời và giải thích lý do tại sao mình lại ngu dốt đến như vậy. Ông nói: “Thưa đại chúng, nhiều kiếp trước, tôi là một người chăn nuôi lợn. Một ngày nọ, tôi đang lùa một đàn lợn ra chợ bán. Đi được nửa đường, bị một con sông cản trở. Để bắt kịp phiên chợ buổi sáng, tôi Không thể dừng lại, tôi dùng dây thừng trói từng con lợn lại, nhưng sợ chúng hét ầm ĩ trên sông nên tôi dùng vải bông bịt chặt miệng từng con lợn một. Tôi dùng tay siết chặt sợi dây rồi từ từ qua sông, khi tôi đã tới bờ và kéo đàn lợn lên, vì miệng lũ lợn này bị tôi dốt nát bịt chặt bằng vải bông nên chúng không thở được, khi qua được giữa sông, một đàn lợn sống sờ sờ đã bị chết ngạt, lợn chết ra chợ bán rất khó, nên tôi mất hết toàn bộ vốn liếng, từ đó cuộc sống của tôi rất khốn đốn, tôi thường xuyên đứng thẩn thờ bên bờ sông, ngơ ngác nhìn dòng nước, không nghĩ ra được lối thoát cho bản thân mình. Một ngày nọ, có một vị cao tăng đến đó, thấy tôi rất đáng thương, thuyết phục tôi xuất gia và dạy tôi cách tu hành. Khi chết tôi được sinh lên cõi trời, hưởng hết mọi phúc lành ở cõi trời, tiếp đó tái sinh vào cõi người, vì tôi bịt miệng heo, do nghiệp lực làm tổn thương nhiều sinh mệnh nên kiếp này tôi phải gánh chịu quả báo ngu dốt. Vì nhân duyên kiếp
trước làm tu sĩ, nên kiếp này được gặp Phật tổ và cho đến hôm nay chứng đắc quả A La Hán.”
Câu chuyện này dạy cho chúng ta biết rằng, trong đạo Phật, ngu dốt cũng được, nhưng chúng ta phải chân thành, tử tế, giản dị và biết giữ giới. Chỉ cần chúng ta dùng những nhân duyên tốt lành trong tâm mình để tinh tấn tu Phật pháp và giữ chặt thân, khẩu, ý của mình cho tốt thì chắc chắn Bồ Tát sẽ đến cứu độ chúng ta.
51. Từ bỏ vọng tưởng phi tưởng phi phi tưởng
Tập 51
TỪ BỎ VỌNG TƯỞNG PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG
(25/04/2020)
Thực ra, cuộc sống là một loại cân bằng, khi chúng ta sống trên thế giới này, trên thực tế là muốn đạt được một loại cân bằng nào đó, nếu có được cái này thì chắc chắn sẽ mất hoặc bỏ lỡ cái kia, nên đôi khi quý vị muốn có được tất cả mọi thứ trên thế gian này, nhưng cuối cùng quý vị lại mất đi nhiều hơn, bởi vì tâm quý vị không cân bằng. Thế nên Sư phụ bảo mọi người, đôi khi đừng mong đợi sự công bằng tuyệt đối trong cuộc sống hay muốn sự việc này nhất định phải có được sự công bằng. Thực ra, chữ “công bằng” giống như hai đầu của một chiếc cân, đầu này cho đi càng nhiều thì đầu kia càng có hy vọng. Cũng giống như giữa bạn bè, giữa vợ chồng, giữa con cái với nhau, thực ra, chỉ cần một người chịu đựng nhiều hơn thì sẽ có thêm hy vọng.
Khi chúng ta đang ở giữa muôn vàn mâu thuẫn của thế giới này hay khi cuộc đời đang đi đến bờ vực thẳm, đừng quá bi quan, bởi cuối cùng chúng ta sẽ lần lượt vượt qua được những trở ngại và tiến về phía trước. Khi quý vị ở dưới đáy vực thẳm, đừng thất vọng; khi quý vị đang ở đỉnh cao của cuộc đời, hãy nhớ rằng đây chỉ là tạm thời và đừng để bị nó cuốn đi. Khi một số người đạt đến đỉnh cao hoặc đạt được vị trí rất cao trong đơn vị công tác của mình, nên nghĩ rằng cuối cùng có khả năng chính mình cũng sẽ bị xuống chức. Trong cuộc sống đừng quá cố chấp, một tâm lý quân bình sẽ giúp quý vị học Phật tốt. Đôi khi quý vị đưa ra lựa chọn, bản thân chỉ cần nỗ lực, kiên trì và bước đi trên con đường này với lương tâm trong sáng là được. Cuộc đời của mỗi người không gì khác hơn là đang bước đi trong quá trình sống của chính mình. Mỗi chúng ta đều đang bước đi trong quá trình sống: “Vinh hoa hoa gian lộ, phú quý thảo thượng sương” (vinh hoa như sương giữa hoa, phú quý như sương trên cỏ). Hết thảy đều là hư ảo, sở hữu nhiều hơn sẽ mang lại cho quý vị nhiều áp lực hơn và khiến quý vị gặp thêm nhiều phiền não. Vì vậy, sinh không mang đến, chết không mang theo, chúng ta nên để tự nhiên diễn ra theo quy luật của nó và chúng ta nên hiểu ý nghĩa của việc hài lòng với mọi thứ khi chúng đến.
“Bạch Thoại Phật Pháp” nói với mọi người rằng, ở nhân gian có rất nhiều việc không nên nhìn quá rõ ràng, đôi khi nhìn thấu tự mình sẽ cảm thấy đau lòng, đôi khi gặp một số phiền não thì hãy tùy duyên là được. Trong kinh Phật thường có câu “không thể nói”, trên đời có nhiều chuyện chỉ có thể hiểu, nhưng không thể diễn đạt bằng lời, nói cách khác những điều có thể cảm nhận được trong lòng, không nhất thiết là điều đó có thể viết hay nói ra thành lời. Loại cảm nhận bên trong và nhiều trạng thái bên trong đó chẳng phải muốn viết là có thể viết ra
được. Cũng giống như trải nghiệm học Phật của mỗi người đều khác nhau, đôi khi đó là một loại ngộ tánh, một loại giác, một loại thụ, cho nên tu tâm là để giác ngộ cái tâm này của mình.
Đức Phật giáo hóa chúng sinh để chúng ta nên từ bỏ những vọng niệm và chấp trước, chúng ta không nên cố chấp và không được có vọng niệm, nên Đức Phật yêu cầu chúng ta nhập vào trạng thái phi tưởng phi phi tưởng. “Phi” có nghĩa là không, không phải. Ví dụ, nói không làm điều gì đó — tức là phi dã; không làm, đừng làm như thế — tức là phi. “Phi tưởng” có nghĩa là đừng nghĩ về nó. “Phi phi tưởng” có nghĩa là không phải không nghĩ về nó. “Phi tưởng phi phi tưởng”, cũng có nghĩa là đừng nghĩ về nó, nhưng không có nghĩa là đã bước vào trạng thái hoàn toàn không nghĩ về nó, điều này dựa vào sự giác ngộ của quý vị. Trên đời có rất nhiều việc, quý vị làm cũng được, không làm cũng được, có những việc được làm, nhưng có những việc không được làm, thực ra vừa có thể được làm mà cũng vừa không được làm, vừa muốn làm mà cũng vừa không được muốn làm. Đây chính là cuộc sống, cần dựa vào sự hiểu biết và ngộ tánh.
Tại sao con người chúng ta có nhiều điều không được nói? Bởi vì khi muốn nói điều gì đó, quý vị sẽ có tâm ích kỷ trong đó và quý vị sẽ có vọng niệm về điều mình muốn nói. Vì thế, bất kì ai khi nói ra, ngoài mục đích nói chuyện ra chắc chắn vẫn còn có nhiều tạp niệm ích kỷ, trong đó có cái tôi muốn biểu hiện, câu nói này tôi nói ra đều có chút tâm ghen tị, tâm tham, tâm ngu si trong đó, mỗi câu nói khi thốt ra luôn mang một ít vọng niệm, hoặc nói: “Tôi có thể cảm nhận được gì trong cái tâm tư lợi này?” Vì vậy, khi một người không thể diễn đạt được ý mình, nếu họ nhất quyết nói ra, chắc chắn sẽ xảy ra chuyện. Kinh Phật thường dạy chúng ta “không được nói”, Đức Phật đã khai thị rất nhiều trong kinh sách và Phật ngôn Phật ngữ nhằm giáo hóa tất cả chúng sinh và cho chúng ta biết cách làm như là phương sách cuối cùng. Khi thực sự không thể kiềm chế được về mặt tinh thần, thì chúng ta phải hiểu rõ, tức là thông qua học tập hàng ngày và cuối cùng nó có thể đi vào lòng mình để cảm nhận và hiểu nó. Đây chính là đạo lý mà Thiền tông nói về việc “không dính mắc vào văn tự”. Khi một người học Phật càng về sau mà suốt ngày nói chuyện với người khác về ngôn từ, thì người đó đã bị dính mắc vào ngôn từ. Sự thực hành chân chính của đạo Phật là dùng trí tuệ để giải thoát tư tưởng của chính mình. Kinh điển Phật giáo có câu: “Có những điều có thể nói mà không thể làm được, có những điều có thể làm nhưng không thể nói và có những điều không thể nói cũng không thể làm”. Đây là khả năng hiểu biết của mỗi người. Khi học được tinh hoa sâu sắc của Kinh Phật, sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự giác ngộ của mỗi người và nó
hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất của thức Amala (tức là thức thứ 9) bên trong quý vị để phù hợp với thức Alaya (tức là thức thứ 8) của quý vị, để chúng có thể được hòa hợp với nhau. Sư phụ sẽ giải thích cho mọi người biết việc gì nói được mà không làm được, ví dụ đơn giản là khi người khác làm sai thì mình phải nói họ, bằng không không nói thì lại không được. Nhưng nếu nói với họ rồi mà bản thân mình lại không thể làm việc đó được, vì thế mới nảy ra một câu: “Nếu tôi như bạn thì sao? Nếu tôi đối xử với bạn như vậy thì sao?”
Cho nên có những điều có thể nói được, nhưng quý vị có thể đối xử với họ như vậy không? Quý vị có thể làm được như thế này không? Đây chính là kinh điển, kinh điển của Phật giáo. Sư phụ lại đưa ra một ví dụ khác, việc gì có thể làm mà không thể nói? Đó chính là hãy hành động như Phật, làm tốt những việc của Bồ Tát, mỗi ngày làm công đức. Nhưng đối với những chúng sinh không có duyên, một khi quý vị đã “nói” với họ rồi, ví dụ như quý vị nói với họ “phải ăn chay trường.” Kết quả là dẫn đến họ tạo khẩu nghiệp và nói: “Sơn hào Hải vị cũng không ăn thì bạn đến nhân gian để làm gì? Thậm chí đến hưởng thụ cũng không biết hưởng nữa”. Và còn nói: “Thịt và rượu thông qua ruột v.v…” Họ tạo khẩu nghiệp và tiếp đó quý vị đã giúp họ gánh nghiệp rồi. Vì vậy, có một số việc nếu quý vị tự mình làm, chính là quý vị đang thực hành con đường của Bồ Tát, nhưng nếu gặp một người không có duyên, không nhất thiết phải nói với họ. Có những điều đã không thể nói, lại không thể làm, điều gì không thể nói và không thể làm, đó chính là suy nghĩ bẩn thỉu trong lòng mình. Vừa không thể nói ra, lại không thể làm nó. Nếu làm thì sẽ có nhân quả, nếu không làm thì sẽ không có nhân quả. Cho nên kinh điển trong kinh Phật đều xuyên suốt trí tuệ học Phật, học càng về sau, trí tuệ của con người sẽ ngày càng khai ngộ, con người sẽ khác đi, giống như trong “Tâm Kinh” có câu: “Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc”.
《Bát nhã ba la mật đa tâm kinh》do Hòa thượng Huyền Trang dịch vào thời nhà Đường, thực ra nó là tinh hoa của Thiền tông. “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, thị tưởng hành thức, diệc phục như thị”. “Sắc” mà Phật gia nói đến ám chỉ vạn vật và con người có thể nhìn thấy bằng mắt, thực ra câu này nói với chúng ta rằng, chúng ta phải hiểu Sắc chính là Không, và đó là khái niệm Thiền học về bản tánh Không trong vạn vật. Mọi người nghĩ mà xem, mọi thứ trên thế gian này từ có được đến cuối cùng rồi cũng sẽ mất đi, dù nó mất đi một cách tự nhiên hay do quý vị rời khỏi thế gian này mà mất đi, hết thảy đến cuối cùng đều trống rỗng. Chúng ta đã từng có nó nhưng cuối cùng lại đánh mất nó. Chúng ta từng sở hữu nhiều ngôi nhà nhưng
cuối cùng lại mất hết; chúng ta sở hữu rất nhiều trong đời nhưng cuối cùng lại mất hết. Cái lý niệm này chính là để cho chúng ta cần phải biết khai ngộ.
Bồ Tát cho chúng ta hiểu rằng “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc” chính là để cho chúng ta không nên “chấp tình” với vạn vật – bám víu vào cảm xúc này, “Ngôi nhà này tôi rất quý nó, tôi thực sự rất thích” “Tôi yêu anh ấy rất nhiều, tôi không thể buông anh ấy được” … Kinh Phật dạy chúng ta đừng dính mắc vào cảm xúc này, bởi vì cảm xúc này là trống rỗng. “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”. Chỉ cần quý vị còn dính mắc vào những thứ trống rỗng này thì tiếp theo đó trong lòng quý vị sẽ không được tự tại và không được thoải mái, quý vị đang bàn về tánh Không, luận về tánh Không nhưng lại đi lưu luyến tánh Không. Rành rành quý vị biết rõ người này sẽ rời xa mình, nhưng quý vị vẫn lưu luyến họ và cuối cùng điều mà quý vị nhận được chính là sự trống rỗng. Khách sạn này thật tuyệt khi ở lại nửa năm, thậm chí một tháng, thật tuyệt và dịch vụ rất tốt, nhưng quý vị nên biết rằng cuối cùng quý vị cũng sẽ rời xa nó. Như cơ thể của quý vị, biết rằng cha mẹ đã cho mình mượn cơ thể này, cũng chỉ bảy tám mươi năm, nhưng quý vị đã chấp vào cái thân này, mỗi ngày dành bốn năm giờ trang điểm, thẩm mỹ cho nó, cuối cùng thân xác này rời bỏ quý vị khiến quý vị đau buồn, cho nên đây chính là “Sắc tức thị Không”. Bởi vì những gì quý vị thấy đều là trống rỗng, nhưng nếu quý vị lưu luyến sự trống rỗng và cảm thấy sự trống rỗng này là tồn tại, quý vị nhớ nó và bám vào phức hợp tình yêu trống rỗng này, thì quý vị không hiểu “Không tức thị Sắc” nghĩa là gì. Điều đó có nghĩa là, bởi vì quý vị lưu luyến sự trống rỗng nên quý vị đã không chú ý đến việc có Sắc trong sự trống rỗng này – tức là còn có những vật thể và mọi thứ quý vị có thể nhìn thấy. Vì vậy, để nhìn thấu nó, chúng ta phải chiếu kiến ngũ uẩn giai không và chúng ta phải thấy được bản chất của nó.
“Tâm Kinh” trong kinh Phật dạy chúng ta rằng nếu muốn trong lòng tự tại, hoàn toàn không bị những thứ Không và Sắc làm vướng bận, nếu muốn có được sự tự tại lớn lao trong tâm, chúng ta không chỉ phải hiểu cái gì là “Không”, mà còn trong tánh “Không” biết sử dụng cái “Sắc” của thế gian (tức là hình tướng) để hoàn thành Tánh Không trong tâm mình, nên đừng Luyến Không. Thọ, tưởng, hành, thức đều là cảm xúc của quý vị. “Tâm Kinh” nói rất rõ ràng rằng “thọ” là cảm giác, “tưởng” là tư duy, và “hành” là ý thức do hành vi bên trong hình thành. “Diệc phục như thị”— tức là cũng như thế này, tất cả đều như vậy, cuối cùng nó là “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị nghĩ: “Thật tuyệt vời. Trong vòng một năm tôi có thể nhận được một ngôi nhà tốt do công ty sẽ tặng nó cho tôi hay gì đó. Tôi rất hạnh
phúc”. Nhưng cuối cùng ngôi nhà này cũng trả lại cho công ty và nó chỉ để cho quý vị ở tạm, đó có phải là “diệc phục như thị” không? Quý vị có hài lòng với trí tưởng tượng và cảm xúc của mình lúc đó không? Chính phủ Úc đặc biệt phân bổ rất nhiều nhà cho người già ở suốt đời nhưng ngôi nhà này không phải của họ, khi họ qua đời, chính phủ sẽ lấy lại ngôi nhà này. Chẳng phải đây chỉ là “diệc phục như thị” thôi sao? Lúc đó quý vị cảm thấy “Tôi có một ngôi nhà và tôi có thể sống ở đó mãi mãi”, nhưng cuối cùng ngôi nhà này có phải là của quý vị không? Nó đã sớm nói với quý vị là “diệc phục như thị” – tức là như thế đó, nó không phải của quý vị và cuối cùng nó cũng không phải của quý vị, quý vị không thể có được nó.
Trong “Tâm Kinh”, cho rằng luyến lưu thế sự (luyến có nghĩa là hoài niệm, “Tôi yêu thứ này để chiếm đoạt nó”) thực chất là tình yêu trống rỗng. “Hôm nay tôi hoài niệm, nơi này đẹp quá”. Tuy nhiên yêu càng về sau, mọi thứ đều là trống rỗng, gọi là “Luyến Không”, thực ra không có gì khác biệt. Chúng ta nhớ lại những tiếng cười hồn nhiên, niềm hạnh phúc như trẻ thơ, sự trưởng thành vô tư, cuộc sống không có áp lực của tuổi thơ, hoài niệm về nó, chúng ta nhớ về tuổi thơ của mình, thực ra thứ chúng ta nhớ chính là Luyến Không, vì cuối cùng chẳng có gì cả. Nếu quý vị chấp vào nó, không buông nó thì cuối cùng sẽ đánh mất nó, đó chính là “Sắc tức thị Không”, cuối cùng sẽ gây ra rất nhiều phiền não trong tâm mình, vì quý vị không thể có được nó. Vì vậy, kinh Phật nói rằng mọi sự vật, hiện tượng có thể nhìn thấy được hoặc không thể nhìn thấy được, thực chất chỉ là ảo ảnh do sự phù phiếm của cuộc sống chúng ta gây ra. Nói cách khác, thứ quý vị thích hôm nay chính là ảo ảnh của quý vị và thứ mà quý vị hoài niệm hôm nay cũng chính là ảo ảnh của quý vị, bởi vì nó chỉ là tạm thời được sở hữu, tạm thời hiển thị cho quý vị nhìn thấy và tạm thời cho quý vị nghe được những bản nhạc tuyệt vời. Giống như một người đang tham dự một buổi hòa nhạc, người này đặc biệt bị cuốn hút bởi âm nhạc hoặc ca sĩ, sau khi buổi hòa nhạc kết thúc ra về, mọi thứ đều trống rỗng, sân bãi đã rỗng không, các diễn viên cũng không còn, tất cả người hâm mộ đều đi hết. Họ vẫn còn nán lại ở đó, không muốn rời đi, cuối cùng nó được gọi là Chấp Không, gọi là Luyến Không. Tâm Kinh nói rằng “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Mọi tưởng tượng và mọi nhận biết của quý vị cuối cùng sẽ “diệc phục như thị” – tức là đều là như thế đó, và cuối cùng tất cả sẽ trống rỗng. Tâm Kinh thật tuyệt vời.
52. Kiến - Tu - Hành là chìa khóa của chứng ngộ
Tập 52
KIẾN – TU – HÀNH LÀ CHÌA KHÓA CỦA SỰ CHỨNG NGỘ
(25/04/2020)
Thầy dạy mọi người rằng chúng ta không nên để đầu óc thường xuyên có những suy nghĩ viển vông, ảo giác, bởi vì những thứ đó là trống rỗng, nếu nghĩ đến chúng thì cuối cùng chúng cũng sẽ trống rỗng mà thôi. Khi quý vị tưởng tượng, thì không gian tưởng tượng này tạo ra một loại Sắc – có thể nhìn thấy và tưởng tượng ra được đó chính là một loại Sắc, và cuối cùng loại Sắc này là trống rỗng. Thực ra, “Sắc tức thị Không” cho chúng ta biết rằng mọi hiện tượng mà chúng ta thấy và nhận biết, cũng như nhiều đau khổ và phiền não trên thế gian này, thực ra đều do ảo tưởng gây ra. Kinh Phật dạy chúng ta rằng: Đau khổ là tạm thời và sẽ quên theo thời gian; hạnh phúc cũng là tạm thời và sau nhiều năm, nó là ảo ảnh và cũng không còn nữa. Hết thảy “Sắc tức thị Không”, Không càng về sau sẽ xuất hiện một đời sống huyễn ảo, đây là điểm chung. Điểm chung là từ hiện hữu đến hư vô, từ hư vô đến hiện hữu, tức là “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Thực ra, ở đây chính là mối quan hệ giữa nhân duyên và quả báo, điều này cho chúng ta hiểu rằng mọi thứ trên thế gian này đều là do duyên phận mà tồn tại, nhân quả nhất định sẽ có báo ứng, thiện ác đều có tính tuần hoàn. Nhiều người thường hỏi: “Kiếp trước tôi đã làm gì?” Đừng hỏi Thầy, kinh Phật xưa kia đã dạy: Yếu tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị (Muốn biết cái nhân về kiếp trước của ai thế nào? Cứ nhìn vào sự hưởng thụ kiếp này của người ấy khắc biết). Hôm nay quý vị có cuộc sống rất tốt, vô lo vô nghĩ, không đau khổ nhiều, chắc chắn kiếp trước quý vị đã tích phúc tích đức. Nhiều người đến hỏi Thầy: “Thưa Sư phụ, kiếp sau con sẽ gặp quả báo gì? Con có thể lên trời được không? Con có thể tái sinh vào gia đình khá giả không? Con sẽ không trở thành ngạ quỷ phải không?” Kinh Phật nói: Yếu tri hậu thế quả, kim sinh tác giả thị (Muốn biết cái quả kiếp sau của ai thế nào? Cứ xem ngay việc làm ở kiếp này của người ấy khắc biết). Đời này quý vị đang làm việc thiện chắc chắn sẽ được thiện báo – ba cõi thiện: cõi trời, cõi A-tu-la, cõi người đều thuộc về ba cõi thiện, nếu đời này quý vị không chăm chỉ làm việc thiện, mà làm điều ác, vậy thì địa ngục đang chờ đón quý vị, cõi ngạ quỷ đang chờ đón quý vị, cõi súc sinh đang chờ đón quý vị. Vậy quý vị có còn muốn hỏi người khác nữa không? Hãy tự hỏi chính bản thân mình là đã rõ.
“Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc” là cơ sở để thuyết phục con người làm điều thiện. “Đừng cố chấp nữa. Không sao cả. Bạn phải buông bỏ nó. Nếu bạn có được thứ này, sau này nó cũng sẽ không còn nữa” – Thuyết phục người ta hướng thiện phải vậy không? Nhiều người khi quý vị khuyên, họ không nghe
đâu: “Nhà tôi rất giàu có, tôi khấu đầu để làm gì? Tôi có tiền, tôi nổi tiếng, tôi có danh, tôi có lợi, tôi không thiếu thốn gì nên tôi không cần phải lạy”. Khi đó quý vị hãy nói với họ: “Nó là vô thường, mọi thứ trên thế gian này cuối cùng đều trống rỗng, Sắc tức thị Không”. Khi đó, họ biết rằng cuối cùng một ngày nào đó sẽ không có gì và mất đi tất cả, vì vậy họ sẽ có đủ kiên nhẫn để tinh tấn học Phật.
Điều tiếp theo sẽ nói với mọi người đó là từ kinh điển Phật giáo. Học Phật đòi hỏi phải kiến giải, tu chứng và hành nguyện, cương lĩnh của việc học Phật đã được đưa ra là một thể ba ngôi “Kiến-Tu-Hành”. “Kiến” là cái thấy, kiến giải của quý vị; “Tu” là tu chứng, chứng được sau khi trau dồi tâm thức, là đã minh bạch rồi; “Hành” là thực hành những lời nguyện, là hành vi của quý vị. Nếu quý vị đọc tất cả kinh điển theo ba nguyên tắc chỉ đạo này, thì quý vị sẽ dần dần hiểu được ý nghĩa và nội hàm chân lý của kinh điển.
Học Phật cần phải có công phu, công phu có nghĩa là nỗ lực chăm chỉ và tinh tấn. Học phải dụng công và dụng công phải đúng cách, nếu dụng công không đúng cách vậy thì đã dụng sai công rồi. Nhiều người học không có thầy, tự mình tu tập một cách mù quáng, cuối cùng kiến giải lại không đúng — Những quan điểm, hiểu biết về học Phật và cuộc sống đều sai lầm. Cái thấy của họ sai thì cái lý sẽ sai và không phải là lý luận đúng rồi. Nhiều người học Phật học càng về sau dồn ép người khác: “Học Phật không được như vậy, phải làm như vầy…” Quan điểm của họ là sai lầm. Những quan điểm sai lầm sẽ dẫn đến những sai lệch về sự vật và con người.
Nếu quan điểm đã sai, thì hành nguyện sẽ không thực hiện được và sẽ không hành nguyện nữa. Hành nguyện là gì? Là có nguyện lực phải thực hành, phải làm nó. Không hành nguyện thì làm sao công đức viên mãn được đây? Chúng ta thường nói với mọi người rằng “công đức viên mãn”, công đức phải viên mãn và đầy đủ, phải hiểu được viên mãn. Tại sao có lúc sự kiến giải của quý vị không đến nơi đến chốn? Tại sao sự kiến giải đó lại có sai lệch, không trọn vẹn? Bởi vì quý vị chưa thể tu đến chứng đắc, cũng chưa thể tu tâm đến chứng đạo. Chưa thể chứng đạo nghĩa là gì? Tu tâm không đến nơi đến chốn. Ví dụ, hôm nay trong năm giới quý vị giữ hai giới, thì có được xem là đến nơi đến chốn không? Quý vị nói: “Tôi không sát sinh, tôi không trộm cắp”. Quý vị đã giữ hai trong năm giới, điều đó là tốt. Nhưng quý vị lại nói dối, uống rượu và lại tà dâm, vậy nói xem quý vị có phải là người tốt không? Nếu quý vị giữ không đến nơi đến chốn, thì có thể đạt được sự viên mãn không? Nếu trí tuệ của quý vị
không đủ viên mãn, thì thực hành nguyện lực của quý vị sẽ không đủ viên mãn, và nguyện lực vĩnh viễn sẽ không bao giờ viên mãn. Khi quý vị hành nguyện với Bồ Tát và nói: “Bồ Tát, con nhất định như thế này”, điều đó không viên mãn. Năm giới là năm giới, tám giới là tám giới, hôm nay tôi có thể giữ được bao nhiêu giới, cần giữ như thế nào thì phải giữ như thế nấy. Nếu tôi có nguyện lực làm người không nói dối thì tôi không thể nói dối thêm lần nào nữa, đó gọi là giữ giới. Nếu nguyện lực không viên mãn và hành nguyện không đến nơi đến chốn thì công đức chắc chắn sẽ không viên mãn; nếu công đức không đủ viên mãn thì sẽ có vấn đề về kiến giải và tu chứng. Có phải kiến giải của những người có công đức không viên mãn là sai lầm chăng? Năng lực hiểu biết về Phật Pháp trong quá trình tu tâm chứng đắc nhất định sẽ xuất hiện vấn đề, bởi vì cả 3 điều trên là 1 thể đồng nhất của nhau. Vì vậy, nếu hành vi và nguyện lực không đến nơi đến chốn thì sẽ có vấn đề về kiến giải và tu tập. Sư Phụ đưa ra một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị làm phụng sự viên, “Ồ, tôi làm phụng sự viên rồi, tôi làm một chút việc tốt rồi thấy không”. Quý vị có nghĩ rằng mình có thể đạt được công đức viên mãn không? Hôm nay quý vị làm phụng sự viên, thì phải vì chúng sinh một cách chân thật, trực ở đó phải đứng ra tướng đứng, ngồi ra tướng ngồi đàng hoàng thì chúng ta mới bảo vệ được Phật Pháp vĩ đại của mình như một vị thần Hộ Pháp. Đây là điều mà Sư phụ muốn dặn dò mọi người, hãy đặc biệt cẩn thận với “tam vị nhất thể”.
Thực ra, điều khó nhất trong việc học Phật là tâm từ bi, vì không phải ai cũng dễ có tâm từ bi, ai cũng đã từng nói “Tôi phải từ bi với bạn”, khi cãi nhau rồi, thì có tâm tư bi nữa không? Không sẵn lòng giúp đỡ người khác thì quý vị có tâm từ bi không? Khi nguyện lực chưa đủ viên mãn thì có được tâm từ bi không? Do đó, quý vị phải thực sự phát khởi tâm thực hành nguyện lực, thì quý vị sẽ có được tâm từ bi. “Tôi có nguyện lực này, tôi phải thực hiện, tôi muốn làm người tốt, từ nay trở đi tôi sẽ học Chánh đẳng Chánh giác của Bồ Tát, về sau tôi mới có thể trở thành Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Quý vị nhất định phải có nguyện lực này. Nếu quý vị cứ nói: “Tôi muốn giúp đỡ người khác, tôi muốn từ bi với người khác, và tôi muốn cứu độ người khác”, quý vị cứ nói như vậy, trong khi ngày nào cũng ngủ nướng không muốn thức dậy tụng kinh. Một ngày quý vị có thể tụng bao nhiêu tờ Ngôi Nhà Nhỏ? Một ngày quý vị có thể tụng bao nhiêu biến kinh? Chớ đừng nói đến việc giúp đỡ người khác. Để giúp được người khác phải hy sinh tất cả, phải hy sinh thời gian quý báu của mình, phải như vậy không? Phải cho đi tâm từ bi của mình, phải như vậy không? Phải hy sinh rất nhiều thời gian nghỉ ngơi, thời gian vui chơi của mình, hay cuộc sống thoải mái mà bản thân có được, tất cả những thứ đó phải bị phá vỡ thì mới có
được nguyện lực. Vì vậy, đôi khi nói thì dễ nhưng làm lại khó. Nếu đơn thuần chỉ nói đến việc tu tập thì cũng vô ích, phải có cái tâm công đức và lập tâm công đức trong lời nguyện của mình, “Hôm nay tôi thực hành điều nguyện điều này, thì tôi nhất định phải làm công đức và phải đối xử với chúng sinh tốt”. Bằng không, quý vị sẽ không có cách nào hoàn thành được lời nguyện này, khi đó không có cái Công này, cũng không có cái Đức này.
Phật giáo tại thế gian, trên thực tế là để dạy cho chúng ta: con người cần phải kiến giải. Thế nào là kiến giải? Là nhìn thấy sự thật và hiểu sự thật của thế giới này, chính là đang hành nguyện. Khi quý vị có thể hiểu được mọi điều thiện và điều ác trên thế gian này, là quý vị đang thực hành thệ nguyện của mình. Thế giới này là thế giới ngũ trược ác thế, ngũ trược gồm có phiền não trược, kiến trược, mệnh trược v.v.. rất khó vượt qua. Trong thế giới ngũ trược ác thế này quý vị hành bố thí như thế nào? Nếu quý vị làm điều thiện trong thời Mạt Pháp thì mọi người sẽ cười nhạo quý vị: “Sao bạn ngốc thế? Cậu ấy không tự mình làm được việc đó sao? Tại sao bạn lại đi giúp cậu ta?” Có rất nhiều sự phản kháng. “Tại sao bạn phải đối xử tốt với cậu ta? Cậu ấy không thân không thích gì với bạn tại sao bạn lại như vậy? Bạn không phải là đại ngốc chứ?” Đây chính là ngũ trược ác thế, bởi vì lý niệm của con người đều trái ngược. Thời bây giờ ai mà sẵn sàng giúp đỡ người khác? Nếu không có lợi ích, sẽ không giúp đỡ người khác, nếu chưa nhận được lợi ích, sẽ càng không mở lòng giúp đỡ người khác. Điều đó còn phụ thuộc vào việc nhận được bao nhiêu lợi ích. Nếu nhận được nhiều hơn, thì giúp đỡ; nếu nhận được ít hơn, nhận được rồi cũng có thể sẽ không giúp. Đây là lý niệm thời bây giờ. Vì thế chúng ta cần mọi người cúng dường công đức và lòng từ bi của mình. Trong ngũ trược ác thế này, giới luật khó mà giữ được, ai cũng sống trong tham, sân, si, mạn, nghi. Ở thế giới này, chúng ta muốn truyền bá Phật Pháp thật là thống khổ, mọi người đều dùng mánh khóe và sống vì tư lợi, làm sao chúng ta có thể tự độ mình, còn phải độ người ở thế gian này đây? Thế nên phải có công đức viên mãn.
Kỳ thực, đây là “Đệ nhị nghĩa” trong kinh Phật, xét từ góc độ siêu hình, tức là xét từ quan điểm hình thức, không có sự phân biệt giữa thế gian và phi thế gian. Nhiều người nói, dù quý vị tu pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, cũng có nghĩa là, dù quý vị đang tu nhân thiên phúc báo hay quý vị đang tu con đường lên thiên trong tương lai, thì thực tế đều giống nhau. Hôm nay ở nhân gian quý vị làm việc thiện thì nhất định sẽ được lên thiên giới, cũng sẽ có được nhân thiên phúc báo. Nếu hôm nay ở nhân gian quý vị không làm việc thiện và quý vị nói: “Tôi nhất định sẽ lên thiên thượng khi tôi rời khỏi thế gian này”, vậy quý vị
lên thiên thượng bằng cách nào? Nếu quý vị không muốn làm điều tốt ở nhân gian, thì làm sao quý vị có thể lên được thiên thượng để trở thành Bồ Tát hay Phật? Thậm chí quý vị cũng không thể lên được đến cõi A-tu-la.
Trong “Kinh Lục Tổ Đàn” nói: “Phật Pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”, chính là để dạy cho chúng ta rằng Phật Pháp luôn ở quanh ta, nó không rời khỏi chúng ta, ta phải giác ngộ ngay trong thế gian này và không thể tìm kiếm sự giác ngộ nếu chúng ta rời khỏi thế gian này được. Chỉ khi đau khổ mới muốn xuất ly; khi một người đang rất an nhàn, làm sao người đó có thể nghĩ đến việc tìm kiếm sự giải thoát? Nếu hôm nay không bị xiềng xích trói buộc, thì làm sao có thể nghĩ đến việc cởi xiềng xích? Vậy nếu không có nỗi đau, quý vị không biết hạnh phúc là gì và ý nghĩa của nó ra sao. Nếu không có phiền não, làm sao quý vị biết thế nào là thanh tịnh và thế nào là bình yên? Ngày xưa chúng ta có biết bao phiền não, bây giờ yên tĩnh hơn một chút rồi đúng không? Bởi vì quý vị biết phiền não là gì, nên mới biết tạo nên yên tĩnh. Tâm quý vị tĩnh lặng và bình an, tuy trước đây quý vị gặp phiền não nhưng bây giờ quý vị đã trở nên bình yên và tĩnh lặng, điều này có nghĩa là “Phiền não tức Bồ-đề” rồi, bởi vì bây giờ quý vị đã có được Bồ-đề tâm nên quý vị đã tịnh lại được.
“Ly thế mịch Bồ Đề”. Nếu quý vị thực sự muốn thoát ra khỏi thế gian này để tìm trí tuệ Bồ Tát, quý vị phải biết rằng đó là đã thoát ra khỏi Tam giới và không còn trong Ngũ hành. Bản thân đã ở trong cõi Phật, cõi Bồ Tát, cõi Thanh Văn, và cõi Duyên Giác, đều đã giác ngộ ở thiên thượng, thân đã ở trong Bồ-đề, không cầu Bồ-đề, vì đã là Bồ-đề. Và chính vì chúng ta còn ở trong nhân gian, vì vậy chúng ta phải biết cách đạt được sự giác ngộ mà không cần thoát khỏi thế gian này. Rời khỏi thế gian này để tìm Bồ-đề thì làm sao quý vị có thể đạt được sự giác ngộ? Phật giáo Đại thừa nói rằng “Phật pháp tại thế gian”, nhưng thực ra nó ám chỉ đến “Hành Môn”. Dù chúng ta thiền định, tu tâm, tụng kinh hay phóng sinh, đó cũng chỉ là một trong những cửa thực hành – một phần vạn hay một nghìn phần trăm, hãy thực hành và tu sửa. Thực ra, nếu lấy đạo Phật để làm người, làm việc là đang thực hành “cửa” của đạo Phật. Hiện nay chúng ta có “Pháp Môn Tâm Linh”, cái “Pháp” này là pháp của Phật, trong tâm linh có Pháp của Phật, “Cánh cửa” này chưa rời khỏi thế gian, là để giảng dạy Phật Pháp ở nhân gian để mở ra cánh cửa này và để mọi người bước vào con đường Phật môn tốt nhất của Phật giáo. Nhất thiết không được nghĩ rằng sau khi chúng ta xuất thế và rời khỏi thế giới này mới có được Phật pháp, thực ra chúng ta ở thế gian này là đã không thể rời khỏi được Phật pháp của thế gian này rồi, bởi vì chỉ có ở thế gian này chúng ta mới có thể tìm được Phật pháp chân chính.
Hy vọng rằng một mặt quý vị có thể tu Đạo, mặt khác quý vị nên ngẫm nghĩ về tất cả những công danh phú quý, tửu sắc tài khí, quý vị có được chúng thì có ích gì? Quý vị đã từng sở hữu nó thì có ích gì? Nếu hôm nay quý vị vẫn không buông bỏ được thì quý vị đang mắc một sai lầm lớn. Vì thế Sư Phụ nói với mọi người rằng hãy cố gắng khi bản thân có được Phật Pháp ở cõi nhân gian này, nếu muốn sau này tu Pháp xuất thế và có thể thành công sau khi rời khỏi thế gian này thì quý vị phải bắt đầu từ chính bản thân mình và từ bây giờ trở đi, ở nhân gian, ở trong thế giới hiện tại này quý vị hãy cố gắng mà “Hành môn” — nghĩa là hãy thực hành Phật pháp, thực hành tốt Phật môn vĩ đại này.
53. Tĩnh, Định là chiếu kiến
Tập 53
TĨNH ĐỊNH LÀ CHIẾU KIẾN
(25/04/2020)
“Hành nguyện” chữ “Hành” thực chất chỉ cái thấy chân chính, nói cách khác cái thấy chân chính để lý giải Phật Pháp chính là kiến giải. Nếu quý vị không làm được thì kiến giải của quý vị sẽ trở nên vô dụng. Nếu ngày nay quý vị hiểu được đạo Phật, thì phải thực sự thực hành. Một người rất có tài hùng biện và hiểu biết Phật Pháp, nhưng lại không hành động như một vị Phật và không làm những việc Phật Pháp. Vì vậy, chúng ta phải đạt được “hành” mới có thể nói đến tâm từ bi chân chính. Từ bi có nghĩa là vô ngã, khi quý vị có thể từ bi với người khác, cảm thấy người khác đáng thương, cảm thấy người khác đang rất cần sự giúp đỡ của quý vị, thì quý vị chính là vô ngã rồi, vì quý vị đã nghĩ đến người khác rồi.
Khi chúng ta nói về lòng từ bi, đó không phải là một cái “tình” mà là một loại trí tuệ. Sở dĩ hôm nay quý vị có thể từ bi với người khác không phải là để nói: “Anh ấy có mối quan hệ tốt với tôi, tôi muốn giúp đỡ anh ấy”, mà bởi vì quý vị có trí tuệ: “Anh ấy là chúng sinh, tôi có công đức, tôi muốn hoàn thành tâm nguyện của mình và giúp anh ta được giải thoát”. Vì vậy, từ bi của Phật giáo Đại thừa là trí tuệ, Bát nhã cũng là từ bi, Trí tuệ Bát nhã của Quán Thế Âm Bồ Tát – đại trí đại tuệ chính là đại từ đại bi. Vì từ bi, nên sẽ có vô ngã và quý vị mới có thể có được lòng từ bi thực sự. Hơn nữa có một số người ở nhân gian thường nói “Tôi muốn từ bi bạn”, chỉ cần quý vị nghĩ đến “Tôi muốn thương xót bạn” thì quý vị liền rơi vào hạ thừa, tức là Tiểu thừa. Không phải quý vị từ bi với người khác mà là bổn nguyện của chính quý vị, là thực hành nguyện lực của chính mình, là Tâm Bồ-đề của Bồ Tát xuất phát từ trái tim của quý vị khiến quý vị có thể từ bi với người khác, điều này thật cao quý. Cũng như cha mẹ yêu thương con cái, đó không gọi là từ bi mà gọi là lòng nhân từ. Tình mẫu tử là vô giá, tình thương của mẹ đối với con mình là vô giá. Nhưng tình thương yêu này đến từ bậc làm cha mẹ mà chúng ta có thể cảm nhận được, chất chứa tình cảm trong đó. Khi có tình, thì sẽ mang theo ngã tướng, nên người ta gọi là “Tôi tình, tôi nguyện”, “tình nguyện, tôi tình nguyện”, nhiều người nói “Tôi tình nguyện làm gì đó”. Quý vị có tình rồi, nguyện lực quý vị tạo ra là tình cảm cùng nguyện lực của nhân gian, xuất phát từ “Tôi yêu” mà ra. Lòng từ bi của Bồ Tát không phải là “Tôi tình nguyện”, mà là một loại trí tuệ, đó là một tình yêu thương vô ngã vô biên, một tình yêu thương vô bờ bến – nó vừa giống như có cái tôi, nhưng lại không phải có cái tôi; quý vị nói hoàn toàn không phải là tình yêu quý vị trao cho, nhưng nó lại xuất phát ra từ trái tim của quý vị. Nếu quý vị nói nó ở trong tim quý vị, thì tình yêu của Bồ Tát Thức A Ma La, thức thứ chín, có thuộc
về quý vị không? Nó không phải của quý vị. Vậy thì phi ái phi phi ái, phi ngã phi phi ngã (Không yêu nhưng cũng không phải không yêu. Vô ngã nhưng cũng không phải vô ngã). Đây là lý do tại sao việc thực hành Phật Pháp ngày càng trở nên nghiêm khắc hơn đối với cảnh giới riêng của mình. Cả hành nguyện và hành môn đều rất quan trọng. Hành môn có nghĩa là chúng ta tìm được hướng đi để thực hiện thệ nguyện của mình.
Nếu một người lúc nào cũng ở trạng thái tĩnh định – ở trạng thái an tĩnh và an định, thì phải luôn luôn kiểm điểm bản thân, phải biết người tu hành là gì và muốn trở thành loại người tu hành như thế nào, phải là người luôn nghiêm túc kiểm tra bản thân và là người luôn quán chiếu bản thân. Dựa vào người khác để mắt tới mình không phải là “Quán tự tại”, chỉ khi tự mình quan sát hành vi của chính mình xem nó có đúng hay không và quan sát xem hành vi của mình có phù hợp với bản chất của chính mình hay không thì quý vị mới có thể “Quán tự tại” được. Chỉ những người bất cứ lúc nào cũng có thể kiểm tra hành vi tâm lý và tư duy của mình, không ngừng điều chỉnh suy nghĩ và kiểm tra hành vi của mình, thì người đó mới là người tu hành. Trong tâm họ thường xuyên suy nghĩ: “Tôi làm như vậy có vi phạm lời dạy của Bồ Tát không? Tôi như vầy có giống Bồ Tát không?”
Đừng nghĩ rằng trên đời này có một cách để tu tâm, “Tôi nên dùng phương pháp nào, nên thiền bao nhiêu ngày?”… Nhiều người thường hỏi Sư phụ: “Thưa Thầy, con nên niệm bao nhiêu biến kinh thì bệnh này của con sẽ khỏi?” Sư phụ nói thật với quý vị, nếu quý vị niệm đến mức vô ngã thì sự việc này sẽ ổn thôi; một khi quý vị đã niệm nó một cách tự nhiên thì sự việc này sẽ ổn. Không thể nói sau khi uống bao nhiêu thuốc thì bệnh này sẽ khỏi, không có như thế, bởi vì thể chất của mỗi người là khác nhau, tố chất cơ thể của mỗi người là khác nhau, và khả năng chịu đựng năng lượng của bất cứ sự vật gì trên đời cũng khác nhau. Một số người nói: “Tôi thiền thì sẽ tốt thôi. Tôi thiền được ba năm, mười năm”. Dù quý vị thiền bao nhiêu năm, mở thông kinh lạc nào, hay trì tụng thần chú nào, thì quý vị vẫn chưa hành môn, chưa hiểu thế giới này, chưa thực sự buông xuống Phật Pháp, thì làm sao quý vị có thể giải thoát, làm sao trở nên vô ngã? Nhiều người thường nói: “Hãy nhìn người này, anh ấy đã tu tập rất tốt, tôi cũng muốn làm như vậy”, rồi dần dần tập thiền, dần dần “Tôi muốn mở thông kinh lạc”. Dần dần: “Tôi đã học được rất nhiều pháp của Phật”, rồi lấy đó đi ra ngoài nói chuyện này chuyện nọ, dần dần trở nên loạn thần kinh, một lát thì nói: “Ồ, Bồ Tát đến rồi”, một lát sau liền nói “Ồ, chuyện này như thế nào, như thế nào, rồi tôi có linh cảm”. Tại sao nhiều người học Phật học càng về sau lại bị rối loạn
tâm thần? Vì suốt ngày họ luôn tưởng mình là Bồ Tát, suốt ngày muốn làm Bồ Tát, trong khi đó họ không có căn cơ này, lại không thực hành tốt Pháp Môn này và không có chứng ngộ, nên cuối cùng họ bị vong linh nhập thân. Bởi vì vong linh sẽ cho họ bất cứ thứ gì họ thích và sau đó họ sẽ chấp nhận nó, ngay khi chấp nhận nó rồi, thì sẽ giống như nó. Lấy một ví dụ đơn giản, tại sao những kẻ lừa đảo luôn thành công? Bởi vì kẻ lừa đảo biết quý vị muốn làm gì và chúng sẽ nói với quý vị rằng: “Chỉ cần bạn làm được điều này, tôi bảo đảm rằng yêu cầu của bạn sẽ được đáp ứng”. Cho nên quý vị mới bị lừa. Nếu quý vị muốn kiếm tiền, bọn chúng sẽ nói với quý vị: “Sau khi bạn đưa ra số vốn này, tôi có thể giúp bạn kiếm nhiều tiền hơn”. Cuối cùng, số tiền này của quý vị sẽ bị mất, vì vậy quý vị sẽ bị ô nhiễm, thời gian lâu dần sẽ không bình thường, và tâm trí của quý vị sẽ không còn được tỉnh táo.
Nhiều người bị loạn thần kinh và suốt ngày nói người khác là “bạn bị bệnh” hay “người đó bị bệnh”. Quý vị đi mà xem, người hay nói người khác bị bệnh chắc chắn họ có vấn đề gì đó. Khi Sư phụ khai thị thường bảo, quý vị bây giờ cộng tu nên nói nhiều hơn về tật xấu của chính mình và đừng nói về tật xấu của người khác, bởi vì quý vị còn chưa tự độ được mình thì làm sao có thể độ được người khác? Khi quý vị nói về tật xấu của người khác thì chắc chắn bản thân quý vị có tật xấu, bằng không thì làm sao quý vị có thể nói ra được vấn đề của người khác? Chính là vấn đề của quý vị.
Cho nên phải nghiêm khắc tự mình tu hành, nghiêm khắc phản tỉnh chính mình, kiểm tra chính mình, quán chiếu tu vi (tu tập tạo tác) của chính mình, thì quý vị mới có thể thoát ly. Quý vị cho rằng ngồi ở đó đả đả tọa, niệm niệm kinh, phóng phóng sinh là có thể thành công sao? Không thể. Phải có ngộ tánh, phải giác ngộ, cho nên chữ “Phật” trong tiếng Phạn chính là giác giả. Chúng ta cũng không phải dựa vào thiền tọa, cũng không phải dựa vào phóng sinh, phát nguyện, niệm kinh, mà đó là toàn bộ hợp lại một, sau đó căn cứ vào bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ Bát Nhã, sáu Ba-la-mật của mình, tất cả tập trung lại với nhau, thì mới có thể thành công. Giống như năm giác quan của một người, chỉ có mắt quý vị có thể sống được không? Mũi không ngửi được mùi, miệng không nói được thì phải làm sao? Chỉ đơn thuần biết nói, mắt không nhìn thấy được thì có được không? Sư phụ từng nghe qua một tướng thanh, nói ngũ quan đánh nhau, năm huynh đệ ai nấy đều không nể mặt lẫn nhau. Tai nói: Ta không nghe được, các ngươi có thể làm được gì? Mắt nói: Mắt ta làm cho các ngươi không thấy, các ngươi nghe được cũng vô ích. Miệng nói: Ta không ăn, các ngươi sẽ chết đói; ta không nói, không ai hiểu các ngươi. Cãi
nhau dữ dội, chỉ có mũi là không nói. Bốn anh em liền hỏi cái mũi: “Tại sao anh không nói chuyện, anh nói vài câu cho chúng em nghe được không?” cái mũi liền nói: “Kỳ thực các em nói nhiều như vậy đều vô dụng, là ta quan trọng nhất, bởi vì mũi ta không thông khí, tất cả các em đều chết”. Một người tu hành cũng như vậy, dựa vào nỗ lực của mọi người, dựa vào tất cả Phật tánh, nhân tố, nền tảng học Phật trên thân quý vị v.v., mới có thể thành tựu công đức Bảo Sơn của mình. Rất nhiều người niệm cả buổi, học cả buổi, nhưng công đức không trở thành “Bảo Sơn”. Chúng ta phải có một loại tâm từ bi, hơn nữa loại từ bi này tu đến một mức độ nhất định, phải thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ. “Tam đồ khổ” mọi người đều biết rồi, “thượng báo tứ trọng ân” chính là nhắc nhở chúng ta mỗi ngày phải làm công đức. Người học Phật chúng ta tùy thời tùy chỗ đều phải kiểm tra chính mình, hôm nay có từ bi chưa? Thượng báo tứ trọng ân chưa? Tứ trọng ân, ân của Phật mọi người đã báo chưa? Ân của cha mẹ, sư trưởng mọi người đã báo chưa? Ân tổ quốc mọi người đã báo chưa? Ân tình của chúng sinh mọi người đã báo chưa? Khi quý vị sinh ra, bác sĩ đỡ sinh cho quý vị chính là ân chúng sinh. Rất nhiều người nói: “Chúng sinh đối với chúng ta có ân gì?” Quý vị sống trên thế giới này, không thể nào một người có thể trưởng thành được, dựa vào sự giúp đỡ của chúng sinh đối với chúng ta thì mới có thể trưởng thành. Cho dù một mình quý vị lập nên thành tích, thì cũng là mọi người cùng nhau. Cho nên tại sao mỗi vị Bồ Tát, mỗi vị Phật thành công đều dựa vào rất nhiều rất nhiều chúng sinh, trong đó còn có cả Thần Hộ Pháp và Long Thiên Hộ Pháp, chính là cái đạo lý này. Cho nên chúng ta phải hiểu được, sống một ngày, phải tri ân người khác một ngày, bởi vì phải làm phiền rất nhiều người cung cấp sinh mệnh, sự vật cùng rất nhiều trợ giúp cho chúng ta.
Kinh Phật Tam Tạng mười hai bộ đều đang giảng hành nguyện. Một người không “hành”, có được không? Một người không có nguyện lực, có được không? Sáu độ vạn hành, ba mươi bảy đạo phẩm (thầy đã từng dạy cho pháp sư), học Phật cơ bản đều ở trong đó. Hiểu rõ nhân quả ba đời, hiểu được sáu cõi luân hồi, chính là cái đạo lý này. Từ từ hoàn thiện bản thân về mặt tinh thần và hành vi, dần dần quý vị sẽ nhìn nhận mọi việc một cách tự nhiên, tức là lý giải của quý vị đối với sự vật, lý giải đối với Phật Pháp sẽ càng ngày càng tiến bộ. Chúng ta nhất định phải chứng ngộ mới có thể chứng quả. Hành vi tâm lý của mỗi người phải thay đổi, sau khi học Phật, nhiều người đã thay đổi như ngồi thiền, niệm kinh, phóng sinh, phát nguyện, chỉ cần điều chỉnh tâm hành một ngày thì định lực sẽ theo đó tiến bộ một ngày. Chỉ cần quý vị có nguyện lực “Tôi muốn thay đổi”, thì quý vị sẽ thay đổi được mỗi ngày.
Làm sao có thể định lại được? Làm sao chúng ta có thể theo đuổi và tu tập tâm mình từ góc độ tâm thức? Nếu như quý vị chỉ đả đả tọa, niệm niệm kinh, phóng phóng sinh, đi phóng sinh suốt đoạn đường cười nói hả hê, không tranh thủ niệm kinh, hôm nay có khả năng phóng sinh cả xe chỉ là hình thức, mà không thay đổi được bản thân mình. Nhiều người ngồi thiền lâu đến tê chân, trí tuệ vẫn chưa khai mở, thiên linh cũng chưa mở ra được. Vì vậy phải kiểm tra lại linh hồn và tinh thần của chính mình, so với bất kỳ sự hiểu biết nào (ví dụ như hôm nay làm một việc gì đó muốn khai ngộ), thì đó là cảnh giới khác.
Sư phụ hôm nay nói với mọi người trọng điểm chính là ba đại cương yếu “Kiến địa-Tu chứng-Hành nguyện”. Cái “cương” này, hành nguyện là quan trọng nhất. Hôm nay nguyện lực đến rồi, quý vị phải thực hiện được. Sư phụ tin rằng tất cả các vị đang ngồi đây đều có nguyện lực đúng không? Các vị đã từng quỳ trước Bồ Tát phát nguyện rồi đúng không? Vậy đã “thực hành” chưa? Phải thực hành thệ nguyện. Chỉ khi quý vị thực hành rồi, thì cái thấy của quý vị mới có thể viên mãn. Bởi vì quý vị thực hành nó, quý vị sẽ hiểu được cái thấy chân thực (tức là kiến giải), Tu chứng của quý vị mới có thể đắc đạo chứng quả. Thời xưa người chứng quả rất nhiều, có thể đắc đạo chứng quả toàn bộ đều là do họ hành nguyện. Vì vậy, hy vọng rằng tất cả mọi người, những người học Phật, hãy thực hành cho tốt nguyện lực của mình, khi thực hành phải hạ công phu, thì cách thoát khỏi sáu cõi càng ngày càng gần.
Cuối cùng Đài trưởng kể cho mọi người nghe một câu chuyện. Ở nước Xá Vệ Ấn Độ cổ đại, có một người cha vô cùng vất vả, một mình nuôi dưỡng hai đứa con trai. Không ngờ tình cảm của hai anh em này vô cùng tồi tệ, từ nhỏ đã cãi nhau ầm ĩ, ai cũng không nhường nhau, mối oán kết vẫn luôn sâu đậm. Phụ thân nhắc nhở người anh phải yêu thương em trai của mình, người anh trai cãi lại và nói: “Cha xem cha thật thiên vị, cha chỉ yêu thương em ấy, cha không yêu thương con”. Phụ thân đành phải chuyển sang giáo dục người em: “Này con, con phải tôn trọng anh trai mình”. Không ngờ người em trai này nổi giận, nói với cha mình rằng: “Cha không rõ đúng sai, là anh trai bá đạo, làm sai trước”. Cứ như vậy, anh trách em không hiểu chuyện, em oán anh không nói đạo lý, hai anh em đều làm cho cha mình đau đầu và tổn thương thấu tim.
Từng ngày trôi qua, hai anh em này từng ngày lớn lên, mỗi ngày tranh giành đồ chơi, tranh đúng sai, sau khi lớn lên tranh điền sản, phân gia nghiệp. Phụ thân tuổi cao tự mình không khuyên răng được, dù biết cũng khuyên không được, quản không được, chỉ biết ở bên cạnh lặng lẽ rơi lệ, khẩn cầu kỳ tích có thể xuất
hiện, có thể có một thiện tri thức đến giáo hóa hai đứa con ngoan cố không thay đổi này.
Một ngày nọ, một người hàng xóm tốt bụng khuyên: “Hai anh em các anh cứ cãi nhau như vậy cũng không phải là biện pháp, chi cho bằng đến tìm quốc vương và xin quốc vương phân xử cho các anh”. Thế là hai anh em với vẻ mặt đầy oán giận, vì không muốn đối phương lớn tiếng dọa người (kẻ ác thường cáo trạng trước), bất chấp cái nắng như thiêu đốt, họ vẫn cố hết sức chạy đến hoàng cung, thậm chí vừa đi vừa chạy. Hai anh em dọc đường vì ai đúng ai sai, vừa đi về phía hoàng cung, vừa đối mắng lẫn nhau, tranh cãi không ngớt.
Đúng lúc hai người thở hổn hển, miệng khô và khát thì nhìn thấy Đức Phật tiến về phía bọn họ. Bọn họ không biết Đức Phật, nhìn thấy Sa Môn diện mạo trang nghiêm, chậm rãi an tường, bỗng nhiên trở nên nghiêm túc, hai người ngừng tranh cãi. Họ bị thu hút bởi uy đức toát ra từ khuôn mặt của Đức Phật nên xông tới hỏi thăm, đảnh lễ, thậm chí còn hỏi về danh hiệu của Đức Phật. (Pháp sư trang nghiêm được người sùng bái và tôn kính).
Đức Phật mỉm cười nhìn hai người có nhân duyên sâu đậm (vì ngay khi Đức Phật nhìn thấy hai anh em, liền biết nhân quả của hai người bọn họ), Ngài dùng giọng nói dịu dàng và ngọt ngào, ẩn dụ thiện xảo (khéo léo), nói ngay với họ những lỗi lầm của sự tức giận, tức là nói hai người các ngươi hận nhau như vậy, thì về sau sẽ có chuyện gì xấu xảy ra. Đức Phật liền trực tiếp giáo dục bọn họ: “Nếu hai người ôm ấp tâm tham, sân, hận trong lòng thì trong tâm hai người sẽ như hai con rắn độc và thú dữ, trái tim các vị sẽ bị chất độc độc hại ăn mòn. Không những công đức bên trong của các vị sẽ biến mất mà còn bị nọc độc rắn xâm hại”. Đức Phật sau đó lại khai triển các loại diệu pháp cho họ. (Hãy nhìn xem Đức Phật vĩ đại biết bao, thấy hai thanh niên trẻ tuổi, Ngài dừng lại khai thị cho họ trên đường. Cho nên chúng ta phải học tập từ sự vĩ đại của Đức Phật). Hai anh em lắng nghe lời Đức Phật giảng mãi, bị nói đến ngây ngẩn cả người, “Ồ, có lý”, trí tuệ mở ra, phiền não tiêu trừ, lập tức chứng đắc quả vị A La Hán.
Rất nhiều người khi nghe Sư phụ kể chuyện xưa thường nghĩ: Người thời xưa sao lại dễ dàng chứng được quả vị A La Hán, Tu Đà Hoàn như vậy? Bọn họ làm sao dễ dàng có được quả vị như vậy? Người thời xưa tương đối đơn giản, đầu óc không phức tạp và xảo quyệt như người hiện đại, cho nên một khi nghĩ thông suốt, rất dễ dàng đạt được quả vị. Và hãy nhìn con người hiện đại chúng ta, dù quý vị có nói Phật Pháp với họ, họ cũng không tin. Cho dù quý vị có nói Chánh Pháp với họ, họ cũng không tin. Quý vị nói gì, họ đều không tin, thì họ có thể
đạt được quả vị gì? Hai anh em này sau khi về đến nhà, thành kính sám hối với phụ thân, hơn nữa còn nói ra nhân duyên đắc đạo của mình (đắc đạo chính là hoàn toàn triệt ngộ rồi, minh bạch rồi). Người cha già nghe xong vui mừng đến rơi nước mắt, gánh nặng trong lòng cuối cùng cũng được trút bỏ. Không lâu sau, người cha già mệnh chung xả báo và qua đời. Sau khi người cha qua đời, ông nghe tin hai người con của mình đều sống rất tốt, ông rất biết ơn Đức Phật, ngay khi ông biết ơn, những thiện niệm về lòng biết ơn và Pháp hỷ của ông đã bay lên trời. (Cho nên khi ra đi, việc trì ân là rất quan trọng, sẽ được sinh lên trời. Thay vì giống như quý vị bây giờ, người khác dẫn quý vị gặp được Phật Pháp, vẫn còn trái một cái không hài lòng, phải một cái không hài lòng. Phải biết ơn). Ông vì thiện niệm nên được sinh lên trời, để tỏ lòng biết ơn ân huệ của Đức Phật, ông đến trước Đức Phật đảnh lễ cúng dường, Đức Phật ở thiên thượng đã thuyết pháp cho ông và ông ngay lập tức chứng đắc quả Tu Đà Hoàn.
Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng ai cũng có nhân quả, việc không hiểu nhân quả không có nghĩa là không có nhân quả. Những ồn ào, đố kỵ, phiền não giữa con người với nhau đều là có nhân có quả, chúng sinh kết thiện duyên, ác duyên sâu cạn đều có từ đời trước. Vì vậy, chúng ta phải đem nó dung nhập vào trong biển rộng của Phật, hải nạp bách xuyên, có được tấm lòng rộng lớn, là có thể thiện hiểu ý người, là có thể hiểu được người khác, buông xuống sân hận trong lòng mình. Vì vậy, ở nhân gian, bất luận là thông gia hay oan gia, chúng ta đều phải giúp đỡ lẫn nhau, nâng đỡ lẫn nhau, tiếp dẫn lẫn nhau. Có đôi khi một Phật hữu nhắc nhở quý vị một câu, sẽ khiến quý vị rộng mở trong sáng. Rất nhiều người học Phật tự mình làm sai, trong u buồn, người khác thiện ý nhắc nhở một câu, có thể chính là Bồ Tát bảo họ đến nhắc nhở quý vị, quý vị sẽ chuyển ác niệm thành thiện niệm, chuyển ác duyên thành thiện duyên, hóa trần duyên thành pháp duyên, đây là chuyện học Phật có ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của chúng ta. Cho nên, trên con đường tu hành chúng ta phải gieo nhiều thiện duyên, mới có thể một kiếp tu thành. Quảng kết thiện duyên, đó là một loại trí tuệ. Chỉ có tình yêu của chúng sinh đối với quý vị, mới có thể tạo ra sức mạnh từ bi vô hạn của quý vị. Được rồi, đó là tất cả cho buổi thuyết giảng hôm nay về “Bạch Thoại Phật Pháp” với đại chúng. Cảm ơn đại chúng.
54. Buông bỏ cố chấp tìm kiếm bổn tánh
Tập 54
BUÔNG BỎ CỐ CHẤP TÌM KIẾM BỔN TÁNH
(29/04/2020)
Hôm nay Đài trưởng tiếp tục nói với mọi người về “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Tu tâm, trên thực tế điều quan trọng nhất cần trau dồi ở bản thân là gì? Chính là cố chấp. Tật xấu của con người chính là cố chấp, nếu như tu tâm không tu bỏ được chấp trước, vậy thì quý vị tu cái tâm gì? Cho nên học Phật nhất định phải biết cách tu bỏ cố chấp. Và khi nói đến việc tu tâm, bất kể là ở nhà hay ở đâu, quý vị cũng phải thực hành nó một cách nghiêm túc trong cuộc sống. Nhiều người cho rằng tu hành là ở nhà niệm niệm kinh, có người cho rằng đến chùa khấu khấu đầu lạy Phật, trên thực tế điều quan trọng nhất trong tu tâm là sống trong tu hành và tu tâm trong cuộc sống hàng ngày. Không phải chúng ta cả ngày ngồi thiền, khấu đầu, niệm kinh, lần hạt tràng Phật, rồi tu rất nhiều năm, mà kết quả tính xấu vẫn hoàn tính xấu, điều không thể sửa đổi vẫn không thể sửa đổi, bản thân thường xuyên chấp trước vẫn hoàn chấp trước, phiền não vẫn như cũ, tính cách vẫn như xưa, tâm thái vẫn vậy, quý vị không có bất kỳ thay đổi nào, thì quý vị làm sao có thể tu tâm tốt được đây? Đây không phải là thực sự tu hành. Chỉ cần chấp trước của quý vị còn tồn tại, thì quý vị vẫn chưa thực sự tu hành.
Người tu hành chân chính bất kể ở nơi nào, đều phải học được cách thay đổi. Môi trường làm việc hôm nay, quý vị cũng coi nó là một đạo tràng. Hôm nay quý vị ở nhà, quý vị coi nó như một “đàn thành” (Mandala). Cho dù quý vị làm nghề gì, cho dù quý vị làm công việc gì đi chăng nữa, thì tu tâm phải hòa nhập vào công việc của quý vị. Khi đối diện với hoàn cảnh, quý vị phải hiểu được mỗi một sự việc, mỗi một câu nói, đều đã và đang rèn luyện bản tính, tâm tính của mình, là đang rèn luyện bản thân, rèn luyện tâm hồn con người chúng ta và làm sao để chúng ta có thể định, làm thế nào để có thể bình tĩnh. Bất luận ngoại cảnh biến hóa như thế nào, thì trong lòng ta cũng không thay đổi. Hãy tận tâm, nghĩa vụ và trách nhiệm của bản thân, tận tâm tận lực làm tốt mọi việc ở nhân gian, gánh vác hết thảy, tập trung vào một chỗ. Để học Phật tu tâm quý vị phải toàn tâm toàn ý và kiểm soát tâm mình vào một chỗ. Làm tất cả mọi việc bằng tâm chính là đang tu hành. Quý vị coi những người bạn làm việc cùng như chúng sinh, như cha mẹ, anh chị em của mình, tất cả đều suy nghĩ vì lợi ích của họ, đối xử với mọi chúng sinh bằng trái tim chân thành, quan tâm đến họ, yêu thương họ, thấu hiểu họ và thông cảm cho họ, như thế quý vị mới có thể làm người thân của tất cả chúng sinh, mới có thể đi đến đâu tu đến đó, bất kể hoàn cảnh thay đổi như thế nào đi nữa, thì quý vị vẫn đang tu hành.
Chúng ta cống hiến cho xã hội này mà không đòi hỏi bất cứ sự đền đáp nào; Bất kể tu tâm như thế nào, tâm của chúng ta phải vô cùng vui vẻ. Tâm thái của người đi cứu người nhất định phải vui vẻ, thì sự nghiệp và công việc của họ sẽ thuận lợi. Không cần sợ gặp phải chướng ngại trái duyên, có lúc nguyện lực không mạnh, có lúc gặp phải rất nhiều phiền não hay thất nguyện, khi có chướng ngại như vậy sẽ bắt đầu không vui, liền nghĩ: “Ta học Phật tu tâm làm sao có nhiều phiền não như vậy?”, trên thực tế bất kỳ một phiền não nào xuất hiện, chính là tạo ra cho quý vị một cơ hội có thể đạt được Bồ-đề, bởi vì quý vị có thể dùng trí tuệ Bồ-đề để loại bỏ chướng ngại trong tâm mình, rèn luyện tâm tính và nâng cao trình độ của bản thân, dùng cảnh giới để tăng trưởng trí tuệ của chính mình.
Cuộc sống của chúng ta, trên thực tế quý vị phải xem nó là Tịnh Thổ. Ngày nay trong xã hội Tịnh Thổ này, môi trường chúng ta đang sống là nơi tĩnh lặng nên chúng ta mới không chấp trước. Chúng ta phải thanh lọc sạch tâm hồn và môi trường của mình, tựa như thế giới Tịnh Thổ, bố trí thanh tịnh trang nghiêm, không nói lung tung đủ loại chuyện cười, trang nghiêm chính mình, không nói đùa bừa bãi, không nói lời hạ lưu, không nghĩ lung tung những chuyện không tốt khác, thì dần dần sẽ có được sự thanh tịnh và trang nghiêm.
Có đôi khi đừng đố kỵ người khác làm được bao nhiêu, mà hãy nhìn xem bản thân mình đã làm được bao nhiêu. Nhẫn nhục chịu khó trong học Phật trên thực tế chính là một loại tu tâm, chính là một loại nghĩa vụ tinh tấn — giống như phụng sự viên, có đôi khi họ muốn lau đi bụi bặm, chính là muốn lau đi nghiệp chướng của mình. Rất nhiều người cả đời không biết cần phải lao động, cho nên tại sao ở rất nhiều chùa, khi quý vị đến đó, pháp sư đều bảo quý vị lau nhà cho thật tốt, lau bàn cho thật tốt, hiểu được vì sao phải thanh tịnh, vì sao phải sạch sẽ, bởi vì lau sạch bụi trần gian, đồng thời cũng lau sạch bụi bặm khỏi tâm hồn mình. Quét rác tức là quét sạch phiền não của quý vị, bởi vì phiền não ở trong tâm quý vị chính là rác rưởi.
Quý vị nên đối xử với gia đình và những người thân yêu của mình như chúng sinh. Quý vị nên đối xử với tất cả cha mẹ của chúng sinh, con cái chúng sinh, bao gồm cả Phật hữu mà quý vị cùng tu tập, như Kim Cương đạo hữu, họ đều là Bồ Tát tương lai. Quý vị quan tâm đến họ, sẽ nhận được sự gia trì của chư Bồ Tát. Quý vị chăm sóc họ, sẽ nhận được sự hộ trì của chư Thần Hộ Pháp. Quý vị tôn trọng họ, quý vị sẽ có được trí tuệ Bát Nhã. Quý vị không làm tổn thương
họ, quý vị sẽ nhận được sự tôn trọng của người khác. Quý vị không oán hận họ, thì quý vị chính là quảng kết thiện duyên.
Con người sống trên thế gian này đều có nhân duyên riêng của mình, mỗi người đều có phúc báo của riêng mình, quý vị chấp trước vào điều gì, thì điều đó sẽ làm tổn thương quý vị. Quý vị chấp trước rằng con mình nhất định phải học tốt, dần dần con học không tốt sẽ làm tổn thương quý vị. Quý vị chấp vào “Tôi nhất định phải kiếm nhiều tiền một chút”, cuối cùng nếu tiền không kiếm được, thì sẽ làm tổn thương tâm mình. Cho nên, quý vị chấp vào ai, thì người đó sẽ làm tổn thương tâm của quý vị. Chúng ta ở nhân gian không thể có được nhiều chuyện viên mãn như vậy. Hết thảy như mộng, huyễn, bọt, bóng. Như sương, như chớp loé, phải buông xuống tất cả vọng niệm, bởi vì những gì không nên nghĩ mà nghĩ đến, nó sẽ gây tổn thương cho chúng ta. Hãy buông bỏ, Sư phụ không bảo mọi người từ bỏ, việc nhân gian nên làm vẫn phải làm, không những phải làm, mà còn tận tâm làm cho tốt.
Cuộc sống giống như một vở kịch, ngay ngày đầu tiên quý vị sinh ra, vở kịch của quý vị đã bắt đầu mở màn, quý vị phải diễn tiếp, không thể không diễn, chỉ là trong quá trình quý vị diễn xuất, phải minh minh bạch bạch, phải tường tận rõ ràng: “Tôi đang diễn kịch”. Quý vị đã biết rằng cuộc đời mình sẽ kết thúc như một vở kịch, vậy thì quý vị không nên tin trên thế giới này vẫn còn rất nhiều thứ có thể bám víu vào mình. Quý vị vào vai vợ chồng trên sân khấu, quý vị vào vai con gái, con trai trên sân khấu, chỉ là quý vị đang diễn tốt vai diễn của mình, không được coi vở kịch giả là vở kịch thật mà diễn. Rất nhiều người cho rằng giả là thật, đến cuối cùng không thể buông tay được. Kỳ thật nhân gian không phải là quê nhà của chúng ta, nhà thực sự của chúng ta là ở thiên thượng – cùng sống chung với Bồ Tát ở trên trời, chúng ta ở nhân gian chẳng qua là khách qua đường vội vã đi qua, có gì mà cố chấp? Thử nghĩ xem, cả đời chúng ta cố chấp bao nhiêu sự việc? Từ nhỏ đến lớn, từ trường học cho đến xã hội, đến gia đình, cái tôi của chúng ta đã khiến chúng ta quan tâm đến mình như một người ích kỷ, giống như một linh tính không thể nhìn thấy ánh mặt trời.
Mỗi người chúng ta ít nói một câu, thế giới này sẽ có thêm một phần hòa bình. Mỗi người chúng ta khiêm nhường thêm một phần, chúng ta sẽ có thêm một phần cảnh giới từ bi. Mỗi người trong chúng ta như bầu trời rộng lớn, biết rằng đây là hư ảo, nếu quý vị chịu lùi một bước thì sẽ gây hại gì cho mình? Vì vậy, mọi việc không thể chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mà còn phải nghĩ đến người khác nhiều hơn. Quý vị thường chỉ nghĩ cho bản thân, nếu không loại bỏ
được tính ích kỷ, tự ái, tự lợi của mình, quý vị sẽ không thể sống trong hiện tại. Thử nghĩ xem, ai trong chúng ta thích một người rất ích kỷ? Ai thích một người không có lòng từ bi, không có tâm Bồ-đề, không có lòng khoan dung tha thứ cho người khác? Cho nên Sư phụ nói với mọi người, tu tâm chính là tu như lý như pháp, chân tâm thành ý mà làm, thì người khác tự nhiên sẽ tôn trọng quý vị, sự trang nghiêm của quý vị sẽ xuất hiện. Người thích quý vị chính là người có thể hiểu được quý vị. Có thể tha thứ cho người khác nhiều hơn, người khác sẽ cho quý vị nhiều yêu thương hơn, quý vị đối xử với người khác như thế nào, trên thực tế chính là để người khác đối xử với quý vị như thế nấy.Chúng ta không thể lúc nào cũng oán trời trách đất, không nên lúc nào cũng bới móc tật xấu của người khác, nhìn người khác không vừa mắt, không nên luôn muốn đi thay đổi người khác, phải điều chỉnh tốt tâm thái của mình, sửa tốt tâm của mình. Tất cả cảnh, nếu như đều tùy theo tâm của quý vị mà thay đổi, vậy thì quý vị có thể khống chế được hoàn cảnh này, cho nên Sư phụ bảo mọi người phải dùng tấm lòng rộng lớn để bao dung tất cả mọi thứ trong xã hội. Có đôi khi chúng ta sẽ nghĩ không thông, nhìn tất cả mọi người đều không tốt. Nhưng có lúc chúng ta lại nghĩ thông suốt, thấy tất cả mọi người đều là người tốt, thấy tất cả cảnh giới đều là cảnh giới tốt, như vậy tâm của quý vị liền hướng thiện mà thay đổi. Nếu như quý vị nhìn thấy trong xã hội mọi thứ đều không vừa mắt, nhìn không quen, thường xuyên đi rà soát khuyết điểm của người khác, mà không nhìn thấy khuyết điểm của mình, thì chắc chắn quý vị không thể loại bỏ được bản ngã và nhất định không buông xuống được chấp trước.
Tu hành chính là tu sửa chấp trước – bỏ đi chấp ngã, bằng không thì tu cái gì? Giữa tu tâm, đời sống và công việc, hết thảy đều không có mâu thuẫn gì với nhau, vì mỗi con người chúng ta đều có Phật tánh. Bởi chúng ta bước vào thế giới phàm trần với năm dục này, nên mỗi ngày chúng ta bôn ba khắp nơi để tìm kiếm cái tôi bị lãng quên và lạc lối, không biết sống trên thế gian này cái gì là quan trọng nhất, quý giá nhất. Chúng ta đánh mất và quên đi lương tâm của chính mình, chúng ta đối xử lợi hại với mọi người trong mọi việc mình làm, hoặc khi chúng ta chửi bới, ghen tị với họ, chúng ta mất đi bản chất và lương tâm nguyên thủy vốn có của mình – chúng ta không thể tìm thấy được nữa, hằng ngày chúng ta đi tìm những tham niệm, dục niệm dơ bẩn của ngũ dục lục trần trong xã hội, vị Phật chân chính ở trong tâm chúng ta nhưng chúng ta lại không tìm thấy. Nhất định phải có lòng tin, nhất định phải tìm kiếm bản chất từ trong tâm của mình – đó là Phật tánh nguyên thủy. Có được bao nhiêu tín tâm ở nhân gian, quý vị sẽ có được bấy nhiêu thành tựu. Hãy học Phật cho tốt, kiên trì tu tâm, quý vị sẽ được giải thoát một cách tốt đẹp. Người có thể thành Phật, trước
hết họ có lòng tin, sau đó mới có thể vượt qua được ngã tướng và ngã chấp của mình, dựa vào nỗ lực tinh tấn của mình để biết cách tìm kiếm Phật tánh trong cuộc sống, đó mới là người học Phật chân chính.
55. Nhữ tâm bổn tánh quán tự tại
Tập 55
NHỮ TÂM BỔN TÁNH QUÁN TỰ TẠI (QUÁN TỰ TẠI BỔN TÁNH CÓ TRONG TÂM MỖI QUÝ VỊ)
(29/04/2020)
Sư phụ nói với mọi người, con người chúng ta rất đáng thương, người bệnh suốt ngày muốn tìm lại sức khỏe, người thất nghiệp suốt ngày muốn tìm được việc làm, người đau buồn luôn nghĩ “Tôi muốn tìm thấy hạnh phúc”, người thất vọng luôn hy vọng có được cơ hội xoay chuyển, để có thể tìm lại được hy vọng cho riêng mình. Hầu như suốt cuộc đời, chúng ta bận rộn tìm kiếm sự nghiệp, bạn bè, sự giàu sang và danh lợi, thậm chí có thể tìm kiếm cả đời nhưng vẫn không tìm được thứ mình mong muốn. Kỳ thật tìm tới tìm lui, chúng ta nên tìm ra bổn tánh của chính mình, đó mới là điều quan trọng nhất, đó là gốc rễ trị tâm của chúng ta. Nếu quý vị không tìm thấy lương tâm của mình, không tìm thấy Phật tánh của mình, quý vị sẽ mất đi sức khỏe, mất đi sự nghiệp, có hạnh phúc nhưng cũng sẽ phải chịu nhiều đau khổ hơn. Chúng ta phải học cách thành tựu vị Phật chân thật trong tâm mình.
Có một bài kệ: “Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu, Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu. Nhân nhân hữu cá Linh Sơn tháp, Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu”. Nghĩa: “Phật ở Linh Sơn có xa đâu Linh Sơn ở ngay trên cái đầu Ai ai cũng có Linh
Sơn tháp Muốn tu nhìn vào đó mà cầu”.
Chính là nói cho chúng ta biết, Phật ở nơi đâu? Ở ngay trong bổn tánh của chúng ta. Chúng ta đi cầu xin người khác, học hỏi người khác, thật ra ở sâu thẳm trong tâm hồn chúng ta có một tháp Linh Sơn, một khi quý vị cầu xin tháp Linh Sơn này thì sẽ được linh ứng, chỉ cần chăm chỉ tu hành công đức tại tháp Linh Sơn của quý vị, thì quý vị sẽ được viên mãn ở nhân gian.
“Nhữ tâm bổn tánh quán tự tại, cửu thức Phật tâm tàng chân đế” (Quán tự tại bổn tánh có trong tâm mỗi quý vị, đạo lý của Phật tâm ẩn náu trong thức thứ
chín của quý vị). Mấy câu kệ này nhằm nói cho chúng ta biết rằng, bản thân con người vốn đã có một vị Phật nguyên thủy, gọi đó là Phật tự tánh, nhưng tại sao chúng ta lại không tìm thấy, mà chúng ta lại trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức truy đuổi những dục vọng “sắc tức thị không, không tức thị sắc”, và đã đánh mất đi hy vọng của mình? Con người chúng ta rất đáng thương, ở ngoại cảnh tìm kiếm hết thảy mọi thứ bên ngoài, nhưng lại xem nhẹ báu vật bản chất bên trong của chính mình, sống trên cõi đời trống rỗng mấy chục năm cũng không tìm thấy được cái “tôi” chân chính của mình ở nơi nào, ngay cả chính mình cũng không biết cái “tôi” đó ở nơi đâu, sống trong cái tôi giả tạo này, mỗi ngày vì thể diện, vì hư vọng, đi đấu với người, đi tranh với người, điều này cho thấy chúng ta không hiểu về đạo Phật.
Vì vậy, chúng ta phải là người có trí tuệ và đức năng, người có trí tuệ có thể an bài tốt tâm thái của mình, người có đạo đức có thể an bài tốt mối quan hệ của mình với người khác, phải tìm kiếm Phật tánh thực sự của mình trong tâm, có thể thành tựu được chân Phật trong tâm mình, thì quý vị phải thắp sáng ngọn đèn Phật trong tâm. Người hiện đại thường xuyên nhấn mạnh thanh lọc môi trường và thanh lọc xã hội, thực ra điều quan trọng nhất là bắt đầu từ thanh lọc bản thân và thanh lọc tâm hồn, cho nên “Pháp Môn Tâm Linh” chính là bắt đầu từ việc thanh lọc Phật tánh của tâm hồn. Tâm của chúng ta thường bị che mờ bởi ngu si, hắc ám, vô minh, phiền não ở thế gian, trong tự tánh của mỗi người đều có một ngọn đèn tâm, chúng ta phải thắp sáng ngọn đèn tâm này, để nó có thể chiếu ra ánh sáng trí tuệ và ánh sáng quang minh của Bát Nhã, thì mới có thể xua đuổi sự vô minh và phiền não ra khỏi thân mình. Một người có trí tuệ, làm sao có thể có phiền não? Một người có trí tuệ nhất định sẽ có Bát Nhã. Hãy thử nghĩ xem, rất nhiều người khi nghĩ không thông điều gì, liền không chịu buông xuống, muốn giữ thể diện, có đôi khi chỉ cần nói với người khác một câu “Xin lỗi, tôi làm sai rồi”, thì chuyện này lập tức sẽ được giải quyết, không cần phải mang gánh nặng, một ngày, hai ngày, ba ngày … hành hạ tâm hồn mình như vậy. Một lời nói có thể hóa giải được oán kết, một nụ cười có thể giải quyết được những phiền não. Mọi người luôn chú trọng đến vẻ đẹp thẩm mỹ hay hình thể của mình mà quên làm cho trái tim mình trở nên đẹp đẽ và nhân hậu. Khi quý vị thắp lên ánh sáng Phật trong tâm, thì quý vị chính là tâm hồn đẹp.
Phải chữa lành bệnh trong tâm. Khi thân thể có bệnh thì cần đi khám bác sĩ, khi có bệnh về tinh thần, có người thì cầu thần, bói toán, có người đi khám bác sĩ tâm lý, thật ra khi quý vị nghĩ không thông, đến tột cùng, thì cởi chuông vẫn phải là người buộc chuông, quý vị phải làm bác sĩ của chính mình, bởi vì bệnh
trong tâm quý vị, chỉ có bản thân quý vị hiểu rõ nhất, người khác có mấy ai có thể hiểu được trong lòng quý vị nghĩ gì? Cho nên Phật nói, tất cả các pháp vì trị tất cả tâm; Nếu không có tất cả tâm thì cần gì có tất cả các pháp? Trên thực tế Phật Pháp chính là vì trị tâm của chúng ta mà đến, Phật Tổ nói chính là muốn trị
84.000 loại bệnh phiền não của chúng sinh, bởi vì chúng ta có 84.000 loại bệnh phiền não, cho nên mới sinh ra 84.000 Pháp môn. Phải cần tu Giới-Định-Tuệ, để diệt trừ ba độc Tham-Sân-Si. Phải biết dùng giới để trị tham, dùng định lực của bản thân để trị tâm sân hận, dùng trí tuệ để trị ngu si của chính mình, như thế thân tâm của quý vị mới có thể giải thoát, trí tuệ của quý vị mới có thể tràn đầy.
Chúng ta phải khai thác kho báu bên trong thân mình. Tài phú trong xã hội, tài phú của con người là ở bên ngoài và có thể biến mất mọi lúc mọi nơi, do nước, lửa, trộm cắp, một số chuyện bất ngờ xảy ra, hoặc là con cháu bất tài, nên những của cải bên ngoài này không thể giữ lại mãi mãi. Và sự giàu có bên trong của chúng ta, đó là thứ mà người khác không bao giờ có thể lấy đi được và cũng là sự giàu có quý giá mà chúng ta sẽ không bị mất đi. Mọi người thử nghĩ xem, nếu như quý vị có lòng tín ngưỡng, gặp phải chuyện gì đều rất vui vẻ, và nói: “Tôi tin Quán Thế Âm Bồ Tát có thể cứu tôi”, người khác có thể lấy đi được không? {Cùng gặp phải một sự việc}, khi người khác đang đau khổ, quý vị sẽ đặc biệt vui mừng, bởi vì trong lòng quý vị luôn có niềm tin vào Quán Thế Âm Bồ Tát. Khi người khác đang đau khổ, thì trí tuệ Bát Nhã của quý vị sẽ giúp cho quý vị nhanh chóng giải quyết mọi vấn đề. Quý vị có được trí tuệ Bát Nhã, trong khi người khác không có, thì họ có thể lấy đi được trí tuệ Bát Nhã của quý vị không? Lòng từ bi của quý vị, đạo đức của quý vị, tinh tấn của quý vị, hỷ xả của quý vị, là thứ mà người khác có thể có được không? Đó là những gì quý vị nên có cho mình. Tâm từ bi của quý vị sẽ giúp quý vị có được nhiều vật chất ở nhân gian hơn, tâm tinh tấn của quý vị sẽ giúp quý vị có được nhiều nhân duyên hơn, cho nên tất cả đều là do bản thân tạo thành.
Những của cải quý giá này còn chứa đựng cảm giác hổ thẹn. Nếu người có tâm hổ thẹn, thì họ sẽ không cống cao ngã mạn, luôn cảm thấy có lỗi với người khác, luôn cảm thấy “Tôi vô cùng hổ thẹn, tôi làm không đủ tốt, tôi nên học tập người khác”, “Hiện tại tôi tiếp nhận cúng dường, cảm thấy rất buồn vì mình chưa đủ tốt”, vì tâm hổ thẹn của quý vị sẽ khiến quý vị tinh tấn mà nỗ lực thành Phật.
Bồ Tát cho chúng ta hiểu rằng của cải trong tâm chúng ta là “lấy không hết, dùng không cạn”. Quý vị muốn có bao nhiêu của cải tùy thuộc vào việc quý vị
muốn đào sâu nội tâm mình đến mức nào. Sống trên đời, có người chuyên tâm tìm lối thoát, có người lại thường xuyên bới móc người khác, tìm tới tìm lui, cuối cùng lại tìm phiền phức và đau khổ cho chính mình. Chỉ khi tìm thấy được kho báu trong tâm mình, thì trong lòng của quý vị mới có thể cởi mở và sống cuộc sống của mình một cách an yên. Bất luận là cuộc sống như thế nào, chỉ cần có Phật Pháp bên cạnh, thì tâm của quý vị mới có thể tĩnh và ý của quý vị mới có thể tự tại.
Chúng ta học Phật tu tâm, ai cũng biết mình cần buông xả, rất nhiều người thưa với thầy: “Đi đâu người ta cũng bảo buông bỏ”. Việc buông bỏ này không hề dễ dàng, nghe rất đơn giản, nhưng không ai biết phải buông bỏ điều gì. Sư phụ nói với mọi người, buông bỏ, đó là một loại cảnh giới. Trước hết quý vị phải hiểu rõ, đạo Phật rốt cuộc là dạy chúng ta buông bỏ điều gì và quý vị phải biết buông bỏ điều gì. Có người hỏi: “Tất cả mọi thứ ở nhân gian, nếu như tôi đều buông bỏ hết, vậy thì tôi chẳng còn gì cả. Tại sao Phật Pháp thường bảo chúng ta buông xuống vạn duyên? Nếu như chúng ta học Phật buông xuống tất cả duyên phận, chúng ta có thể làm được gì?”. Một số người cho rằng Phật giáo dường như luôn khiến con người có khuynh hướng tiêu cực “Bạn buông xuống, đừng đi nữa”. Luôn luôn có người hiểu sai Phật Pháp: Nếu như buông hết mọi thứ, tiền cũng không cần nữa, thức ăn và quần áo cũng không cần nữa, công việc cũng không cần nữa, nhà cũng không cần nữa. Nếu tôi có thế giới nhỏ bé của riêng mình, chẳng phải thế giới đó sẽ kết thúc sao? Sư phụ nói với mọi người, đây là một loại thành kiến. Phải hiểu được ý nghĩa thực sự của việc buông bỏ: Nếu quý vị buông bỏ mọi thứ, nó sẽ kết thúc và chấm dứt; nếu quý vị không thể buông bỏ bất cứ thứ gì, nó cũng sẽ kết thúc và chấm dứt. Đầu tiên phải hiểu được thế sự vô thường, hết thảy đều là thành trụ hoại không. Rồi có người hỏi: “Rốt cuộc chúng ta nên buông hay là không nên buông?” Kinh Phật từng dạy chúng ta rằng, muốn học Phật thì phải biết thay thế sự vật. Lấy một ví dụ đơn giản, một người ăn xin vừa mới xin được rất nhiều đồng xu từ trên tay của người khác, anh ta đang cầm những đồng tiền trên tay, quý vị nói xem, anh ta có cam lòng sẵn sàng bỏ những đồng xu vừa mới xin được xuống không? Câu trả lời: Chắc chắn là không. Chúng ta có phải là những người như thế không? Khi chúng ta nhận được một chút lợi lạc từ thế gian, dù có nắm trong tay thì chúng ta cũng không buông bỏ. Quý vị lấy một hòn đá và nói với người ăn xin rằng: “Tôi đổi đồng xu của ông được không?” người ăn xin chắc chắn sẽ nói: “Không được!”. Tại sao vậy? Đồng xu có giá trị hơn. Nếu hôm nay quý vị cầm một khối vàng, quý vị đi đổi với người ăn xin, người ăn xin nhất định sẽ đổi với quý vị. Mọi người nghĩ xem, tại sao lại thế này? Bởi vì vàng có giá trị hơn.
Từ đạo lý này, Sư phụ có thể nói cho mọi người biết, muốn buông bỏ, phương pháp đơn giản nhất chính là thay thế. Có tất cả những lý do khiến chúng ta không thể buông bỏ thế gian này: Bởi vì con người có tấm lòng ích kỷ, không đạt được điều gì tốt đẹp hơn nên không thể buông bỏ. Khi quý vị không nhận được những lợi ích tốt hơn, quý vị không thể buông bỏ được những lợi ích trước mắt. Vậy chúng ta hãy suy nghĩ với năng lượng tích cực, nếu như hiện tại quý vị dùng thức ăn chay để thay thế thức ăn mặn, quý vị hãy nghĩ xem, chẳng phải quý vị vừa đặt con dao đồ tể xuống rồi sao? Những gì quý vị nhận được là lòng từ bi. Nếu quý vị thay thế sự đòi hỏi bằng sự bố thí, buông bỏ lòng tham, đồng nghĩa với việc quý vị thay thế tật xấu tham lam bằng niềm tin (tín Phật) của mình. Nếu quý vị dùng tín ngưỡng Phật để thay thế sự trống rỗng, ví dụ như quý vị thường cảm thấy rất cô độc khi ở nhà, đột nhiên học Phật rồi, thì quý vị sẽ buông bỏ được nỗi cô đơn khi ở nhà đó. Nếu như hôm nay quý vị gặp phải rất nhiều chuyện phiền não, mà không nghĩ thông được hoặc khi quý vị muốn làm những điều ngu ngốc, thì trí tuệ đột nhiên đến với quý vị, có phải đã thay thế cho sự ngu si của quý vị rồi không? Quý vị liền buông bỏ cố chấp. Đây chính là trí tuệ đang không ngừng chuyển đổi tham, sân, si, mạn, nghi trên người quý vị, nếu quý vị dùng Chánh niệm thay thế tạp niệm trong lòng, thì quý vị sẽ buông bỏ được vọng tưởng. Tại sao quý vị lại nghĩ về những điều không thể nghĩ tới? Đó là vọng tưởng. Khi quý vị muốn có được, quý vị dùng Chánh niệm “Việc này tôi làm rồi, nhất định sẽ có thiện báo”, vậy thì quý vị sẽ buông bỏ được vọng tưởng. Rất nhiều người khi dùng tâm tùy hỉ của mình để thay thế sự đố kỵ, họ liền buông bỏ được phiền não. Khi quý vị dùng nhẫn nhục để thay thế sự trả thù, ví dụ như quý vị hận người khác, quý vị rất muốn trả thù, nhưng cuối cùng quý vị đã chịu đựng và buông bỏ sân hận. Khi quý vị dùng lòng từ để thay thế tham ái, thì quý vị sẽ buông bỏ được nỗi đau trong lòng. Nếu quý vị không biết cách nhấc lên, quý vị sẽ không hiểu ý nghĩa của việc buông xuống. Quý vị muốn buông bỏ điều gì, trước tiên phải hiểu được quý vị đã đề cập đến điều gì ở thế gian.
Cho nên Sư phụ nói với mọi người, dù là ăn chay, bố thí, tín ngưỡng hay trí tuệ, trong đó bao gồm Chánh niệm, tùy hỉ, thì tất cả đều là vàng bạc, phải thay thế những “đồng tiền xu” mà quý vị đang nắm chặt không buông ở nhân gian bằng việc đi sâu vào nội tâm. Dùng những trí tuệ thiện lương này để buông bỏ, biết vận dụng trí tuệ của Phật Pháp, dùng trí tuệ Bát nhã thoát khỏi nhân gian để giải quyết hết thảy phiền não của nhân gian, để thay thế những tâm tham lam, sân niệm và ngu si mà quý vị đã từng có, thì đó không phải là trí tuệ Bồ Đề của quý vị sao?
56. Tri - Hành hợp nhất là thành đạo
Tập 56
TRI – HÀNH HỢP NHẤT LÀ THÀNH ĐẠO
(29/04/2020)
Hôm nay Đài trưởng sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện rất có ý nghĩa về phật giáo.
Có hai anh em theo Đức Phật xuất gia, họ dần dần phân biệt được sự khác biệt trong việc tu học. Anh trai tu hành rất tiến bộ, cực kỳ nỗ lực, em trai cũng rất chăm chỉ và cũng đã thức trắng đêm ròng rã mấy năm để nghiên cứu sâu sắc, hai anh em họ đều có thành tựu, anh trai chứng được quả A-la-hán và người em trai cũng được đi sâu vào Tam Tạng giáo điển, là hiểu rất rõ về Tam Tạng.
Người em trai vì thường học Tam Tạng cảm thấy mình đã học được rất nhiều, lại hay khoe khoang, thích khoe khoang trí thông minh, truyền bá danh tiếng và tự hào về điều đó. Sau khi anh trai biết chuyện, cậu ta rất lo lắng cho em và cảm thấy bi quan về thành tích của em trai mình. Có một lần, ông khuyên em trai rằng:
“Nhân thân nan đắc, Phật thế nan trị” Nghĩa: Được làm thân người rất khó, gặp đời có Phật khó vô cùng. Đúng như Đức Phật thường nói:
“Thất nhân thân như đại địa thổ, đắc nhân thân như trảo thượng thổ” Nghĩa :
Mất thân người nhiều như đất ở đại địa, có được thân người ít như chút đất trên móng tay.
Nhưng bây giờ khi đã có được thân người thì nên coi việc tu hành là trọng tâm, giải học là thứ yếu, em nhất định phải lựa chọn cẩn thận”. Như chúng ta đều biết, trong giới Phật pháp có một từ “giải”, đó là hiểu cơ sở lý luận của đạo Phật, “hành” là đem nó vào thực hành. Người em hiểu lý thuyết rất tốt, nhưng không chịu tu hành.
Người em nghe được lời này rất không đồng tình, cảm thấy chuyện này như gió thoảng bên tai, không hề khắc ghi trong tâm. Người em phản đối lại: “Anh ơi, em nghĩ điều anh nói không nhất thiết là đúng, em cảm thấy bây giờ mặc dù em có chút hiểu biết về Phật pháp như giọt nước trong đại dương, nhưng em vẫn
chưa nắm được tinh hoa, cái gọi là “Ký đăng kỳ đường, tất nhập kỳ thất”, đợi đến khi em tinh thông Tam Tạng, xứng đáng làm thiên sư cho người khác noi theo, thì lúc đó em tiếp tục tu đạo vẫn chưa muộn”. Ý của người em là: “Hôm nay tôi đã học được Tam Tạng rồi, tôi nhất định phải hiểu thông nó”.
Người anh nói: “Này em, cuộc sống vô thường, sinh mệnh không thể kéo dài mãi mãi, có thể em chưa học xong Tam Tạng, là vô thường đã rơi vào thân em rồi, nên điều quan trọng nhất là phải tu sớm”. Nhưng người em rất cố chấp với ý định ban đầu của mình, cậu ta bướng bỉnh từ chối chấp nhận lời khuyên của anh mình. Chẳng bao lâu sau, người em quả thực bị nhiễm một căn bệnh lạ, việc chữa trị không có hiệu quả và chắc chắn sẽ chết. Người em biết mình sắp chết, trong lòng rất sợ hãi, nói với anh trai rằng: “Anh ơi, trước đây em ngu si và mù quáng, không nghe lời dạy của anh, bây giờ đối mặt với tuổi thọ sắp kết thúc, đã quá muộn để tu hành rồi”. Sau đó, người em vừa nói trong nước mắt, để sám hối với anh trai mình. Chẳng bao lâu sau, người em qua đời và rời khỏi thế gian.
Người anh vô cùng đau đớn và nghĩ đến tình huynh đệ, vì đã đắc quả A-la-hán nên nhập định quán tha, xem rốt cuộc em mình đã đầu thai theo hướng “thú” nào (“thú” thực ra có nghĩa là đầu thai vào cõi nào rồi). Khi nhìn thấy em trai mình tái sinh trong nhà một vị trưởng lão, cậu ta thầm nghĩ: “Tuy rằng em trai tái sinh, mình vẫn sẽ cứu em trai mình”. Cậu ta có tâm niệm này.
May mắn thay, nhà của vị trưởng lão này rất gần chùa, để cứu em trai mình, cậu ta thường đến thăm viếng nhà trưởng lão, kết bạn với họ và nói: “Đứa trẻ này thật đáng yêu”, luôn tìm cơ hội giúp em trai mình. Khi người em tái sinh này lên ba tuổi, người anh rất lo lắng và nhanh chóng quy y cho em và dạy em niệm Phật hiệu và thánh danh. Không ngờ đứa bé này cũng rất đáng yêu, thông minh, ngoan ngoãn, vừa học đã biết, còn có thể niệm kinh.
Khi đứa trẻ lên bốn tuổi, có lần bà vú đã bế đứa bé lên ngôi chùa trên núi để gặp sư phụ của nó, vì chùa nằm trên núi nên những bậc đá quanh co và gồ ghề, bà vú nuôi đã ôm cậu bé vào lòng. Nhưng không cẩn thận, vô tình làm nó rơi xuống chân núi, ngay tức khắc vỡ đầu chảy máu, thịt nát xương tan và bị chết thảm như thế. Khi sắp chết, trong lòng cậu bé chợt nảy sinh ác niệm, oán hận bảo mẫu: “Tại sao bà ấy lại ôm tôi bất cẩn khiến tôi phải chịu tai họa như vậy?” Bởi vì cậu bé chỉ còn là linh hồn, lại vì khởi lên tâm niệm hận này, không ngờ cuối đời lại đọa vào địa ngục.
Sau khi người anh biết được chuyện này, anh cảm thấy thương xót cho sự bất hạnh của em mình và ngay lập tức nhập định để quan tha sinh thú của người em (tức là rốt cuộc em trai đã đi đến cõi nào), (“sinh thú” là chỉ Tứ sinh và Lục thú. Tứ sinh là noãn (đẻ từ trứng ra), thai (đẻ từ bào thai), thấp (đẻ nơi ẩm ướt) và hoá (tự nhiên sinh ra). Lục thú (6 nẻo) là trời, người, ngạ quỉ, súc sinh, địa ngục và A-tu-la). Đột nhiên, người anh đang thiền định thì nhìn thấy em trai mình đã bị đọa vào địa ngục, anh thở dài: “Sự đau khổ trong địa ngục thật là nặng nề biết bao! Nghiệp tội ở địa ngục khó độ biết bao! Nếu chư Phật và Bồ Tát không thể làm gì được thì huống chi là ta? Ý của người anh là: Địa ngục rất sâu nặng, và nghiệp tội trong địa ngục rất khó để được độ. Ngay cả Bồ Tát cũng không thể lay động nhân quả và không thể cứu được những người không có duyên, huống chi là tôi với quả vị A-la-hán này? Vì em trai mình trước kia không tu vi và không hành, vẫn còn tâm cố chấp ở kiếp trước, sự cố chấp khiến cậu ta “Phật Pháp khó nghe, thân người khó được, cho dù đã có được thân người, thì lại được mấy năm”. Nói cách khác, ai không buông bỏ được chắc chắn sẽ chịu đau khổ. Vì vậy, người học Phật nên nắm bắt thời cơ và tu tập thật tốt để trau dồi tâm mình.
Trong kinh Phật, “giải” Đạo là quan trọng, “giải” có nghĩa là hiểu biết về pháp, tuy rất trọng yếu và quan trọng nhưng hành vi tu tập của chúng ta lại càng quan trọng hơn. Rất nhiều người học Phật tụng kinh bằng miệng rất hay, trong tâm hiểu rất rõ đạo lý Phật giáo và hiểu rất tốt, nhưng những việc họ làm lại không giống con người và họ không “hành” tốt, cuối cùng việc tu tập của họ chỉ là vô ích và uổng công, không có kết quả gì. Vì vậy, Phật giáo nói về sự hợp nhất giữa tri và hành (nghĩa là tri thức và hành vi của quý vị phải hợp thành giống nhau), hành và giải phải đồng trọng (nghĩa là sự tu hành và khả năng hiểu Phật pháp của quý vị phải giống nhau). Thật sự hiểu Phật Pháp là ở trong tâm, thật sự hiểu và có thể áp dụng được Phật pháp trong cuộc sống, đó mới là giải pháp chân chính cho việc tu hành.
Hôm nay bài giảng xin được tạm dừng tại đây, chúng ta sẽ gặp lại nhau trong chương trình lần sau.
57. Lấy việc học Phật thường xuyên làm gốc
Tập 57
LẤY VIỆC HỌC PHẬT THƯỜNG XUYÊN LÀM GỐC
(02/05/2020)
Hôm nay Đài trưởng sẽ tiếp tục giảng với mọi người về “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Việc chuyển hóa những tham muốn của bản thân là rất quan trọng, có rất nhiều người trên thế gian này suốt đời không biết cách chuyển hóa những tham muốn của mình. Lấy một ví dụ đơn giản, vấn đề này không phải của quý vị, quý vị một mực muốn cho bằng được, thì quý vị đã có tham muốn này rồi, nhưng quý vị cần phải chuyển hóa nó, vậy thì chuyển hóa như thế nào?
Tức là từ từ dùng một lối suy nghĩ đúng đắn, năng lượng tích cực và minh tâm kiến tánh khác để xem xét vấn đề mà quý vị đang nghĩ đến, khi đó quý vị sẽ nhận được một lời giải thích khác. Ví dụ: Hôm nay nếu ai đó mời quý vị tham dự một sự kiện, sự kiện này có thể gây hại cho người khác và quý vị tự nhủ với lòng mình rằng: “Tôi là người học Phật, tôi không nên tham gia vào những hoạt động như vậy”. Nếu quý vị có năng lượng tích cực trong tâm, thì quý vị sẽ chuyển đổi được suy nghĩ, liền đem mong muốn “muốn đi xem thử hay đi tìm hiểu một chút” thành “Chúng ta nên tử tế với người khác và không nên kết oán kết thù với người khác”. Cũng giống như khi chúng ta còn nhỏ, nhiều bạn cùng lớp nói: “Chúng ta hãy cùng nhau công kích người này”. Vì quý vị có năng lượng tích cực và suy nghĩ tích cực nên quý vị sẽ không tham gia. Thế nên, người học Phật phải hiểu được giác chiếu của trí tuệ, người có trí tuệ, họ có giác ngộ, họ có thể chiếu sáng tất cả thế giới nội tâm của mình, họ biết được điều gì có thể làm và điều gì không thể làm, đây chính là người học Phật khác với người không học Phật.
Người học Phật có được năng lượng tích cực, thì có được tuệ mệnh và sinh mệnh. Nếu một người không có năng lượng tích cực, thì họ sẽ có nội tâm cô đơn và trầm cảm. Có một số người cảm giác như cả đời họ mất đi linh hồn, họ gặp chuyện liền khó chịu, tai nghe không được Phật âm, ánh mắt bị ngũ dục lục trần hư ảo giả tướng che đậy, không cách nào lĩnh ngộ, không thể nhìn thấy ánh sáng của Phật Pháp. Rất nhiều người cả đời mang theo hy vọng đến thế gian này, họ hy vọng có thể làm được một việc gì đó trên thế gian này, nhưng họ đã quên rằng, mỗi người chúng ta đến thế gian này đều mang theo nghiệp chướng. Họ đến thế gian này, mặc dù mang theo hy vọng, nhưng nghiệp chướng của họ rất nặng, không thể tách rời bi thương và ưu sầu của bản thân. Họ rời khỏi thế giới Ta Bà với những giọt nước mắt, với những tham muốn mà họ không thể đạt được, bởi vì họ không tu hành, không minh tâm kiến tánh. Người mà không tu
hành, mỗi ngày đều sống trong ảo tưởng và ảo giác. Mỗi một ngày đều là tưởng tượng, thường xuyên ảo tưởng. Tham vọng giống như bọt biển trong biển cả mênh mông mịt mù, đó là những dục vọng của bản thân, bao gồm cả sở hữu và mất mát. Niềm hạnh phúc hay sự đau khổ mà bản thân đã từng có được, dù đã tan biến trong không khí, nhưng bản thân vẫn phải chịu đựng nỗi đau của sự biến mất đó.
Mỗi người chúng ta bây giờ, chỉ cần hồi tưởng lại một số chuyện bi thương trong quá khứ, sẽ luôn phiền muộn vô hạn. Những điều này tưởng như đã xảy ra trong tâm trí chúng ta, nhưng lại dường như chưa từng xảy ra, đó là vì quý vị đã đánh mất nó, nó không còn nữa, nên trong lòng mới có thể sinh ra phiền muộn hư ảo. Nếu không học Phật, thì quý vị sẽ luôn sống trong sinh mệnh nhỏ bé dơ bẩn trong tâm mình, cũng chính là quý vị sở hữu một thế giới nhỏ bé, một gia đình nhỏ bé, một con người trong những thị phi nhân ngã nhỏ bé, không bao giờ biết cách giúp đỡ người khác, không bao giờ biết là bản thân có thể thoát ra được khỏi Tam giới. Chúng ta đang ở trong cõi trần nhỏ bé, mờ mịt đến mức không thể tự cứu mình. Có một số người khi xảy ra chuyện rồi, không có ai để thổ lộ, không có ai để giãi bày, bởi vì họ không hiểu người khác và cũng sợ người khác không hiểu mình, cho nên họ vĩnh viễn quanh quẩn trong những đau khổ đó, cuối cùng họ cảm thấy thế giới này lạnh lùng như thế là cùng. Đó là cái vòng tròn nhỏ của chính họ, họ đã mất đi trí tuệ vốn có trong cái mà họ nghĩ là vương quốc sinh mệnh mà bản thân họ sở hữu. Trong ngu si, nhân sinh như mộng huyễn bọt bóng.
Chúng ta bất luận gặp phải chuyện gì phải hiểu được “thọ” – tức là tiếp nhận, chịu đựng. Chúng ta có bao nhiêu điều hạnh phúc cũng đã trải qua, bao nhiêu điều đau khổ cũng chịu đủ rồi, vĩnh viễn là chữ “thọ” này. Phật Pháp gọi “thọ” là “đã thành niệm cảnh”, tức là đã trở thành một cảnh giới ý niệm. Cả đời chúng ta đã đi qua bao nhiêu con đường trần thế, cả đời chúng ta đã làm bao nhiêu chuyện kinh thiên động địa và những chuyện khiến bản thân đau khổ tột cùng, đều là “đã thành niệm cảnh”, niệm cảnh chính là một ý niệm, một ý niệm chính là một cảnh giới. Trong giới Phật giáo nói “Nhất niệm thăng thiên, nhất niệm xuống địa ngục”, nếu niệm đầu nghĩ không thông sẽ khiến quý vị xuống địa ngục, nếu niệm đầu nghĩ thông suốt sẽ khiến quý vị thăng lên thiên giới. Giới Phật Pháp từ lâu đã gọi những thế giới nhân sinh hư ảo này là “chuyện cũ không gặp lại”, cũng chính là sự việc trong quá khứ sẽ không lặp lại cho chúng ta xem lần nữa. Mọi người thử nghĩ xem có phải là như vậy hay không, cảm giác thời tiểu học của chúng ta, bây giờ có còn không? Những cảm giác thời trung học,
hiện tại cũng không còn. Cảm giác chúng ta từng ở nhà, ở bên cha mẹ, bây giờ cũng không còn nữa, tất cả đã không còn tái hiện.
Sư phụ muốn mọi người hiểu rằng, tất cả những gì xuất hiện trong cuộc sống, bất kể cái thiện hay cái ác, điều mà quý vị không thích hay điều mà quý vị thích, tất cả hạnh phúc và nỗi buồn, quý vị không thể chiếm hữu nó mãi mãi, đó chỉ là một ý niệm của quý vị, chỉ là một chữ “thọ”, cho dù tiếp nhận hay chịu đựng qua rồi thì cũng sẽ kết thúc; chỉ có thể trải nghiệm nó, không thể sở hữu nó. Khi quý vị có được tất cả hạnh phúc trên thế gian này, đó cũng chỉ là “tiếp nhận một chút”. Khi quý vị đau khổ, thì đó cũng là cắn răng “chịu đựng một chút”. Bởi vì chúng ta là khách qua đường của thời gian, có bài hát là “Khách qua đường vội vã”, người đến người đi vội vã, khách qua đường vội vã, một ngày nào đó, quý vị sẽ nói lời tạm biệt với những gì quý vị cho là nỗi đau trên thế gian này, hoặc những gì quý vị cho là hạnh phúc trên thế gian này, quý vị cũng sẽ nói lời tạm biệt với chúng. Cuối cùng, Phật Pháp dạy chúng ta phải từ bỏ mọi thứ, vì trên đời này chẳng có gì để mất cả, chúng ta chỉ là kẻ đi ngang qua mà thôi. Hy vọng mọi người hiểu rằng, đời người không có gì là được hay mất cả, đó chỉ là sự trải nghiệm mà thôi. Học Phật chân chính đó là: hãy quý trọng những gì đang ở trước mắt, hãy tùy duyên mà buông bỏ những gì trong quá khứ, những điều sẽ đến trong tương lai, chúng ta phải đối mặt với nó một cách bình thản. “Chư pháp không tướng, huyễn hóa tồn chân”, thế giới này hết thảy đều là hư không vô tướng.
Đôi khi trả lời điện thoại, rất nhiều Phật hữu thường hỏi Sư phụ: “Trên đời này cái gì là mạnh nhất?”. Con người luôn cảm thấy rằng có một thứ gì đó mạnh mẽ nhất, có thể đánh bại những điều yếu nhất trên đời. Hãy nhớ rằng, nhân quả báo ứng là mạnh nhất, bởi vì nhân quả báo ứng không sai chút nào; Từ bi hỷ xả là lớn nhất, bởi vì chúng ta không thể sống mà không có từ bi hỷ xả. Chúng ta phạm sai lầm trong cuộc sống, chỉ có thể chờ đợi sự báo ứng. Cái gì mạnh nhất trên thế giới? Cường trung tự có cường trung thủ (Núi cao còn có núi cao hơn). Người ta nói “thép là mạnh nhất”, nhưng ngọn lửa có thể làm tan chảy nó; lại có người nói “ngọn lửa lớn là mạnh nhất”, nhưng có thể dập tắt nó bằng nước; cũng có người nói “mặt trời là mạnh nhất”, nhưng những đám mây vẫn có thể che phủ nó; “Bão tố là mạnh nhất”, nhưng núi cao có thể chống lại nó; “núi cao là mạnh nhất”, người leo núi có thể chinh phục nó; Cuối cùng, có người nói: “Cái chết là không thể thoát khỏi, đó là mạnh nhất, bởi vì không ai thoát khỏi cái chết”, nhưng đối với chúng ta là những người học Phật tu tâm, tâm hồn chúng ta sẽ không bao giờ chết, chúng ta sẽ tìm kiếm một cuộc sống mới. Người
học Phật mạnh nhất chính là nghị lực, rất nhiều Phật hữu học càng về sau không thể kiên trì được, vì họ không có được nghị lực giống như Kim Cương Bát Nhã. Tại sao lại có người bỏ cuộc? Bởi vì họ không có sự kiên trì, không có niềm tin. Người học Phật phải tìm ra một con đường giải thoát, cho nên chúng ta không sợ sinh tử, chúng ta có nguyện lực kiên cường, sẽ vượt qua khó khăn, vượt qua phiền não, hướng tới tương lai.
Người có chánh tri chánh kiến trong lòng họ có Phật, họ biết điều gì là đúng và họ sẽ kiên cường bước tiếp; Người có chánh kiến sẽ biết thị phi thiện ác, hiểu nhân quả, hiểu báo ứng. Con người nên biết được thế nào là tốt, xấu, lợi, hại, người khác đối với mình tốt như vậy, sao mình lại làm tổn thương họ? Nghe thì rất tự nhiên, nhưng ngoài đời có quá nhiều người khi quý vị càng tốt với họ, thì họ càng bắt nạt quý vị nhiều hơn, đây chính là lòng tham của con người gây ra, đây chính là tham muốn của con người gây nên. Bởi vì quý vị tốt với họ rồi, nên họ sẽ có nhiều tham muốn hơn và sẽ bắt nạt quý vị. Đôi khi nếu quý vị phớt lờ họ, ngược lại họ sẽ biết kiềm chế bản thân, điều này chính là họ không hiểu được chánh và tà, họ đang ở trong mê hoặc. Người khác đối xử với quý vị lương thiện như vậy, đối xử với quý vị tốt như vậy, nếu quý vị cho rằng điều đó là lẽ đương nhiên thì quý vị sẽ bị sa chân vào con đường sai lầm.
Người có trí tuệ là mạnh nhất. Nếu một người có trí tuệ, họ sẽ giải quyết được phiền não của mình, vì vậy trí tuệ là một báu vật vô giá, nó chính là báu vật vô giá trong cuộc sống của quý vị. Hôm nay, khi Sư phụ khai thị với mấy vị Phật hữu, đã đề cập đến báu vật vô giá của con người, trong cuộc sống còn có một điều vô cùng quan trọng, đó là thường xuyên phải có tâm hổ thẹn. Nếu một người có tâm hổ thẹn, cảm thấy mình làm chưa đủ, chưa đủ hiếu thuận, chưa đủ tốt với người khác, cảm thấy mình làm cho cha mẹ chưa đủ, giúp người khác chưa đủ, đối với sư trưởng của mình, đối với xã hội vẫn chưa đủ, điều đó chứng tỏ người này có tâm hổ thẹn, như thế thì họ mới có thể có được tâm tinh tấn. Tại sao có rất nhiều người không thể tinh tấn? Bởi vì họ không có tâm hổ thẹn, họ cảm thấy mọi người trên thế gian đều nợ họ và cảm thấy họ mang lại cho người khác nhiều hơn.
Phải hiểu được nhân nghĩa đạo đức, người có thể phân biệt đúng sai mới có thể đưa ra những phán đoán hợp lý. Một người từ bi, là người đó có thể hàng phục được tất cả, bởi vì họ biết rằng trên thế gian này không ai nợ mình và mình cũng không nợ ai, tất cả đều đầy lòng từ bi và trí tuệ. Giúp đỡ người khác và người khác giúp mình không phải là lẽ đương nhiên, mà đó là lòng từ bi của người
khác dành cho mình. Khi quý vị có được những ý nghĩ đúng đắn này, thì quý vị sẽ khắc phục được tà niệm trong tâm của mình, khi quý vị bị người khác bắt nạt, khi có oán kết, thì quý vị sẽ có được lòng từ bi trong tâm để hóa giải nó. Vĩnh viễn phải cảm thông người khác, vĩnh viễn phải hiểu rõ trên thế giới này thật sự lớn nhất, mạnh nhất là cái gì, chúng ta học Phật phải hiểu rõ, thật sự lớn nhất, mạnh nhất chính là từ bi hỷ xả, bởi vì nhân quả báo ứng là mạnh nhất, chỉ có từ bi hỷ xả, mới không động đến nhân quả báo ứng của quý vị.
“Tự do đi lại, vô trệ vô ngại, ứng dụng tùy tác, ứng ngữ tùy đáp, phổ kiến hóa thân, bất ly tự tánh, tức đắc tự tại thần thông, du hí tam muội, thị danh kiến tánh”, những lời này là trong “Lục Tổ Đàn Kinh”, chính là nói về một trái tim. Trong tâm phải có Phật, người mà có Phật trong tâm, thì tâm của họ có thể tự do tự tại. Bởi vì họ không làm hại người khác, thì họ mới có thể tự do tự tại, giống như khi lái xe trên đường, nếu quý vị không làm tổn thương đến những chiếc xe khác và người đi bộ, thì tất nhiên quý vị đang lái xe một cách tự do tự tại. “Vô trệ vô ngại”. không gì có thể ngăn cản được quý vị. Một người có tâm thái năng lượng tích cực, thì họ “ứng dụng tùy tác”, tức là bất luận chuyện gì xảy ra họ sẽ ứng dụng theo đó mà làm, “tùy tâm sở dục, sở tác sở vi” (tùy theo tâm nguyện, ý muốn mà hành động). “Ứng ngữ tùy đáp” Tức là tùy theo lời nói của người khác mà có thể đáp lại trả lời cho họ. “Phổ kiến hóa thân”, tâm ở nơi nào cũng đều là hoá thân của Bồ Tát. “Bất ly tự tánh, tức đắc tự tại thần thông”, chỉ cần có được Phật tánh và bổn tánh trong lòng thì sẽ có được thần thông tự tại, tức là sự tự do. Một người có lương tâm, đi đâu cũng không bị người khác công kích; một người có trí tuệ, đi đến đâu cũng tự do tự tại. “Du hí tam muội”, mọi người đều biết “Du hí thần thông Phật”, là vui chơi, thực hư bằng nhau, nghĩa là khi độ một người phải nửa thật nửa giả. Đôi khi, dùng một câu nói hài hước để truyền cảm hứng cho họ, cũng giống như lúc Tế Công Hoạt Phật ở nhân gian phổ độ chúng sanh, trong tâm Ngài bình tĩnh, bài trừ tạp niệm, lại dùng thái độ “Du hí nhân gian” để đối đãi với hết thảy chúng sinh khổ nạn, bởi vì Ngài coi thế gian này là hư ảo, chỉ là dạo qua nhân gian một vòng, chỉ là ở nhân gian nhìn thấu hồng trần và biết đây là một thế giới hư ảo, “Tam muội” là đại diện cho loại tâm thái trí tuệ này của Ngài. Vì vậy, “Du hí tam muội” là nửa thật nửa hư. “Thị danh kiến tánh”. Nếu nhìn thấy vạn vật trên đời này là hư ảo, tức là thấy được bổn tánh Như Lai chân thật của chính mình.
Trong kinh Phật nói tâm phi, si, loạn (“si” chính là ngu si, “loạn” chính là tâm rất bấn loạn, “phi” chính là có thị phi), đều cho rằng ngũ uẩn là tự ngã thường hằng. Cũng chính là nói với mọi người, bởi vì quý vị có cảm giác về cái bản ngã
của mình, nên quý vị mới hài lòng về bản thân. Một số người cảm thấy hài lòng về bản thân và không lắng nghe những gì người khác nói bởi vì họ có tâm đúng sai và ngu si. Vì vậy, khi một người không lắng nghe người khác, thì họ rơi vào trạng thái ngu si; Hơn nữa, họ còn cho rằng ngũ uẩn là tự ngã thường hằng (“thường hằng” tức là bất biến không thay đổi), cũng chính là nói, họ cho rằng quan điểm và suy nghĩ của họ đều là vĩnh cửu, là đúng đắn mãi mãi. Giống như rất nhiều những bậc phụ huynh như chúng ta, nhìn vào con của hàng xóm và cho rằng: “đứa trẻ này sẽ không được tốt, đứa trẻ này dù có thế nào cũng sẽ không khá lên được; Đến khi con của người ta lớn lên và có được triển vọng rồi lại cho rằng: “Đó chỉ là một sự tình cờ mà thôi”, bởi vì họ không nghĩ rằng người khác sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Kết quả của loại tự ngã này thực ra là một loại biểu hiện huyễn ảo của chân tánh. Vô phi, vô si, vô loạn, tâm chân thật thì phải, không có thị phi, không có ngu si, không có hỗn loạn, nhưng bởi vì cho rằng tự ngã thường hằng tồn tại và dùng một loại ý niệm cá nhân của mình để khống chế bát thức điền (thức thứ tám), nên mới có thể sinh ra đủ loại ý kiến đối với người khác. Cho nên chúng ta muốn thoát khỏi phiền muộn, thì phải vượt qua sinh tử, chính là phải biết cách nhận thức bổn tánh thật của mình. Quý vị phải tự mình trải nghiệm, phải nghiêm túc trải nghiệm và hiểu rõ bổn tánh của chính mình, gọi là “thể nhận tự tánh”. Nếu quý vị biết cách sống với cái thiện trong bổn tánh của chính mình, sống với trí tuệ và lòng từ bi của Bồ Tát, thì quý vị sẽ không còn rơi vào “phi, si, loạn” mà quý vị cho nó là tự ngã thường hằng. Nói một cách đơn giản, nếu một người không dính mắc vào một sự việc nào đó thì sẽ không nhập vào tự ngã thường hằng; Một người giỏi thay đổi quan điểm của mình, lắng nghe năng lượng tích cực, thì họ sẽ thay đổi những quan điểm về tự ngã thường hằng đó. Giải thoát là khám phá bản chất tốt đẹp của trái tim mình thông qua việc hiểu biết người khác; Thông qua sự giúp đỡ của người khác và sự hiểu biết của bản thân về Phật tánh, để thay đổi quan niệm, thay đổi bản thân. Không nên bị tạp nhiễm hay dính mắc vào mọi thứ trên thế gian này.
58. Sự khác biệt giữa kiến đạo và tu đạo
Tập 58
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA KIẾN ĐẠO VÀ TU ĐẠO
(02/05/2020)
Nhiều người khi hận ai đó luôn khắc ghi trong tâm trí, người như vậy không phải gọi là nhiễm sao? Bởi vì quý vị bị nhiễm những khuyết điểm mà người khác đã từng làm tổn thương quý vị. Khi bị người khác làm tổn thương, đó là một vết mực, quý vị đã khắc ghi trong tim, thì có phải trái tim này của quý vị đã bị nhiễm tạp rồi không? Người khác đã từng làm hại quý vị, quý vị luôn ghi nhớ, vậy là quý vị đã bám chấp vào những việc mà người khác làm tổn thương quý vị, tâm trí của quý vị không thể giữ được trong sạch, nên không thể tự do. Bởi vì quý vị sẽ luôn đau khổ, luôn nhớ đến những người và những nơi đã làm tổn thương đến mình. Thế nên có người học Phật học càng về sau, chỉ cần nhắc đến việc họ đã từng làm tổn thương người khác hoặc người khác làm tổn thương họ, thì họ đột nhiên bị suy sụp tinh thần và sẽ trở nên cô độc, đó là bởi vì trong bát thức điền (thức thứ tám) của họ không từ bỏ được sự nhiễm tạp và bám chấp trước đó.
Làm thế nào để cho tâm của mình Vô trệ Vô ngại? Bất kể có sự thay đổi gì xảy ra bên ngoài, quý vị đều phải hiểu được rằng nhân sinh vốn dĩ chính là thiên biến vạn hóa. Đạo giải thoát ở chỗ tâm phải có định lực, phải định lại được. Cho dù người khác ở trước mặt quý vị nói ai tốt ai xấu đi chăng nữa, thì bản thân quý vị phải có lương tâm, bản tính để kiểm chứng nó, để thử nghiệm nó, để biết rốt cuộc chuyện này có đúng hay không. Bởi vì quý vị biết thế giới này là vô thường, cho nên không tồn tại Đúng, vậy đương nhiên cũng không có Sai, thế nên không có Đúng thì mới không có Sai. Tâm đừng bao giờ thay đổi theo niềm vui của thế gian, lúc thì vui vẻ, lúc thì hạnh phúc, lúc thì khó chịu. Nói đến cùng, giải thoát chính là tâm của quý vị cần phải bất động, tâm bất động chính là “như như bất động” mà giới Phật Pháp đề cập đến. Bây giờ rất nhiều người khi gặp phải chuyện gì, họ ở nhà, như như bất động, có phải là họ đã tránh được rất nhiều chuyện không hay xảy ra không? Hôm nay ở trong cơ quan có chuyện xảy ra, cảm thấy rất buồn, quý vị xin nghỉ phép ở nhà như như bất động, cho dù trong cơ quan sắp xảy ra chuyện gì, nhưng trong cuộc họp hôm nay, tôi không nói gì cả, vẫn làm việc như cũ, không nói qua nói lại chuyện này chuyện kia, đến cuối cùng đổi lại vẫn là như như bất động, chính là giải thoát phiền não, chính là hóa giải và giải thoát. Nếu tâm theo thế sự mà chuyển, khi thế giới này xảy ra chuyện này, lập tức lo lắng; khi thế giới này xảy ra chuyện kia, tức thì khổ sở, thương tâm, vậy thì tâm trạng của quý vị sẽ theo bất cứ mọi chuyện trên thế giới mà phát sinh biến hóa; Khi tâm trạng phát sinh biến hóa thì tâm thái
liền phát sinh biến hóa. Khi tâm thái phát sinh biến hóa, thì nội tâm chân chính sẽ sinh ra phiền não, ưu sầu vô minh và trí tuệ thấp kém.
Hết thảy trên thế gian chẳng qua là công danh lợi tựu, công danh tăng giảm, tài phú nhiều ít, tại sao quý vị lại muốn tiến vào trong đó? Giống như rất nhiều người vốn dĩ không thể mua cổ phiếu, bởi vì họ không thể chịu đựng được mức giá cổ phiếu tăng giảm. Khi giá cổ phiếu tăng lên, vui mừng đến mức bất tỉnh, khi giá cổ phiếu giảm xuống, đau buồn đến mức bất tỉnh thêm lần nữa, nên kết quả vẫn là bất tỉnh. Bất kể làm chuyện gì, tâm của quý vị – cái tâm hỉ nộ ái lạc – không nên theo biến hóa của thế giới bên ngoài mà thay đổi, thì hạnh phúc của quý vị liền theo đó mà tăng lên. Nếu như mỗi ngày theo tất cả mọi chuyện trên thế giới mà biến hóa, dần dần quý vị sẽ cảm thấy thế giới này không hạnh phúc, dần dần sẽ cảm thấy không mấy hài lòng, hạnh phúc của quý vị sẽ theo đó mà giảm xuống. Người học Phật thường phải hiểu được một câu nói: “Hạnh phúc chỉ ở trong một niệm”. Nếu hôm nay suy nghĩ của quý vị là “Tôi rất hạnh phúc”, thì quý vị đang hạnh phúc. Nếu hôm nay quý vị cảm thấy “Tôi rất đau khổ” và tâm trí của quý vị đang đau khổ, thì quý vị đang sống trong đau khổ. Điều quan trọng là tâm của quý vị bất động. Cho nên chúng ta thường nói “bất dĩ vật hỉ, bất dĩ kỷ bi”, chính là cái đạo lý này, chúng ta không nên đi theo biến hóa của ngoại cảnh, trên thế giới mỗi ngày đều là vô thường, đang biến hóa, biến động là chuyện bình thường, tâm của chúng ta không biến động là thường hằng. Sự đổi thay của công danh lợi lộc không nên khiến cho tâm tình người học Phật chúng ta dao động quá lớn, có thì có, không có thì không có, có thì là của quý vị, không có thì không phải của quý vị, với tâm thái này, tuyệt đối sẽ không ảnh hưởng đến hạnh phúc của quý vị. Người học Phật vì sao hạnh phúc? Bởi vì chúng ta có được trí tuệ của Bồ Tát, chúng ta có thể giữ được bản thân mình như như bất động.
Học Phật tu tâm, trên con đường thành Phật có năm bước, chúng ta sẽ trải qua năm giai đoạn: Tư lương đạo, Gia hành đạo, Kiến đạo, Tu đạo và Vô học đạo. Tư lương đạo cùng Gia hành đạo vẫn là thuộc về cảnh giới của phàm phu, nếu như sau khi tiến vào Gia hành đạo, người tu hành liền có đủ Bồ Đề tâm thế tục. Ở đây sư phụ sẽ nói với mọi người về “Bồ Đề tâm thế tục”, chính là ở nhân gian sẽ có được Bồ Đề tâm. Có rất nhiều người học Phật nhìn thấy một chút Không tánh: “Học Phật rồi, nghĩ thông suốt rồi, không còn nữa, không sao cả”, nhìn thấy một chút Tánh không rồi đúng không? “Tôi hiện tại buông xuống rồi, tôi sẽ không cố chấp, không còn quan trọng nữa. Tôi không kiện tụng với người ta nữa, hiện tại tôi rất hạnh phúc”, đã nhìn thấy được một chút Tánh không, nhưng
cảnh giới vẫn chưa đạt đến giai đoạn này; Nếu chưa đạt tới giai đoạn này, thì chính là giả Không – tức là dường như nghĩ thông suốt rồi. Tại sao có một số người hôm nay đã nghĩ thông suốt, ngày mai lại nghĩ không thông? Cái này gọi là “giả Không”. Phật Pháp chân chính nếu đã nghĩ thông suốt, thì đó vẫn luôn là nghĩ thông suốt. Giả Không thì quý vị sẽ không thể Kiến đạo (Kiến đạo là dùng con mắt trí tuệ chân chánh, kiến giải ngay thật mà nhận ra tính chất khổ, bất tịnh của cuộc đời, và sự an lạc, giải thoát trong đời sống đạo hạnh).
Thực sự Kiến đạo đó là, lấy một ví dụ đơn giản, người học Phật nhìn thấy Phật Pháp rồi đúng không? “Phật Pháp có thể làm cho chúng ta giải thoát, Phật Pháp có thể làm cho chúng ta tiêu tai giải nạn, có thể làm cho chúng ta theo Quán Thế Âm Bồ Tát nổ lực tu tâm, Phật Pháp thật tốt biết bao!”. Kiến đạo rồi đúng không? Đã nhìn thấy Phật Pháp. Nhưng quý vị có Tu đạo chưa? Kế tiếp chính là Tu đạo. Quý vị nhìn thấy rồi, nhưng quý vị chưa tu, cho nên Kiến đạo và Tu đạo là hai cảnh giới khác nhau. Cũng giống như rất nhiều người, khi quý vị hỏi họ “Bạn có tin Phật không?”, “Tôi tin”, “Vậy bạn có niệm kinh, có thờ Phật không?”, “Tôi không thờ Phật, không niệm kinh, nhưng tôi tin Phật”, đây chính là sự khác biệt giữa Kiến đạo và Tu đạo. Thực sự Kiến đạo, đó là biết điều này tốt, thì quý vị phải làm nó. Cảnh giới Tu đạo dùng ngôn ngữ hiện đại mà nói, chính là trong kinh Phật gọi là “vị” (vị của từ vị trí), ví dụ như “Có vị trí này hay không? Có cái ghế này hay không?)”. Kiến đạo là quý vị phải lý giải Phật Pháp, sau đó quý vị lý giải mục đích của Phật Pháp chính là phải Tu đạo, nhưng tu và không tu, lý giải rồi mà vẫn chưa tu, là tầng thứ khác nhau, là hai vị trí khác nhau, chính là “phẩm vị” mà chúng ta gọi (thượng đẳng thượng phẩm, thượng đẳng trung phẩm, thượng đẳng hạ phẩm). Giống như lúc chúng ta ở trường học, người bạn học này biết tốt xấu, nhưng người bạn này không làm việc tốt, cũng không làm việc xấu. Nếu người bạn học này biết tốt xấu rồi, khi có chuyện xấu xảy ra, bạn ấy liền đứng lên chống lại những điều xấu đó, chuyện tốt bạn ấy cũng lao vào làm. Điều này có nghĩa là một bên là Kiến đạo và một bên là đang Tu đạo.
Sư phụ đã giảng cho mọi người hiểu về Kiến đạo, Tu đạo, tiếp theo gọi là “Chứng đạo”, nghĩa là chứng minh đạo này là đúng. Chứng đạo, là quý vị phải Kiến đạo và Tu đạo đã viên mãn rồi, thì quý vị mới có thể chứng được đạo. Điều đó có nghĩa là gì? “Hôm nay tôi đã tin vào Bồ Tát, sau đó tôi lại thật thật tại tại tu hành, khi tôi tu hành, tôi đã đạt được sự viên mãn, tôi đã chứng được Không tánh, tôi đã chứng được Phật đạo và tôi đã chứng ngộ rồi”, bởi vì sự tu tập của quý vị, cho nên mới có thể Chứng đạo; Bởi vì sự tu tâm của quý vị, nên
quý vị mới có thể hiểu được chân đế của Phật Pháp: “À! Thì ra là như vậy”, đây chính là Chứng đạo. Cho nên chúng ta học Phật tu tâm chính là phải từng bước từng bước một chậm rãi mà đi.
Sư phụ nói cho mọi người biết, Kiến đạo thực ra không khó, quý vị nhìn người khác đang khấu đầu quỳ lạy, niệm kinh, có người nói “rất tốt, học Phật rất tốt”, quý vị đã Kiến đạo rồi đúng không? Khi Kiến đạo, có người bảo: “Bạn tu tâm đi, bạn tu đạo đi”. “ôi, phải dậy sớm… tôi phải đi làm, còn có rất nhiều việc phải làm”, và cảm thấy Tu đạo rất khó. Đến khi dần dần biết đọc kinh rồi, Tu đạo rồi, thì Tu đạo ở đây sẽ không khó nữa. Làm sao có thể Thành đạo sau khi tu hành một thời gian dài đây? Thành đạo lại ở khó rồi, “Làm sao tôi có thể thành công làm Bồ Tát, tôi tu cả buổi sao vẫn như cũ, thói hư tật xấu càng tu càng nhiều”, bởi vì những thói hư tật xấu này đều là từ quá khứ của quý vị, bởi vì những vấn đề này đều là của quý vị đã mang theo nó từ vô thỉ kiếp, dần dần quý vị sẽ bắt đầu nhận ra tại sao thành đạo lại khó đến thế. Vậy thì trải qua cả đời nỗ lực và tu sửa không ngừng, tu càng về sau, thì thành đạo đến cuối cùng cũng không khó. Bởi vì hôm nay quý vị có thể làm như một vị Bồ Tát, thì quý vị đã thành đạo rồi, đúng không? Cũng không khó đúng không? “Hôm nay ta làm Bồ Tát một ngày, làm Bồ Tát một tháng, ta làm Bồ Tát một năm”. Cuối cùng Hành đạo khó, tại sao? Bởi vì quý vị không kiên trì đến cùng, “hành” là kiên trì thực hành. Hôm nay quý vị có thể làm Bồ Tát một ngày, nhưng vài ngày sau quý vị lại trở về với cảnh giới phàm trần, cho nên khó hành được đạo.
Nếu như nhập thế mà có tâm đại từ bi, tức là người học Phật nếu ở thế gian với lòng đại từ đại bi của Quán Thế Âm Bồ Tát mà hành đạo — hành Bồ Tát đạo. Có một số người cảm thấy rất hạnh phúc, nhưng hầu hết sẽ cảm thấy đau khổ hơn. Bởi vì trước hết quý vị không thể làm cho người khác hiểu mình, nếu quý vị làm điều tốt thì người khác sẽ nói về quý vị. Lấy một ví dụ đơn giản, một số người đến chùa, khi quỳ lau sàn nhà, có người nhìn thấy và nói: “Ôi, như thế thì bạn sẽ thành Phật rồi?”. Hôm nay quý vị làm rất nhiều công đức người ta lại nói: “Ôi, bạn làm việc chăm chỉ, bạn như vầy là có thể trở thành Bồ Tát được rồi”. Đôi khi giúp đỡ người khác, người khác không hiểu quý vị, hãy nói xem quý vị có khó chịu không? Rất nhiều người quý vị muốn tốt cho họ, nhưng họ chỉ đơn giản là không nghe lời quý vị, thì quý vị nói xem Hành đạo này có khó không? Cho nên, nếu Bồ Tát muốn có thể hành được đạo, thì phải hy sinh bản thân, hy sinh tiểu ngã, đôi khi vì cứu người khác, sẵn sàng hy sinh lợi ích của bản thân. Hy sinh lợi ích của bản thân bao gồm cả thời gian và tiền bạc, đôi khi thậm chí phải giúp người khác gánh nghiệp, đôi khi còn bị người đời không
hiểu, họ còn muốn báng bổ quý vị, còn muốn mắng quý vị, còn muốn mỉa mai quý vị, tất cả mọi thứ, quý vị phải chuẩn bị sẵn sàng để hy sinh tất cả, như vậy mới gọi là “Hành đạo”, cho nên Hành đạo là khó nhất.
Sư phụ vừa mới giảng về năm bước tu tâm, Sư phụ bây giờ lại kéo mọi người quay trở lại để tiếp tục giảng giải. Điều đầu tiên được gọi là “Tư lương đạo”, nội dung ý nghĩa của câu này cũng giống như nghĩa đen của nó vậy. Tư này nghĩa là chi phí, là nguồn vốn. Ví dụ, làm kinh doanh có cần vốn không? Học Phật cũng cần phải đầu tư vô nó đúng không? Lương là nói đến mỗi người học Phật đều phải ăn, phải có lương thực đúng không? Muốn ăn cơm phải có lương thực, làm kinh doanh nhỏ phải có vốn, ăn một bữa ăn phải có lương thực, gọi là “Tư lương”. Nếu như muốn từ một người bình thường siêu phàm nhập thánh, làm một vị thánh, làm một vị Bồ Tát, bước đầu tiên là phải tu tập Tư lương đạo, chính là Tư lương vị — vị này chính là vị trí. Thí dụ, một người bình thường, xuất gia cũng được hay ở nhà tu hành cũng được, biết Phật Pháp “thật tốt, tôi có thể ngộ đạo thành Phật”, thì trước tiên người đó phải xem mình có đủ vốn để đạt được ngộ đạo hay không, nếu muốn tu thành Phật hoặc tu thành chánh quả. Người muốn thành Phật, thì phải hiểu Phật, vậy họ có cần vốn không? Có, có hai loại vốn tư lương (Nhị Chủng Tư Lương), một loại gọi là “Tư lương công đức”, loại còn lại gọi là “Tư lương trí tuệ”. Nói cách khác, khi quý vị muốn được thành Phật, thành Bồ Tát hay thành thánh nhân, thì quý vị hãy xem mình có phúc khí hay không, có đạo đức hay không. Người nói dối có được cho là người có đạo đức không? Những người lừa dối người khác có được cho là người có đạo đức không? Loại người không có đạo đức như vậy, theo thời gian họ có được phúc khí không? Vì vậy, trước tiên quý vị cần phải biết bản thân mình có Tư lương phúc đức hay không! Nếu quý vị có phúc khí, có đạo đức, thì đây là bước đầu tiên để có đủ tư cách thành Phật. Bước thứ hai, là đôi khi phúc đức của quý vị không đủ, nếu có chút đạo đức hoặc có chút phúc khí, thì đầu thai vào một gia đình tương đối tốt, trong nhà có nguồn tài chính nhất định, về mọi mặt đều tốt hơn người khác, ít nhất còn có thể phóng sinh, như vậy tất cả những thứ này đều là phúc đức của quý vị; phúc đức có thể vun bồi, quý vị không ngừng làm những việc có đạo đức, thì đức hạnh của quý vị sẽ ngày càng nhiều, quý vị không ngừng giúp đỡ người khác, thì phúc khí của quý vị sẽ ngày càng nhiều, nó có thể được nuôi dưỡng. Tư lương, quy luật phúc báo chính là được gây dựng từ đó.
Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa, Nho gia, Đạo gia, Phật gia đều nói chúng ta là người tốt thì phải có đạo đức. Làm người thật sự rất khó, khó vô
cùng, làm người bây giờ có bao nhiêu người làm được người tốt? Gặp phải lợi ích của riêng mình, liền làm tổn hại đến lợi ích của người khác, liệu họ làm người có thể làm tốt được hay không? Hãy tu tâm học Phật, theo kinh Phật nếu công đức không đủ, con người dù có tu hành bao nhiêu cũng vô ích. Một số người tu cả đời, khi gặp được lợi ích của bản thân thì lập tức trở nên vô đạo đức; Có người tu cả đời, khoác lác ba hoa đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, cuối cùng đến khi đụng phải phước lành của mình thì, “Tôi không muốn ra ngoài, tôi không muốn tốn thời gian, tôi không muốn tài bố thí, pháp bố thí, vô úy bố thí”, người như vậy cả đời sẽ không biết nghĩ vì người khác, họ không có phúc đức, họ tu tâm không tốt. Sư phụ nói cho mọi người biết, học Phật đó là chân thật, bất kể làm việc gì, đừng nghĩ đến có thể nhận về được bao nhiêu, trước hết phải cân nhắc: “Tôi đã hy sinh cho người khác được bao nhiêu”, đây gọi là “Đạo đức”, loại người này sẽ có phúc khí. Quý vị càng giúp đỡ người khác nhiều thì trí tuệ của quý vị sẽ dồi dào ngay lập tức. Nguyên lý của quy luật này chính là: quý vị có thể tăng khả năng nhận thức của mình từ những sự việc của người khác. Khi quý vị giúp đỡ người khác một việc gì đó, có phải nó tăng cường khả năng nhận thức của quý vị không? Quý vị cũng sẽ biết được sự việc này là tốt hay xấu. Quý vị giúp đỡ người khác thoát khỏi phiền não, từ việc giúp đỡ người khác như vậy, từ sự kiên trì của người khác và sự kiên trì của chính mình, quý vị đã học được bao nhiêu kiên nhẫn và kiên trì cho bản thân. Làm một việc tốt cho người khác sẽ mang lại cho quý vị thêm một phần báo ứng tốt và trí tuệ hơn. Cho nên chúng ta học Phật, hành Bồ Tát đạo, chính là phải có tinh thần đại vô úy của Phật tổ, phải biết hy sinh loại tiểu ngã này, giúp đỡ người khác nhiều hơn, phải giúp người khác có được thiện duyên, quý vị giúp người khác, kết thiện duyên với người khác, thì phước báo của quý vị sẽ đủ đầy; quý vị làm điều tốt, thì sẽ thành đạo, thành Phật. Nền tảng rất quan trọng, đó gọi là “Tư lương đạo”.
Rất nhiều người nghe Phật Pháp, khi nghe người khác giảng thuật ngữ chuyên môn, thì lập tức nghe không lọt, vì nghe không hiểu, Sư phụ chính là đang dùng Phật Pháp bằng bạch thoại để giảng giải với mọi người những điều này. Tư lương đạo là đạo đức của chính mình. Học Phật phải có nền tảng, một người nói dối, một người hai lưỡi, một người ngay cả phẩm chất cũng không có, thì làm sao có thể trở thành Bồ Tát? Làm sao có thể đi tới con đường để thành Phật được đây? Điều này cần nguồn vốn của quý vị, bởi vì đây là lương thực của phúc đức. Thứ hai được gọi là “Tư lương trí tuệ”. Có phúc và trí chính là hai thứ Tư lương, bất kì người học Phật nào, cho dù có phúc khí nghe được Phật Pháp, họ cũng rất đạo đức và lương thiện, nhưng bên cạnh đó có rất nhiều người học
cả đời, nghe cũng nghe không hiểu Phật Pháp, hoàn toàn không thể hiểu được ý nghĩa thật sự trong Phật Pháp hơn nữa đối với Tư lương của trí tuệ trong Phật Pháp, đều không hiểu gì cả, thiếu trí tuệ, thì cũng không thể thành thánh hay thành Phật được. Cho nên trong Tư lương có hai loại, trong kinh Phật gọi là “Phúc Trí Nhị Nghiêm”, tức là người vừa có phúc khí lại vừa có trí tuệ, thì khi ở nhân gian họ sẽ sinh ra hai loại trang nghiêm, gọi là “Phúc Trí Nhị Nghiêm”. Phúc đức trang nghiêm, trí tuệ cũng sẽ làm cho quý vị trở nên rất trang nghiêm khi ở thế gian.
59. Không thấy bổn tánh tu pháp vô ích
Tập 59
KHÔNG THẤY BỔN TÁNH TU PHÁP VÔ ÍCH
(02/05/2020)
Sư phụ nói với mọi người, Tư lương phúc đức dựa vào bản thân tu tập một cách nghiêm túc. Hôm nay quý vị có đạo đức không tốt thì: “Tôi sẽ cố gắng hết sức để thay đổi nó”, và phải thay đổi một cách nghiêm khắc. Nếu quý vị có đạo đức tốt, người khác sẽ xem trọng quý vị; Nếu quý vị là người nói khoác, nói dối, thì ai mà tôn trọng quý vị? Quý vị muốn thành Phật, nhất định phải tu phước của mình một cách nghiêm khắc, “Tôi sẽ làm những việc thiện, nhất định phải giúp đỡ người khác”, thì quý vị sẽ nhận được sự giúp đỡ của người khác và quý vị sẽ có được phúc khí. Cũng giống như làm kinh doanh, quý vị cố gắng hết sức để hỗ trợ khách hàng và tạo ra những sản phẩm tốt, chất lượng cao, thì công việc kinh doanh của quý vị sẽ ngày càng hưng thịnh và quý vị sẽ kiếm được nhiều tiền hơn, chính là phải nghiêm khắc và kỷ luật đối với bản thân. Khi đó nếu quý vị quản lý tốt đạo đức của mình thì chắc chắn người khác sẽ đánh giá cao quý vị. Từ góc nhìn của đạo Phật, hôm nay dù quý vị thiền định, tụng kinh, phát nguyện, phóng sinh, lạy Phật hay lễ bái Phật đi chăng nữa, quý vị đều phải nghiêm túc và nghiêm khắc, phải chặt chẽ đối với bản thân, bởi vì quý vị đang tu Tư lương của phúc đức. Tư lương trí tuệ của quý vị tuy rằng còn chưa có, nhưng trước tiên quý vị phải có Tư lương về phúc đức. Nếu người này rất có phúc khí và có phước báo rất lớn, chẳng hạn có một số người được mọi người đối xử tốt, thì người này có phải là người có trí tuệ không? Người này rất có duyên, mọi người nhất định đối với họ rất tốt, người này có phải là người có trí tuệ không? Người này rất giàu có và có phúc khí, loại người này liệu có phải là người có trí tuệ không? Nếu kinh doanh tốt thì cũng biết cách làm hài lòng khách hàng, họ cũng có trí tuệ của họ. Phước báo ở đời – như có tiền, đôi khi có thể mua được phúc khí, nhưng quý vị phải biết rằng Tư lương thứ hai là Tư lương trí tuệ, trí tuệ và phúc đức không thể mua được bằng tiền. Sư phụ mong muốn mọi người có chánh tín chánh niệm, chính là để cho mọi người dùng tâm đạt tới trí tuệ của loại tri thức nội tâm – đó là kiến thức Phật học. Nếu quý vị đã có trí tuệ, thì quý vị sẽ hiểu được thế nào là “Tư lương phúc đức” và thế nào là “Tư lương trí tuệ”.
Bước đầu tiên trong quá trình tu tập của chúng ta là tu tập hai Tư lương này, sau khi tu tập xong mới có thể tu lên vị trí cao cấp. Người không có phúc đức, đạo đức, thậm chí không có thời gian để tu tâm và tụng kinh, chỉ biết làm việc chăm chỉ để kiếm tiền, thì người này có được phúc khí không? Không có. Nếu người này suốt ngày âm mưu chống lại người khác và không có đạo đức, liệu người đó có thể có được quả báo tu tâm không? Nếu hôm nay quý vị không có trí tuệ và
không thể từ bỏ thời gian và tiền bạc của mình thì quý vị sẽ không có được những Tư lương này. Theo kinh Phật, bước thứ hai là “Gia hạnh vị”, cũng chính là bao gồm tụng kinh, phát nguyện, phóng sinh, tham thiền và thiền định, bao gồm tất cả các pháp tu, chỉ khi trên hai con đường Tư lương này mới có thể làm được những điều này, đây được gọi là “Gia hạnh vị”. Nói cách khác, Tư lương phúc đức và Tư lương trí tuệ là nền móng để xây nhà, nếu không có nền móng này thì ngôi nhà không thể xây cao được. Bất kỳ vị trí gia hạnh nào cũng cần phải có nền tảng này.
“Gia hạnh” là gì, giống như đã tu tập rồi, làm tăng thêm năng lượng cho việc tu tập. Hôm nay tôi là người tu hành, nếu tôi ra ngoài làm thêm việc thiện, giúp đỡ người khác, thiền định, tụng kinh, phát nguyện, thì có phải là “gia hạnh” rồi không — có phải đã làm tăng trưởng hành vi của mình rồi không? Chẳng khác nào quý vị làm việc trong một nhà máy, nhà máy này hoạt động rất ổn, nếu quý vị tăng thêm sản phẩm và sản xuất thêm một vài loại khác nữa, chẳng hạn như nhà máy này ban đầu sản xuất vải len, nhưng bây giờ sản xuất thêm vải “Dacron” và các loại vải dệt len khác. Đó chính là một dây chuyền bổ sung sản xuất thêm các loại vải khác, còn gọi là Gia hạnh, tức là loại vải này được bổ sung thêm vào dây chuyển sản xuất dựa trên cơ sở nhà máy sản xuất ban đầu, được gọi là “Gia hạnh vị”. Nhiều người tu thiền và ngồi đó rất lâu, đầu óc đầy những tạp niệm, có người ngồi thiền cả buổi, có người học Phật và thuyết giảng thao thao bất tuyệt … thậm chí không có trí tuệ, trí tuệ và đức hạnh còn chưa đủ, trí tuệ đức năng vẫn chưa đủ và tiêu chuẩn đạo đức của bản thân cũng chưa đủ thì làm sao có thể tu đến Phật đạo? Vì vậy “Gia hạnh” là bước thứ hai. Những gì kinh Phật nói thực sự rất quan trọng. Sự tu hành của chúng ta thực sự đạt được thông qua hai đại A-tăng-kỳ kiếp, nhiều đời nhiều kiếp tu hành. Nói cách khác, nếu ngày nay quý vị có được sự tu hành như vậy, nếu quý vị có thể một kiếp tu thành trong đời này, thì không biết mấy đời phải trải qua bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ kiếp tức là không thể đếm được, từ vô thỉ kiếp đến nay đã có rất nhiều rất nhiều kiếp, không có con số nào có thể đếm được, là nhiều đời nhiều kiếp. Tại sao đời trước của rất nhiều người trong chúng ta lại phức tạp như vậy, tu bao nhiêu kiếp rồi mới tu đến được quả vị này.
Đài trưởng vừa mới giảng đến “Gia hạnh”, tu đến về sau chính là Kiến đạo vị, chỉ khi Kiến đạo thì mới có thể Ngộ đạo. Thiền tông đề cập trong “Lục Tổ Đàn Kinh”, Ngũ Tổ đã nói với Lục Tổ lúc bấy giờ rằng: “Nếu không thấy được bổn tánh của mình thì việc tu Pháp sẽ vô ích”. Nếu quý vị tu tâm không thể thấy được bổn tánh của quý vị, thì việc quý vị tu các Pháp khác nhau giúp ích được
gì cho quý vị? Đây chính là “Kiến đạo vị”. “Kiến đạo” không phải là thứ có thể nhìn thấy được bằng mắt, mà là nội tâm đã thật sự tìm được thức Amala (thức thứ 9), và cuối cùng là nội tâm Ngộ đạo.
Sau khi Kiến đạo vị thì mới bắt đầu Tu đạo vị, Kiến đạo rồi mới có thể Tu đạo. Chỉ khi sự Ngộ đạo trong Tu đạo khởi lên thì người ta mới có thể bắt đầu, từ Sơ Địa Bồ Tát đến Nhị Địa Bồ Tát … Đến Thập Địa Bồ Tát cứ thế mà tu lên. Đây là Tu đạo vị. Từng đạo từng đạo tu lên như vậy, kỳ thực chính là nếm trải.
Cuối cùng thành Phật là bước thứ năm, bước tu hành thứ năm gọi là “Cứu cánh vị”. Cứu cánh chính là tu tập đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đạt tới tối thượng rồi, sự viên mãn tối thượng, tối hậu rồi, vì bản thân không có chỗ tối hậu. Năm phương pháp tu hành này, phải trải qua ba đại A-tăng-tỳ kiếp tu hành, vô số kiếp, vô số kiếp, không biết trải qua bao nhiêu kiếp, vô số kiếp này không thể đo lường được, sau đó mới có thể trở thành Phật. Cho nên một người muốn thành Phật khó biết dường nào. Tại sao chúng ta gọi một người bình thường là “phàm phu”? Phàm phu chính là phàm nhân, tục phu. Nói cách khác, con đường trở thành Phật của một người phải trải qua năm trình tự này mới có thể cuối cùng tu thành Phật. Sau khi Kiến Đạo thì mới có thể Tu Đạo, chỉ khi Tu Đạo rồi mới có thể đạt tới Cứu cánh vị (vị trí tối thượng) và đạt tới tối thượng. Trong “Lục Tổ Đàn Kinh” từng đề xuất: Không rõ tự tâm, không thấy bổn tánh, tu pháp vô ích. Cũng chính là nói cho chúng ta biết rằng, ngay cả tâm của chính mình cũng tìm không thấy, không thể nhìn thấy bản chất thực sự của chính mình, và không thể thấy bản chất thực sự của mình, thì cho dù quý vị có tu bao nhiêu pháp đi chăng nữa, cũng sẽ không có ích lợi gì. Chỉ khi Kiến Đạo thì mới Tu được Đạo. Sư Phụ nói với mọi người rằng, Bồ Đề tự tánh, vốn thanh tịnh.
Trong cộng đồng Phật giáo, rất nhiều người có tranh chấp về các vấn đề Phật giáo. Trên thế giới có rất nhiều người tu hành, và nhiều người nói: “Tại sao tôi không thể tu tâm nếu tôi không hiểu được tự tánh?” Thực tế, có ba quan điểm về vấn đề này trong các tông phái Thiền. Có loại nói “Ngộ hậu khởi tu”, nghĩa là sau khi khai ngộ rồi mới bắt đầu tu hành, sau khi đã hiểu mới có thể tu, và sau khi đã Tu đạo mới có thể tu hành, nói cách khác sau khi quý vị đã Tu đạo, mới có thể bắt đầu tu hành vi của quý vị, tức tu tâm tu hành. Và còn có một cách nói khác là: “Tu trước rồi ngộ sau”, quý vị tu trước thì sau sẽ khai ngộ. Lại có cách nói khác là Tu đạo và Kiến đạo đi đôi với nhau. Luôn luôn có sự tranh luận về vấn đề này trong cộng đồng Phật giáo. Kinh Phật dạy: “Tự vị đắc độ, tiên độ tha nhân, Bồ Tát phát tâm. Tự giác dĩ viên, năng giác tha giả, Như Lai ứng thế”.
Trên thực tế, chính là cho chúng ta biết rằng dù ở khía cạnh nào, quý vị cũng phải tiến bộ cùng một lúc. Trong thời kỳ Mạt Pháp hiện nay, không có nghĩa là quý vị phải tu sửa mình trước rồi mới cứu người, nếu đợi đến khi quý vị tu sửa xong, rất nhiều người sẽ không đợi được quý vị cứu nữa. Quý vị cần phải, có bao nhiêu năng lực thì đi cứu bấy nhiêu người, trong lúc đang cứu người khác trước tiên quý vị phải tu Đạo, sau mới tu hành vi của chính mình. Dù thế nào đi nữa, dù quý vị Kiến Đạo hay đang Tu Đạo, thì cũng đừng nghĩ đến những điều này, nếu trong lòng quý vị không có tâm so đo và có sự cân bằng của Phật tánh trong tâm thì quý vị có thể tu thành Đại Đạo. Đối với Đại Bồ Tát cũng vậy.
Người học Phật cần phải lúc nào cũng tu sửa hai nguồn vốn của mình, Tư lương vị nhất định phải tu tốt, và phải có phước báu – một là Tư lương phúc đức, hai là Tư lương trí tuệ. Có thể hiểu được những Tư lương này, thì mới có thể có đủ tư cách để học Phật và tu tâm, đây là điều bắt buộc. Và khi quý vị tu đến một trình độ nào đó thì sẽ có công đức, Tư lương phúc đức, phước báu, và Tư lương trí tuệ của quý vị đều sẽ có được, rồi từ từ quý vị sẽ đi giúp đỡ người khác, đây gọi là “tự độ độ người”. Có những người không có phước báo, nếu bảo họ tu tâm, họ thường nói “Tôi không có thời gian để tu tâm, tôi bận, tôi phải nuôi sống gia đình”; chờ đến một ngày nào đó khi họ thật sự muốn nghỉ hưu và muốn tinh tấn tu hành, thì có thể tuổi thọ của họ cũng sẽ không cho phép họ tu hành nữa, vì nghiệp chướng và nhân quả mà bản thân họ đã tạo ra có thể mang lại cho họ những quả báo nhất định. Sư phụ bảo mọi người trước hết phải học thật tốt Tư lương đạo và Trí tuệ đạo, phải có trí tuệ thực sự, trí tuệ thực sự chính là Xả, dần dần sẽ càng ngày càng hiểu rõ, chỉ khi có vốn liếng mới có thể tự hành các phương pháp tu tập khác nhau, như thiền định, tụng kinh, phát nguyện và phóng sinh. Có người suốt ngày phóng sinh, tương lai họ có thể thành Phật, bởi vì họ rất từ bi, có người suốt ngày phát nguyện, mọi nguyện lực họ đều đạt được. Người này chính là nguyện hành Bồ Tát, và họ cũng có thể thành công — Đại Nguyện, Địa Tạng Vương Bồ Tát là Đại Nguyện Bồ Tát.
Niệm Phật, tu tâm, tu Giới Định Tuệ v.v.. hết thảy, trước hết phải Gia hạnh vị, trước hết phải có Tư lương đạo. Sau khi Gia hạnh, thì quý vị sẽ Kiến đạo vị. Bởi vì quý vị có nền tảng tốt, sau đó tu tâm, niệm kinh, phóng sanh, quý vị sẽ từ từ nhìn thấy được Không Tánh. Thực ra, sự trống rỗng không phải là một câu nói trống rỗng, bởi vì nó có cảnh giới. Rất nhiều người buông xuống được, nhưng không nhất định trống rỗng được; Rất nhiều người trống rỗng được, nhưng không nhất định buông xuống được. Tùy thuộc vào quý vị trống rỗng trong thời gian bao lâu, phải luôn trống rỗng mới có thể Kiến đạo vị. Sau khi Kiến đạo thì
bắt đầu Tu đạo vị (Ngày nay chúng ta thường nói “Cậu làm việc có tới nơi tới chốn chưa?”) thật ra chính là cái “Đạo” này, cái “Vị” này. “Tới” mà con người chúng ta ngày nay nói đến đạt tới, trên thực tế chính là “đạo vị” của Tu đạo. Nếu cả đời tu đến cuối cùng, không có Tu đạo vị, thì tánh Không cũng sẽ mất đi – tánh Không này chỉ là sự hiểu biết tạm thời về tánh Không, và việc tu hành của quý vị sẽ vô ích. Cho nên Phật Pháp nói “không thấy tánh Không, tu pháp vô ích”, tu đến về sau phải triệt ngộ, nhìn thấy tánh Không mới có thể tu pháp hữu ích. Mọi người đều biết Lục Tổ, Ngài cũng không xem kinh giáo, bởi vì Lục Tổ là Cổ Phật tái lai, tất cả những gì Ngài nói đều là để chúng ta minh tâm kiến tánh và khai ngộ. Mọi người đều biết Tu đạo vị, tu đến Đạo của Bồ Tát. Cuối cùng chính là Cứu cánh vị, thì mới có thể thành Phật.
Hy vọng mọi người phải hiểu rằng, nền tảng tu tâm của chúng ta là quan trọng nhất, nếu như ngay cả vấn đề nhỏ bé của quý vị cũng không muốn thay đổi, ngay cả nói dối, vọng ngữ, khởi ngữ, hai lưỡi, rất nhiều tật xấu nhỏ cũng không sửa được, thì đừng nói quý vị có thể tu thành, bởi vì quý vị nói chính bản thân quý vị tu thành cũng là vọng ngữ. Hy vọng mọi người nổ lực thật tốt, thay đổi chính mình bắt đầu tu tâm từ bản thân, nắm giữ thật tốt hai Tư lương đạo, nắm vững cho tốt hai Tư lương đạo, tuân thủ hai Tư lương đạo này một cách vô cùng nghiêm ngặt, khi đó quý vị sẽ được chúng sanh trang nghiêm và quý vị cũng sẽ trở thành Bồ Tát của nhân gian.
Hôm nay, cuối cùng Sư phụ sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện thời bấy giờ của Đức Phật.
Đức phật và đại Tỳ-kheo, gồm 1250 người đã đến Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên. Lúc đó có một vị Tôn giả (người giàu có, có địa vị, đều gọi là Tôn giả) sở hữu vô số vàng bạc châu báu và khối tài sản khổng lồ. Mặc dù ông rất giàu có, nhưng vô cùng keo kiệt, vẫn không biết đủ. Ông không những không nuôi dưỡng phụng sự cha mẹ, ngay cả vợ và nô lệ đi theo ông cũng ăn không no, mặc không ấm, ông càng không giao lưu với người thân, bạn bè của mình, chính là vì sợ người khác hỏi ông vay tiền hay vay mượn tài sản. Sau khi vị Tôn giả này qua đời, do không có con cái kế thừa gia sản, cho nên lúc bấy giờ tất cả tài sản của ông đều thuộc sở hữu của quốc gia.
Tỳ-kheo đem chuyện này kể với Đức Phật, và Đức Phật liền nói với chư Tỳ kheo. Đức Phật nói: “Vị Tôn giả này chẳng những bủn xỉn keo kiệt ở đời này, không hành bố thí, mà các đời quá khứ của ông cũng vậy” (Đức Phật thích nói
về nhân quả. Sau hơn 2500 năm, chúng ta vẫn luôn thích nghe những câu chuyện mà Đức Phật đã kể thời bấy giờ).
Đức Phật kể rằng: “Trước kia trên núi Đại Hương có một loại cây lá lốt, có một con chim sống ở trên cây, tên của con chim này gọi là “Ta Sở Điểu” (nghĩa là nên thuộc về ta sở hữu), quả của cây lá lốt rất tốt, có tác dụng thực trị (có chút giống như thành phần thuốc Đông y, ăn quả của cây lá lốt, rất nhiều bệnh sẽ khỏi), khi trái chín, có rất nhiều người lên núi để hái trái. Con chim Ta Sở Điểu này đã ở trên cây cả ngày, nó cảm thấy rằng cây này là của nó, nên kêu lên: “Sao các người có thể đến nhà của chúng tôi để thu hoạch cây của tôi!”. Nó hét lên dữ dội: “Trái cây này là của tôi, các người không được đến hái đi. Trái cây là của tôi, mọi thứ trong nhà tôi, sao các người có thể đến hái? Cuối cùng thì mọi người đều biết kết quả rồi đấy, làm sao con người có thể để ý đến tiếng kêu của nó? Mọi người vẫn hái, không ngừng lấy, không ngừng thu gom, con chim Ta Sở Điểu này liên tục gào hét lên: “Đừng lấy đồ của tôi, các người mau dừng lại! Đừng có lấy đồ của tôi, các người mau dừng lại!”. Người ta vẫn hái như thường, mặc cho nó có gào thét buồn bã thế nào cũng không ai dừng tay việc họ đang làm. Từng quả từng quả bị hái xuống, con chim Ta Sở Điểu không ngừng kêu gào: “Mọi thứ trong nhà tôi đều bị người ta lấy hết rồi”, tiếng khóc của nó càng lúc càng nhỏ, cho đến khi nó chết vì kiệt sức. Vài kiếp sau, bởi vì ông đã từng bố thí trong nhiều kiếp, cho nên trong kiếp này ông lại có được của cải, tuy nhiên, tính keo kiệt mà ông đã ghi lại trong Bát thức điền (thức thứ 8 ở các kiếp trước đã khiến cho vị Tôn giả này lại bắt đầu keo kiệt ở kiếp này”.
Đức Phật liền nói với các vị Tỳ kheo: “Này các Tỳ kheo, con chim Ta Sở Điểu lúc bấy giờ chính là Tôn giả tham lam hiện tại (Con chim lúc đó chính là vị Tôn giả tham lam vô cùng này), Đức Phật tiếp tục nói: “Vì vậy, mọi người nên thực hành bố thí, vứt bỏ những thứ yêu thích và loại trừ lòng tham, đồng thời luôn giữ cho tâm hồn mình trong sạch, không tì vết”. Chư vị Tỳ kheo nghe Đức Phật nói, ai nấy đều vui mừng, y giáo phụng hành.
Câu chuyện này chính là nói cho chúng ta biết, trên thế gian này đâu có thứ gì vĩnh viễn là của ta? Quý vị có thể ở trên cây này, nhưng nó không thuộc về quý vị. Cho dù là đồ vật có được, thời gian lâu dần cũng sẽ hư hỏng. Vì vậy trên thế giới này, vạn sự vạn vật đều sinh diệt vô thường. Hãy suy nghĩ xem có thể có được những thứ gì mãi mãi? Đều ở trạng thái vô thường. Quý vị đi đâu, có phải sắc thân đi theo quý vị không? Quý vị đi đâu, có phải miếng thịt trên thân thể
này đi theo cùng quý vị không? Ngay cả sắc thân sớm chiều ở chung với quý vị, đến cuối cùng cũng có ngày bại hoại.
Trong quá trình ngắn ngủi của sinh mệnh, tại sao không nắm lấy nhân duyên để tu thiện và hiểu rằng, cho dù trên thế gian có chuyện gì xảy ra, hãy chia sẻ với mọi người, biết cách chia sẻ, quý vị sẽ có được niềm vui trong chia sẻ. Phật Pháp cũng là dựa vào chia sẻ, chúng ta làm người cũng vậy. Có thức ăn ngon mọi người cùng nhau ăn, sẽ càng vui hơn. Mọi người cùng nhau học Phật Pháp, mọi người cùng nhau tinh tấn. Mỗi ngày sống trong Phật pháp, một ý niệm, một tư duy, một câu nói, một hành vi không thể tách rời Phật, thì quý vị nhất định sớm muộn gì cũng sẽ thành Phật. Hôm nay Sư phụ nói với mọi người, mọi người ở nhân gian học Phật, sau này mọi người sẽ thành Phật. Giống như chúng ta bây giờ, ở nhân gian, bây giờ quý vị học vẽ tranh, sau này quý vị có thể trở thành họa sĩ. Hôm nay ở nhân gian quý vị tận lực nấu ăn, có thể sẽ trở thành một người đầu bếp nổi tiếng. Ngày ngày thiết kế nhà, quý vị có thể trở thành một nhà thiết kế rất nổi tiếng. Ngày ngày niệm kinh, quý vị nhất định sẽ trở thành một vị Bồ Tát. Ngày ngày làm việc tốt, quý vị sẽ trở thành một người tốt. Ngày ngày tham sân si mạn nghi, quý vị sẽ trở thành một phàm nhân khó tả. Ngày ngày làm hại người khác, âm mưu người khác, quý vị sẽ trở thành quỷ ở nhân gian. Thế nên chúng ta học Phật chính là phải học cho tương lai, mỗi một hành động chúng ta làm, mỗi một bước chúng ta đi đều là suy nghĩ cho tương lai. Phật tương lai và Bồ Tát tương lai là hình thành như thế nào? Chính là dựa vào ngày hôm nay chúng ta từng bước một học Phật mà thành.
Hôm nay bài giảng dành cho đại chúng xin tạm dừng tại đây, lần sau sẽ tiếp tục chia sẻ cùng đại chúng về “Bạch Thoại Phật Pháp”.