Bạch Thoại Phật Pháp – Quyển 3
(白话佛法三)
Lời Mở Đầu
BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP
Bài giảng Video
Quyển 3
Tác giả: Đài Trưởng Lư Quân Hoành
LỜI MỞ ĐẦU
Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm. Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày. Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí. Khởi dậy Phật tánh của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta. Mời quý vị đón đọc bài giảng Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư.
Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:
“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”.
60. Thấu hiểu là giải thoát
Tập 60
THẤU HIỂU LÀ GIẢI THOÁT
(06/05/2020)
Được rồi, hôm nay Đài trưởng sẽ tiếp tục giảng với đại chúng về “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Trong quá trình học Phật của chúng ta, trong Phật giáo có tứ môn (tức là bốn cửa) “Tín-Giải-Hành-Chứng”: Tín Môn, Giải Môn, Hành Môn, Chứng Môn, đây là quá trình và tiến trình quan trọng nhất mà người Phật tử nên nắm vững khi học Phật. Sư phụ dần dần sẽ nói với mọi người về những nguyên tắc cơ bản của Phật học, để mọi người có thể tiến bộ hơn trong việc học Phật.
Tín, thực ra là chúng ta phải tin vào Phật pháp trước. Tin vui theo Phật pháp, tin Phật, tin Tam Bảo, thì chúng ta sẽ có được lòng tin. Giống như những gì chúng ta làm bây giờ, khi quý vị đã tin rồi, thì quý vị mới chịu làm. Quý vị không tin người khác, nếu họ bảo quý vị làm điều gì, quý vị sẽ không làm. Hôm nay chúng ta tin vào Tam Bảo Phật Pháp Tăng, chúng ta tin rằng có Bồ Tát sẽ phù hộ cho chúng ta, chúng ta tin rằng Phật pháp có thể làm cho chúng ta phá mê khai ngộ, chúng ta tin rằng Tăng đoàn đại diện cho hình ảnh của Đức Phật, đại diện cho hình ảnh của mỗi người giữ giới trong chúng ta, vậy thì khi chúng ta đã tin, thì chúng ta sẽ học. Vì vậy, niềm tin là Chánh tín.
Điều quan trọng thứ hai trong phật giáo là “Giải”. Giải là gì? Nó có nghĩa là sự hiểu biết của quý vị về một sự vật là rất quan trọng. Ví dụ nếu quý vị không hiểu một điều gì đó, quý vị sẽ không bao giờ làm được việc đó. Nếu ai đó nói một câu, quý vị cần phải hiểu đúng không? 2500 năm trước, Đức Phật để lại cho những người đệ tử chúng ta dòng pháp Phật vàng son, chính là để cho chúng ta hiểu rõ và biết rõ được chân nghĩa của “Khổ-Không-Vô thường” trong thế giới này: hết thảy đều là vô thường và không dài lâu; thế giới này là đau khổ. Cho đến cuối cùng nó sẽ trống rỗng và không có gì cả. Khổ-Không-Vô thường là nói cho chúng ta biết sự thật, vậy thì quý vị phải hiểu nó, đúng không? Vì vậy, “Giải” là rất quan trọng. Một khi quý vị đã hiểu rõ ràng rồi, quý vị sẽ đạt được
giải pháp chính trực chân chính của Phật lý – giải thích nó một cách chính xác. “Giải” thứ hai chính là sau khi tin tưởng, điều quan trọng là phải tiếp thu và hiểu được giáo nghĩa của Phật pháp.
Và thứ ba là “Hành”. Sau khi quý vị hiểu được đạo lý, thì có phải quý vị cần y theo pháp mà tu hành không? Hành – chính là đang làm Bồ Tát. Khi tôi biết được rồi, người khác nói với tôi, tôi đều hiểu được, tiếp theo tôi phải thực hành và làm nó, làm giống như Bồ Tát, đây chính là Hành. “Hành” thực ra là một cụm từ mà người học Phật chúng ta thường nói đến, đó là “tu hành”. Tu cái gì? Quý vị có hành vi nào hàng ngày không? Có. Có một số việc quý vị làm không đúng lý không đúng pháp cũng gọi là hành vi, đúng không? Đúng. Vậy chúng ta có nên sửa nó không? Nên sửa. Tiếp theo đó chính là cần sửa nó trong hành vi của quý vị. Vì vậy tu hành y theo pháp, có nghĩa là học Phật và tu hành một cách như lý, như Pháp, chính là điều thứ ba mà chúng ta nói, đó là phải “Hành”.
Điều thứ nhất là cần phải tin tưởng, điều thứ hai là có thể hiểu được Phật pháp, sau khi hiểu rồi thì phải thực hành, và điều cuối cùng là phải “Chứng” được. Bởi vì sau khi Hành xong thì quý vị sẽ có được sự cảm ngộ, và sau khi Hành xong thì quý vị sẽ có được sự hiển linh. Tại sao nhiều người học Phật? Bởi vì tôi tu hành theo Phật rồi và làm rất nhiều việc của Phật, không ngờ rằng lại có thể quảng kết thiện duyên {hình thành được nhiều mối quan hệ tốt đẹp} và tôi thực sự đã hiểu được. Đây là điều mà những người học Phật nên hiểu, nếu hôm nay quý vị tu hành theo Phật và làm những việc giống như một vị Bồ Tát thì sẽ có nhiều mối quan hệ tốt đẹp, mọi người sẽ đối xử tốt với quý vị, quý vị sẽ rất hạnh phúc, “Bạn xem sau khi tôi học Phật, mọi người đều đối với tôi tốt như vậy, mọi người đều quan tâm đến tôi như thế đó”, thì có phải là quý vị đã kiểm chứng được sự chứng ngộ của Phật pháp rồi không? Và quý vị hiểu được: “Tôi sẽ tiếp tục tu hành, bởi vì tôi đã kiểm chứng rằng đây là con đường đúng đắn, và tôi sẽ tiếp tục thực hành”. Đó chính là đã chứng đắc quả vị, bởi vì nếu quý vị kiên trì, thì nó sẽ ra quả. Quý vị trồng cây để sinh trái, người khác nói với quý vị rằng sẽ mọc ra cây táo, tuy quý vị không nhìn thấy nhưng khi quý vị trồng nó có phải là đã “Hành” rồi không? Trước tiên, quý vị tin vào cái cây này, nó có thể mọc ra táo. Sau đó xét về mặt lý thuyết, kết cấu, môi trường sinh trưởng, ánh sáng mặt trời và việc tưới nước của cây này, giúp cho quý vị có khả năng biết được nó có thể mọc ra táo. Thứ ba là phải Hành, bắt đầu xới đất, tưới nước và đón nắng v.v.. phải làm rất nhiều công việc, đây chính là Hành. Sau khi đã thực hành, nó vẫn chưa ra quả. Vậy thì đến cuối cùng đó là Chứng, tức là khi quý vị thấy quả táo mọc ra và có được quả này rồi thì gọi là Chứng quả. Vì vậy, Phật giáo cũng giống như nhiều nguyên lý trong nhân gian chúng ta, chẳng hạn như trồng thực vật và các nguyên lý chính xác khác, đều là giống nhau.
Tín-Giải-Hành-Chứng. Thực ra, “Tín”, nói một cách đơn giản hơn, có nghĩa là người học Phật phải xây dựng niềm tin cho chính mình. Tôi tin nên tôi mới học Phật. Bởi vì quý vị có niềm tin chân chính vào Phật giáo, “Tôi tin vào Phật, tin vào Quán Thế Âm Bồ Tát nhất định có thể cứu tôi”. Khi đó quý vị đã lập được chánh tín vào cội nguồn của Phật giáo. Cội nguồn của Phật giáo là gì? Phật giáo đến từ đâu, quý vị cần biết nguồn gốc của niềm tin chân chính mà Phật giáo mang lại cho quý vị. Bởi vì Đức Phật giảng dạy là chánh Pháp nên tôi tin rằng Giáo Pháp mà Đức Phật mang đến cho chúng ta có thể khiến chúng ta giác ngộ và giải thoát. Tiếp theo quý vị sẽ tìm thấy được một nhân duyên lớn để Phật đến nhân gian, bởi vì Đức Phật đến nhân gian để hoằng dương Phật pháp, nhân duyên lớn nhất của Ngài đến nhân gian chính là muốn cho tất cả tín chúng, tất cả chúng sinh chúng ta “Khai Phật Tri Kiến”. Cái gì gọi là “Khai Phật Tri Kiến”? Để hiểu được lời dạy của Đức Phật, chúng ta phải phá mê khai ngộ. Một khi quý vị thoát khỏi những phiền não trong tâm trí, thì quý vị có thể nhìn thấy Phật Pháp. “Tri” có nghĩa là biết kiến giải của mình là đúng hay sai. “Giải” thực chất là nói đến sự hiểu biết và tri kiến về Phật giáo. Quý vị muốn hiểu được Giải, có phải cần kết hợp tình huống thực tế để lý giải Phật pháp hay không, nếu
quý vị áp dụng đạo Phật vào cuộc sống thì nó mới phù hợp với cuộc sống của quý vị, nếu trong nhà có mâu thuẫn, quý vị biết cam chịu nhẫn nhục, thì mâu thuẫn sẽ dần dần được hóa giải, một khi thấy Phật pháp này đã được chứng minh là tốt thì quý vị sẽ minh lý và minh bạch nó, nên “Giải” có nghĩa là hóa giải và lý giải.
Chữ “Hành” thứ ba chính là những gì Sư phụ đã giảng trước đó với mọi người, muốn làm một việc gì, quý vị có cơ sở lý luận, nhưng quý vị phải làm mới được. Ví dụ như quý vị có làm nhiều việc ở nhà đi chăng nữa, cho dù lý thuyết gì quý vị cũng hiểu, nhưng nếu quý vị không thực hành, thì quý vị sẽ không thể thực sự hiểu được. Giống như một người nói: “Tôi biết lái xe. Lái xe rất dễ. Chỉ cần kéo cái này và đạp phanh bên kia. Muốn dừng thì nhấn bàn đạp trái. Muốn lái xe thì nhấn bàn đạp phải”. Nếu quý vị chưa từng lái xe, quý vị thử theo lý thuyết này xem? Khi quý vị lên xe thì sẽ khác. Cho nên cái “Hành” này là phải hiểu, sau khi hiểu rõ triệt để về Phật pháp rồi, phải dùng nó trong cuộc sống, áp dụng nó vào chánh kiến để minh lý. “Chánh kiến minh lý” tức là hiểu rõ, thật sự chánh kiến hiểu rõ cái đạo lý này, hơn nữa áp dụng Phật lý này vào mỗi sự việc trong cuộc sống của quý vị, thì quý vị đã “Hành” rồi. Hôm nay tôi ăn cơm, tôi phải “cảm ân”, đó chính là hành Phật. Hôm nay tôi nấu ăn: “Hôm nay tôi biết tôi phải lao động và tôi phải giúp đỡ người khác”. Cho dù ngủ tôi cũng phải mơ một giấc mơ đẹp, bởi vì tôi học Phật tu tâm, “con mong Bồ Tát gia trì cho con, ngày mai có sức lực đi trợ giúp nhiều người hơn nữa, bởi vì con cần được bổ sung năng lượng cho thân thể, nên con cần phải ngủ ngon, con xin Bồ Tát phù hộ cho con”. Vì vậy, khi đề cập đến các vấn đề ở nhân gian, mỗi một bước quý vị đều phải như lý như pháp.
“Chứng” có nghĩa là tự mình trải nghiệm và nghiệm chứng đạo lý của Phật pháp, xem liệu tất cả các con đường quý vị đi có đúng hay không. Quý vị phải hiểu rằng quý vị không thể hiểu được hàm ý bên trong bằng cách dựa vào người khác để nói với quý vị. Chỉ khi quý vị tự mình kiểm chứng và trải nghiệm nó,
thì quý vị mới có thể hiểu được ý nghĩa thật sự của điều này. Đối với nhiều đứa trẻ, dù cha mẹ có nói với chúng bao nhiêu lần rằng “Con ơi, nếu con như vậy thì con sẽ phải chịu khổ cho mà xem”, nó chưa từng đau khổ qua, không có cảm giác nên nó sẽ không hiểu, chỉ khi nó gặp đau khổ hay hạnh phúc và chỉ khi nó cảm nhận được điều đó thì nó mới có thể tin, hiểu và làm được. Vậy nên làm sao để Phật Pháp có thể hòa nhập vào nhân gian thì phương pháp để tu hành là rất quan trọng.
Mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống, sau khi quý vị học được bốn cửa: Tín-Giải-Hành-Chứng, quý vị sẽ dần dần hiểu ra: Mọi thứ trong nhân gian của chúng ta chỉ là trải nghiệm và cảm giác, không có cách nào làm chủ được nó. Một điều vô cùng hạnh phúc mà chúng ta có được khi còn nhỏ, bây giờ đã tan biến, không còn nữa. Một bữa tiệc (party), hoặc đã từng giành được một giải thưởng hay một chức vô địch nào đó, tất cả mọi thứ đều không thể có được nó mãi mãi, vì vậy không có gì là mất mát cả, đó chỉ là sự trôi qua của cuộc đời mà thôi. Giống như chúng ta đã từng đến rất nhiều nước, quý vị đã từng đi đây đi đó chưa? Đã từng. Đã từng đi du lịch qua chưa? Đã từng. Quý vị cảm thấy vui không? Đã quên rồi. Có rất nhiều người như vậy, cuộc sống cũng vậy, chỉ là trôi qua mà thôi. Vì vậy, mất hay có không quan trọng, đó là một loại cảm giác. Sự thất bại của con người cũng không có gì quan trọng. Nhưng có rất nhiều người khi làm sai lại vướng mắc vào điểm này, nghĩa là không dám thừa nhận. Thực tế thì họ đang vướng chấp vào việc “tôi thất bại rồi”, trên thực tế, sau vài tháng, một năm, hai năm, sự việc này vốn đã là một loại trí giác, cảm giác, và nó đã không còn nữa, dù đã từng thất bại hay sở hữu cũng hoàn toàn không thành vấn đề, chỉ là thêm một kinh nghiệm mà thôi. Cho nên, Sư phụ nói với mọi người, hãy nhìn đời bằng trái tim chân thành, tất cả những gì được mất, danh và lợi đều là một loại “quá nhãn vân yên” (phù du) mà thôi.
Giống như phong cảnh khi chúng ta đi du lịch, chúng ta chưa từng đến Paris nước Pháp và bị choáng ngợp bởi tháp Eiffel hùng vĩ ở Paris, chúng ta đã xem
rất nhiều bộ phim, rất muốn lên đó tham quan. Đã đi đến được nơi đó rồi, xếp hàng rất dài, sau khi đi lên tháp, bị một cơn gió thổi, nên vội vàng đi xuống, tan biến rồi, không tìm thấy nữa, hết rồi, chỉ là một cảm giác mà thôi. Vậy tại sao con người lại phải vướng vào một điểm nào đó không chịu thừa nhận lỗi lầm của mình? Trên thế gian này, đừng cố vượt qua ngưỡng cửa mà quý vị không có khả năng vượt qua. Nếu quý vị vượt qua nó, đó là một cánh cửa, nhưng nếu quý vị không thể vượt qua nó, đó là một trở ngại. Đừng cố lấy thứ mình không cầm được, cho dù có được nhất thời, cũng sẽ mất đi. Hiểu được đạo lý này, thì trên đời này có cái gì có thể đi tranh, có thể đi cướp, có thể đi đoạt đây?
Trên đường đời, có đôi khi trước giờ chúng ta còn chưa hiểu, hoặc vẫn còn chưa biết được rốt cuộc là chuyện gì xảy ra, lúc đứng ở ngã tư hay ngã ba đường, đi sai một bước, có thể ảnh hưởng đến tiền đồ cả đời của chúng ta. Người học Phật vì sao có trí tuệ, chính là vì chúng ta dùng ngộ tánh trong tâm của mình để nhận thức chân lý của thế giới này khi đưa ra những lựa chọn. Khi đó con người chúng ta mới có thể dần dần biết được, cả đời này có đôi khi cảm giác nhân sinh rất thống khổ, vì sao? Bởi vì quý vị không thể chịu đựng được những lời dối trá của người khác nên quý vị mới tức giận. Đôi khi quý vị phải chịu đựng sự dối trá, quý vị phải chịu đựng sự đối xử miễn cưỡng của người khác đối với quý vị, phải chịu đựng được sự lừa dối của người khác đối với quý vị. Đôi khi, để sống, quý vị phải quên đi những tổn thương mà quý vị đã từng trải qua. Dần dần, quý vị sẽ nhận ra rằng sự kiên trì đôi khi không mang lại cho quý vị thành công cùng chiến thắng. Từ bỏ không có nghĩa là nhận thua và thất bại. Hãy cho bản thân một khoảng không gian vòng quanh, để bản thân lùi lại một bước, suy nghĩ về điều đó, dừng lại một chút và suy nghĩ xem cuộc sống sẽ như thế nào. Quý vị phải học cách chờ đợi, học cách nắm bắt chân lý, học cách điều chỉnh tính cách và khí chất của mình. Theo chân chư Phật và Bồ Tát cho tốt để tìm được năng lượng tích cực, tìm ra trí tuệ và Bát nhã của thế gian.
Thứ duy nhất quý vị có trong đời mà sẽ không bao giờ đánh mất đó là “Dĩ giả loạn chân” {làm giả như thật}. Quý vị cũng không thể coi sự thật và sự giả dối là tuyệt đối. Đứa trẻ này là con của quý vị đúng không? Đúng vậy. Nó có vẻ là thật thì phải? Phải đó. Thực ra nếu mất đi rồi thì đó không phải của quý vị nữa, là giả, đó là duyên phận. Nó đã từng có mặt rồi và nó sẽ rời khỏi, sẽ kết hôn rồi về nông thôn hoặc đi đến những nơi nào đó mà nó cần đến. Quý vị không thể coi duyên phận nhân gian này là vĩnh cửu, là tuyệt đối, là chân thực, để phân biệt nó, để hình dung nó, bởi vì những thứ này đều là hư ảo, bởi vì “Sắc tức thị không, Không tức thị sắc”.
Tất cả mọi hiện tượng, giới Phật giáo đều cho rằng bản chất của nó — Tánh của chúng là Không, tức là bản chất của chúng là trống rỗng. Khi con người chúng ta đến thế giới này, ngay cả thân xác của quý vị cũng không thể ở bên cạnh quý vị mãi mãi, nó sẽ rời bỏ quý vị, chỉ có linh hồn là của quý vị. Khi cá nhân này chết đi, nhục thể bị hủy hoại, nó sẽ rời bỏ quý vị. Có lẽ nhiều người không coi trọng khi Đài trưởng nói điều này, cảm thấy: Thân thể này không phải là vĩnh viễn đi theo tôi sao? Xin hỏi, nếu một bộ phận nào đó trên cơ thể quý vị bị hoại tử và được phẫu thuật cắt bỏ, thì đó có phải là mảnh thịt này, cánh tay này, hay cái chân này không còn là của quý vị nữa không? Nhiều bệnh nhân tiểu đường, chân bị hoại tử, phải cắt bỏ, bằng không sẽ bị viêm nhiễm và ảnh hưởng đến sức khỏe tổng thể, nên cái chân này không còn là của họ nữa, không thể ở bên nhau mãi mãi. Vì vậy, bất kỳ sự chấp trước hay tham luyến nào đều có nghĩa là không hiểu rằng “Sắc tức thị Không”.
61. Ngũ trược phiền não chính là nghiệp chướng
Tập 61
NGŨ TRƯỢC PHIỀN NÃO CHÍNH LÀ NGHIỆP CHƯỚNG
(06/05/2020)
Bất kỳ sự cố chấp hay tham luyến nào, đều có nghĩa là không hiểu rằng “Sắc tức thị Không”. Sau khi con người được sinh ra, “Không tức thị Sắc” đúng không? Khi đến nhân gian, chẳng có gì cả: không họ hàng, không bạn bè, không quần áo, ngay cả cha mẹ cũng chỉ là tạm thời, đến nhân gian mới vay mượn, tất cả đều trống rỗng. Sự trống rỗng này lại trở thành “Sắc” – rất nhiều thân quyến, bạn bè, tình thân và còn có cả cương vị công tác của quý vị, mọi thứ lại trở thành “Không tức thị Sắc”. Vì vậy, cố chấp và tham luyến sẽ biến thành hư vô trong tâm quý vị.
Nên hiểu rằng trên thế giới này, “Biến đổi” là lẽ thường tình. Một người mà vẫn như cũ là điều bất bình thường, một đứa trẻ chỉ cao một mét, hơn 20 năm vẫn cao một mét, thì có phải là lạ không? Nếu một người không già đi sau mấy mươi năm, dần theo tuổi tác tăng trưởng mà vẫn như vậy thì có phải là kì quái không? Trên thế giới gần như không có sự vĩnh hằng. Không có gì có thể tồn tại vĩnh hằng hay tồn tại mãi mãi, điều đó là không thể. Quý vị sẽ luôn phải thừa nhận sự phiền não của Thành-Trụ-Hoại-Không.
Hiện tượng vô thường biến tới biến lui chính là vô thường. Con người chúng ta biến đổi qua lại, hôm nay chúng ta tốt với người này, nhưng ngày mai lại không tốt với họ nữa, không tốt với người này trong một giai đoạn, sau một thời gian sau lại tốt với họ. Đôi khi, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng vậy, trong khoảng thời gian này hai người đặc biệt tốt với nhau, sau một thời gian hai người lại cãi nhau, sau khi cãi nhau một thời gian lại tốt trở lại. Đây chính là duyên phận phù hợp. Phù hợp cái gì đây? Phù hợp với đạo lý vô thường, bởi vì nó đều sẽ thay đổi. Cho nên một người nhìn không thấu, họ cho rằng “đứa trẻ này đối với tôi như vậy, thì vĩnh viễn sẽ không thay đổi”, vĩnh viễn hận cha, hận mẹ, không thay đổi là không thể nào. Giữa cha mẹ cũng vậy, luôn có sự hợp và
phân. Sư phụ từng nói với mọi người rằng câu nói đầu tiên trong《Tam Quốc Diễn Nghĩa》là “Phân cửu tất hợp, hợp cửu tất phân” {xa lâu ắt gần, gần lâu ắt xa}. Thật ra, chính là nói về nguyên lý Bát Quái – Âm Dương ngũ hành, hợp lâu nhất định sẽ xa, xa lâu nhất định sẽ hợp. Vì vậy, nếu điều vĩnh cửu không tồn tại, thì tại sao quý vị vẫn cố chấp như vậy. Bạn bè cuối cùng không còn là bạn
bè, họ hàng thân thích trở thành kẻ thù, chuyện như vầy không nhiều sao? Kiếp này chúng ta là vợ chồng nhưng không biết kiếp sau sẽ có mối quan hệ như thế nào. Hôm nay không có bạn bè, nhưng ngày mai lại có. Tiền vất vả kiếm được đều tiêu hết hoặc ban đêm bị cướp mất. Những gì quý vị có trong kiếp này, kiếp sau sẽ mất đi. Những gì không có ở kiếp này, nói không chừng kiếp sau lại có. Đây là luân hồi, đây gọi là thế giới vô thường. Khi quý vị bước vào thế giới này, chính là bước vào vô thường.
Quý vị phải hiểu rằng, có một ý thức về vũ trụ trong tâm trí của quý vị. Ý thức vũ trụ là gì? Nhìn xa được, nhìn thấu được. Khi quý vị rời khỏi trái đất để nhìn quả địa cầu này, thì nó chỉ là một vòng tròn đang quay. Khi quý vị đang ở trong trái đất, quý vị không thể nhìn thấy được nó như một vòng tròn. Khi quý vị ở trong gia đình, ngày ngày sẽ cãi vã, chỉ khi quý vị đi xa một thời gian, quý vị mới biết được nguyên nhân thực sự của những cuộc cãi vã. Chúng ta phải biết chấp nhận sự thay đổi và chấp nhận sự vô thường của cuộc sống. Sinh mệnh giống như đang chơi trốn tìm với chúng ta, hôm nay có thể quý vị được cứu, ngày mai bác sĩ lại nói rằng không thể cứu được. Vài ngày sau bác sĩ nói quý vị không cứu được nữa, nhưng sau khi quý vị đọc kinh lại được cứu, thật ra tất cả đều thuộc về vô thường. Muốn tìm kiếm sự thật, sự thật chính là tinh thần và linh hồn của chúng ta. Muốn từ bỏ cái giả, đó chính là thân thể của chúng ta và vật chất như mộng huyễn bọt bóng trong nhân gian mà chúng ta tạm thời có được. Có được may mắn, mất đi mất mát, tất cả những điều này đều là vô thường, thì sao lại còn muốn mất mát, sao lại còn muốn vui mừng. Đây chính là
phẩm chất cao quý mà các bậc Cao Tăng Đại Đức sở hữu, như thể như như bất động.
Mong mọi người sẽ hiểu và không nhìn cuộc sống với thái độ tiêu cực, bởi cuộc sống sẽ thay đổi, bởi sự được và mất trong cuộc sống chỉ là tạm thời, bởi vì khi một người sinh ra, một mình cô độc đến, khi đi cũng một mình cô độc rời đi. Nếu đã như vậy, thì sao lại cô đơn? Quý vị vốn dĩ đã một mình đến, khi ra đi vẫn là một mình đi, quý vị không có gì cô độc. Quý vị không mất gì, cũng không có được gì, thế nên người mất mát không có gì để mất, chỉ là bản thân quý vị cảm thấy mất mát mà thôi, chỉ cần tìm ai đó để nói chuyện, thì quý vị lập tức sẽ không bị lạc lối. Một số người sẽ điều chỉnh tâm thái, vì họ biết rằng người đến và đi vội vàng.
Phải biết rằng, vô lượng chúng sinh trong vũ trụ đều là Phật. Mọi người nghĩ xem, ai mà không có lương tâm? Chỉ là lương tâm của nhiều người bị ô nhiễm, cho nên họ không nhìn ra được lương tâm của chính mình. Chúng ta phải đồng hành cùng Phật, ở cùng với chư Phật Bồ Tát, thì nói chi được mất hay cô đơn? Mỗi ngày chúng ta quỳ trước Bồ Tát khấu đầu, thỉnh an, cầu xin Bồ Tát phù hộ cho chúng ta, thì hà cớ gì cô đơn? Cho nên ở thế gian, sự cô đơn, đau lòng, lo âu, vui buồn ly hợp, được mất, chỉ giống như một chuỗi ảo tưởng lớn nhỏ mà thôi, chỉ là bong bóng. Hạnh phúc không còn. Danh không còn. Lợi, một lúc sau cũng tan biến. Đau khổ, khóc rồi lại thôi. Vui vẻ rồi lại kết thúc v.v.. hết thảy mộng huyễn bọt bóng này, sẽ nhanh chóng biến mất trong cuộc sống của chúng ta. Vì vậy, để thực sự có thể hiểu hay lý giải và biết như thế, chỉ có trí tuệ đại viên mãn – đó là trí tuệ của Phật, trí tuệ của Bồ Tát, thì quý vị mới có thể chiến thắng được điên đảo mộng tưởng trên thế gian.
Hôm nay Đài trưởng sẽ giảng với mọi người về ngũ trược ác thế. Mọi người đều biết thời kỳ Mạt Pháp ngũ trược ác thế có năm loại ác, năm món Trược. Món Trược đầu tiên được gọi là Kiếp Trược. Kiếp, chúng ta thường nói kiếp nạn.
Trược, chính là vẩn đục. Trong thế giới này, thường hay nói “3 6 9” số kiếp khó thoát, bốn mươi chín tuổi, ba mươi chín, hai mươi chín v.v.. thì sẽ có nạn. Số kiếp khó thoát, chạy trời không thoát, đây chính là chữ “Kiếp” của “Kiếp Trược”. Trên thực tế chính là kiếp nạn, kiếp nạn này dùng Phật lý uyên thâm để giải thích, chính là tổng hợp thời gian và không gian. Mọi người nghĩ xem, kiếp có phải có khái niệm về thời gian không? Quý vị gặp tai họa ở tuổi nào, nếu sang năm không qua khỏi, nếu sức khỏe tiếp tục tệ hại như vậy thì nhất định phải phẫu thuật. Đó có phải là tai họa không? Thế thì đó là một kiếp nạn. Có phải kiếp nạn có thời gian không? Có. Không gian chính là môi trường mà quý vị đang sống. Nếu hôm nay quý vị ở trong một môi trường, nơi có năm người đều hút thuốc, mà bản thân quý vị không hút thuốc, thì không gian này nhất định sẽ gây ra bệnh viêm phổi cho quý vị, bởi vì quý vị đang hút thuốc lá thụ động của năm người, khói thuốc đều được hít vào cơ thể. Vì vậy thời gian và không gian đã tạo ra “Kiếp” nạn này. Phật pháp giải thích rất rõ ràng về chữ “Kiếp” này, số kiếp này chính là quan niệm về Thời Không (thời gian và không gian). Chúng ta nói, “Không phải không báo, mà là thời khắc chưa đến”, thời khắc số kiếp đã đến, quý vị trốn được qua mùng 1, không trốn qua được 15. Đây là khái niệm mà Sư phụ đã nói với mọi người về thời gian và không gian. Tại sao quý vị không thể giải thoát? Khổ nạn này, quý vị đã cầu xin Bồ Tát trong một thời gian dài, tại sao đến ngày hôm nay vẫn chưa kết thúc? Bởi vì thời gian của quý vị chưa đến, bởi vì không gian của quý vị – không gian trong tâm – chưa được thanh lọc hoàn toàn nên quý vị không thể giải thoát. Tại sao tôi không thể Chứng đạo? Bởi vì Thời Không khiến quý vị không thể chứng được đạo. Vì vậy, chữ Kiếp này chính là Kiếp Trược, kiếp của từ kiếp nạn. Rất nhiều người khó có thể trốn thoát khỏi thời gian và không gian. Thế nên, tại sao có rất nhiều người lại sợ hãi đến như vậy, khi nghiệp chướng của bản thân đến, sợ hãi kinh hoàng. Đó là sự thật! Sao không sợ? Hãy nói xem, làm sao mà không sợ? Lúc đến trốn cũng trốn không được. Nói vài câu thì đã xảy ra chuyện rồi. Làm việc, rõ ràng thường ngày là đúng, thì hôm nay đã xảy ra chuyện. “Ồ, làm sao ấy? Tại
sao tôi lại hồ đồ như thế?”. Bởi vì quý vị đã tiến vào kiếp nạn của thời gian và không gian, chính là Kiếp Trược.
Món Trược thứ hai gọi là Kiến Trược. Kiến nghĩa là cái thấy sai lầm. Cái thấy là gì? Là kiến giải. Cái hiểu sai lầm. Hãy suy nghĩ mà xem, con người mắc nhiều sai lầm, thường là do họ hiểu sai, phán đoán sai, lời nói sai, suy nghĩ sai và cuối cùng là làm ra những hành vi sai. Nhiều người không thể thành Phật vì cái thấy của họ sai lầm. Hiểu biết của quý vị sai, quý vị nghĩ Phật pháp là như thế này sao? Phật pháp là như thế kia sao? Quý vị nghĩ mình đã hiểu được đạo Phật rồi sao? Tất cả cái thấy sai lầm này đã tạo thành Kiến Trược. Trược chính là không tốt, sự ô nhiễm. Những gì quý vị thấy không phải là sự thật, là Kiến Trược. Đôi khi, khi chúng ta thiền định, cảm thấy khí mạch đã thông, trong người rất thoải mái và nghĩ: “Tôi đã tu được đến đâu rồi, giữa các huyệt vị của tôi đều thông rồi”, quý vị nhìn thấy điều đó và cảm thấy rằng quý vị đã được khai thông, thì quý vị đã nhìn thấy Trược – tức là đã sai rồi. Trong trường hợp này, thực ra quý vị chưa thật sự khai ngộ, quý vị chỉ là cảm giác đã khai ngộ, trên thực tế kiến giải của quý vị đã lý giải sai lầm, quý vị tưởng rằng nhìn thấy Bồ Tát, là bản thân liền tu thành và liền có được quả vị rồi, thế thì quý vị đã bị rơi vào Kiến Trược, cái thấy của sự nhìn thấy là sai lầm. Vì vậy, nhiều người cho rằng công phu của bản thân thâm sâu, không nói lời nào, chỉ tập trung và nín thở, khi những người xung quanh nhìn vào họ sẽ nghĩ: “Công phu sâu quá”. Sư phụ đã gặp rất nhiều “Cao nhân” như vậy, Sư phụ vẫn cười nói với họ, nhưng họ ngưng thần nín thở, giống như đang vận hành trường khí với Sư phụ vậy, Sư phụ vẫn cười, kết quả là họ đã biết. Thực ra đó không phải là hiển hóa hay sự hiểu biết kiến giải của quý vị và những gì quý vị cho là đúng thì sẽ đúng. Có người tu luyện đến mức trên đầu có hào quang, dù có một chút đàn thành (mandala) cũng không thể coi là đã thành Phật. Nhiều Cao Tăng Đại Đức đã nói với chúng ta rằng dù các vị có tu luyện đến đỉnh đầu có ánh sáng thì đó vẫn chỉ là ảo ảnh, vẫn là ảo giác, không có thật. Quý vị chính là Vân Sinh túc hạ vị vi tiên {Mây sinh
dưới gót chưa chắc đã là Tiên}, nghĩa là chưa chắc đã là thần tiên. Có người lúc bước đi, giống như dưới chân có sương mù, giống như có sắc mây, họ chưa chắc đã là tiên nhân. Kiến Trược chính là sự hiểu biết của quý vị không nhất định là đúng, cách kiến giải và cách nhìn nhận không đúng.
Món Trược thứ ba gọi là Phiền Não Trược. Mọi người đều biết phiền não, người có thể nhìn thấu phiền não đều biết sự hiểu biết của Phật pháp về phiền não, bởi vì phiền não vốn trống rỗng, phiền não là rỗng không. Cho nên có nhiều người rất ngớ ngẩn, phiền muộn, đau khổ và khó chịu, rồi một tháng sau, một tuần sau, hai ngày sau, ba ngày sau có còn phiền nữa hay không? Khi quý vị phiền não chân mày nhăn nhó, bực bội, tỏ thái độ khó chịu với người khác, chính là nghĩ không thông. Hai ngày sau, đã nghĩ thông rồi thì mở lời: “Xin chào” với người ta, và bản thân tự nghĩ: “Tôi làm sao thế, một hồi thế này, một hồi thế kia”. Bởi vị quý vị đã nghĩ thông rồi, nghĩ không thông là vì quý vị có Phiền Não Trược, khí ô trược của phiền não ở trong thân thể quý vị, khiến quý vị không thoát ly được.
Phiền não, dùng lời của Sư phụ mà nói, đó chính là bản thân quý vị đang lừa dối chính mình, bản thân quý vị đang dọa chính mình: “Chuyện này tiếp theo phải làm sao đây? Chuyện này phải làm thế nào?” Đây là phiền não. Quý vị đang tự lừa dối bản thân, đang tự dọa chính mình, “Tôi chán quá!” Có gì mà phiền não? Nếu quý vị có Bồ Tát phù hộ, quý vị phiền gì cơ chứ? Nếu quý vị có trí tuệ của Bồ Tát, quý vị phiền gì cơ chứ? “Xe đến trước núi tất có đường đi, thuyền đến đầu cầu tự nhiên thẳng”. Người có trí tuệ, thì phiền não không thể trở thành một thứ ô trược đối với họ. Người không có trí tuệ, gặp phiền não thì đã bị ô trược rồi. Thế giới vốn vô sự, dung nhân tự nhiễu (thiên hạ vốn là chẳng có chuyện gì xảy ra mà tự làm rối cả lên). Hãy nghĩ xem tuổi trẻ chúng ta đã gặp bao nhiêu phiền não mà không thể vượt qua được, bây giờ nghĩ lại thì thật nực cười và ngu ngốc biết bao. Bây giờ mọi người hãy nhớ lại quá khứ của mình, có phải là rất
ngu si không? Mọi người có cảm thấy là mình rất ngốc không? Và còn cảm thấy mình cần giữ thể diện.
Món Trược thứ tư chính là Chúng Sinh Trược. Chúng sinh là gì? Chính là cộng đồng, là xã hội. Nếu quý vị bị ô trược trước tất cả chúng sinh, có nghĩa là nếu quý vị nhất quyết giữ thể diện trước mặt mọi người, thì quý vị sẽ bị ô trược. Quý vị không chịu thừa nhận khuyết điểm của mình, thì quý vị sẽ bị ô trược. Bởi vì người đông, quý vị dốc sức muốn nắm bắt một số lợi ích, muốn giữ lại một số lợi ích và tham vọng mà quý vị cho là có lợi cho bản thân, như vậy thì quý vị đã bước vào Chúng Sinh Trược. Rất nhiều người ở trước mặt một người có thể nói bản thân mình không tốt, nhưng ngay khi có nhiều người, họ liền phủ nhận ngay để giữ thể diện. Người học Phật nhất định phải khắc phục được Chúng Sinh Trược, thật ra chính là không nên làm mọi cách để giữ thể diện. Dục vọng, chúng ta không thể giữ nó ở trong lòng, bởi vì người có dục vọng, chỉ cần khi có người ở bên cạnh hay có chúng sinh ở bên cạnh, nếu quý vị muốn giữ lấy họ, liền muốn để lại một ấn tượng đẹp nhất. Lấy một ví dụ đơn giản: Khi tổ chức một bữa tiệc, nhiều người chỉ muốn khác biệt với những người khác: ăn mặc khác với người khác, bước vào nói chuyện phải khác người, muốn tìm cách để thu hút sự chú ý của người khác. Đôi khi, thực sự không thể thu hút được sự chú ý của người khác, họ cố ý làm vỡ ly rượu v.v.. mọi người đều đã từng xem điều đó trong phim, là họ đã phạm Chúng Sinh Trược.
Chúng ta phải hiểu rằng, thời đại đang thay đổi, tính cách con người cũng đang thay đổi, thế giới này không có gì là không thay đổi. Quý vị đừng vì sự thay đổi của xã hội hay sự thay đổi của chúng sinh mà khiến cho nội tâm của mình thay đổi. Có một người bạn tốt đã lâu không gặp, người ta vừa hỏi, “Ôi, cậu ấy đã ra đi rồi”. Kỳ thực “Vận trình thường biến, vô thường dời vực” – vô thường khiến quý vị “dời”, chính là dời đi, “vực” chính là vực của khu vực – như thoi đưa. Vô thường luôn ở bên cạnh chúng ta, chúng ta không nên coi thường nó. Những chúng sinh phàm phu tục tử bình thường, không biết sự thay đổi của hoàn cảnh
cũng không làm cho bản thân đạt được cái gì. Những thay đổi trong vận mệnh của quý vị thực chất là sự thay đổi trong nghiệp lực của quý vị, bởi vì quý vị tạo nghiệp, nên mệnh của quý vị thay đổi. Bởi vì quý vị quá chú trọng sĩ diện, nên quý vị đang bước vào nghiệp lực của mình. Nếu quý vị hiểu được thế giới này hết thảy đều vô thường, những gì quý vị có hôm nay sẽ mất đi vào ngày mai, thì quý vị mới hiểu được ý nghĩa thực sự của số phận và cảm giác mà quý vị có được sẽ khác. Trên đời này, có người có của cải nhưng không có mạng sống, tức là người này có tài sản và rất nhiều tiền bạc, nhưng không có mạng sống. Có người có mạng sống nhưng không có của cải.
Nhiều người nói: “Thưa sư phụ, xin hãy giúp tôi bói xem vận mệnh của tôi”. Đài trưởng nói: “Đừng đến tìm tôi để bói vận mệnh”. Ông có số mệnh của riêng ông và ông hoàn toàn có thể làm chủ được vận mệnh của chính mình. Nếu học giỏi chắc chắn sẽ tốt nghiệp, hơn nữa trên đời này có rất nhiều thứ không cho quý vị sự hoàn hảo mà sẽ cho quý vị những bài kiểm tra liên tục, đó cũng là một loại vô thường. Nhiều người học giỏi nhưng chưa chắc đã phát tài. Một số người có thể phát tài hơn, nhưng không nhất thiết là người có học vấn cao. Một số người xinh đẹp hơn quý vị, quý vị rất hâm mộ họ nhưng mệnh của họ vất vả hơn quý vị. Tại sao vậy? Bởi vì họ hồng nhan nên bạc phận, cho nên mặc dù quý vị xấu hơn họ nhưng có thể sẽ có nhiều tiền hơn họ. Mọi thứ trên thế giới này đều vô thường và không có gì khiến quý vị cảm thấy hoàn toàn viên mãn. Vì vậy, trên thế giới này không có gì là có sự cân bằng Âm Dương hoàn toàn, nếu Âm Dương hoàn toàn cân bằng thì sẽ không tồn tại thế giới âm tình viên khuyết. Mỗi người đều có số mệnh riêng, mỗi người đều có phúc phận riêng, chớ hâm mộ người, đừng hâm mộ người khác.
Muốn diệt trừ phiền não, hẳn là có được vô ngã. Con người làm sao diệt trừ được phiền não và thật sự làm được vô ngã đây? Trong đầu chỉ nghĩ đến người khác, thì quý vị liền trống rỗng, trong đầu luôn nghĩ đến người khác, thì quý vị nhất định sẽ không bị phiền não. Quý vị chỉ cần nghĩ đến, “Tôi phải làm sao bây
giờ, tôi mất mặt, tôi xấu hổ, tôi phải làm thế nào, tại sao tôi vẫn chưa có được, tại sao tôi vẫn chưa lấy được”, thì quý vị sẽ có phiền não. “Tại sao tôi làm nhiều như vậy mà anh ta vẫn tốt hơn tôi?”, không nên hâm mộ người ta, không nên đi ghen tị với người khác, thì trí tuệ của quý vị sẽ tăng trưởng. Trong tâm quý vị chỉ nghĩ đến người khác, hy vọng người khác tốt, quý vị là người có thể học Phật và học được tâm địa tốt. Rất nhiều người, vì sao cảnh giới của họ cao? Họ thường cảm thấy bản thân khổ một chút cũng không sao, mọi người tốt là được rồi, đây mới gọi là học Phật. “Tôi hy sinh nhiều một chút, chỉ cần làm cho mọi người vui vẻ là được rồi”. Nhưng rất nhiều người nghĩ không thông điểm này, họ nghĩ: “Tại sao như vậy? Dựa vào gì mà tôi phải cho đi nhiều hơn?”. Vậy thì dần dần quý vị sẽ dệt nên vọng tưởng và ảo tưởng trong lòng. Như vậy, trong tâm của quý vị sẽ có mâu thuẫn cấu thành vọng tưởng, bởi vì sự không hiểu biết của quý vị đối với sự việc này khiến quý vị sinh ra vô minh, vô minh sẽ sinh ra vọng tưởng.
62. Tránh trung tương tri, nguyên minh giác
Tập 62
TÁNH TRUNG TƯƠNG TRI, NGUYÊN MINH GIÁC (Hiểu rõ tự tánh để giác ngộ từ trong bổn tánh)
(06/05/2020)
Vì quý vị đối với một sự việc nào đó không hiểu rõ nên khiến quý vị sinh ra vô minh, vô minh sẽ dẫn đến ảo tưởng. “Tôi không hiểu, tại sao cậu ấy lại giỏi hơn tôi?” “Tôi không hiểu, tại sao cậu ấy tồi tệ như vậy, Sư phụ vẫn đối xử tốt với cậu ấy?” Vậy quý vị có biết công lực của cậu ấy ở kiếp trước không? Quý vị có biết kiếp trước cậu ấy từ đâu đến không? Cậu ấy có phước báo của mình, chỉ là phước báo đã dùng cạn nên không còn nữa. Vậy nên đừng dùng vô minh của chính mình để tạo ra ảo tưởng cho riêng mình. Chúng Sinh Trược chính là: Hết thảy chúng sanh trong xã hội này, trên thế giới này, bởi vì sinh mệnh và linh hồn của chúng ta đã bị ô nhiễm, chúng sinh đều đã bị ô nhiễm rất nhiều, vì vậy tại sao những điều mà mọi người đều nói là tốt lại không hẳn là tốt? Bởi vì mọi người trong cõi người này đều đã bị ô nhiễm.
Tiếp theo Đài trưởng sẽ nói với mọi người về trược thứ năm đó là Mạng Trược, đó là ô trược của cuộc đời. Mọi người nghĩ mà xem, trong lòng lúc nào cũng trần ngập tà niệm, nhìn người khác theo cách sai lệch. Làm người nhưng lại cư xử giống như là ma quỷ, lén lén lút lút, mánh khóe, hãm hại người khác, không nói lời thật lòng. Phi chánh mạng, tức là không phải Chánh mạng. Phi chánh mạng, nghĩa là cuộc đời quý vị nếu không sống một cách chân chính thì sẽ vẩn đục, ô trược.
Nếu cuộc sống của một người không tốt, có nghĩa là cuộc sống của người đó tương đối trược, trược có nghĩa là ô trược (đen tối dơ bẩn). Vì vậy, nhiều người số mệnh của họ càng không tốt thì càng muốn tìm cách làm tổn thương người khác, dùng cái lợi ích mà mình có để đoạt được nhiều lợi ích hơn. Vậy nên, nếu đã không được sinh ra với Chánh mạng, mà còn không sống một cuộc đời chân chính, thì sẽ không thể đạt được Chánh mạng của Bát Chánh Đạo. Vì nếu quý vị làm tốt Bát Chánh Đạo này thì kết quả sẽ là có Chánh mạng.
Người mà có Chánh mạng sẽ lìa xa Tà mạng. Rất nhiều người có tà mạng, tức là lúc nào cũng đặt người khác vào thế bất lợi, làm việc gì cũng đều là để đem lại lợi ích cho chính mình, không làm những việc có lợi cho người khác, đó là ích kỷ tự lợi. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, nghĩa là không thuận theo bản chất tự nhiên của mình. Bởi vì bản chất của chúng ta đều là thiện, đều bao dung người khác, đều nên giúp đỡ người khác. Còn những người này khi sống ở thế gian, cả ngày giống như kẻ trộm, trộm đồ của người khác, ăn cắp lòng tốt của người khác, lừa gạt tiền của người khác và làm những việc không tốt.
Vì vậy mà nói, trong những người học Phật chúng ta, có người nói rất hay, tụng kinh rất giỏi, mở miệng ra là nói về đạo lý Phật học, Sư phụ nói những người như vậy gọi là “Phật để ở ngoài miệng”, nghĩa là miệng nói về đạo Phật rất hay, lúc nào cũng nói về Phật pháp. Vậy nên, có rất nhiều Thiền ngữ mà quý vị cần phải thực hành thực tế. Sư phụ đã giảng cho mọi người rất nhiều thiền ngữ – ngôn ngữ thiền định, có rất nhiều người trên phương diện lý trí thì đã biết, nhưng lại không thể thực hiện một cách trọn vẹn. Quý vị Hiểu đạo lý, có thể nói về nó một cách nhất quán, học thức rất cao và có lý luận cao, nhưng quý vị có Tánh trung tương tri không? Từ trong bổn tánh quý vị có thực sự hiểu nó không? Không chỉ là hiểu biết ở cái vỏ bên ngoài, mà còn phải là sự hiểu biết từ trong bổn tánh, đó được gọi là Tánh trung tương tri. Chỉ hiểu biết một cách lý trí thôi chưa đủ, quý vị phải hiểu rõ từ trong bản chất và phải thực sự hiểu về nó.
Sau khi học Phật, biết nhân hiểu quả và hiểu được rằng cho dù có chuyện gì cũng đừng để bản thân tức giận. Lúc tức giận chính là nghiệp báo đến. Có rất nhiều người suốt ngày phải chịu nghiệp báo, tại sao vậy? Khi họ tức giận, toàn thân mất cân bằng, hệ thống miễn dịch chịu sự tổn thương và tổn hại, họ còn cảm thấy bản thân có lý và khóc lóc, la hét. Thời gian lâu dần nghiệp báo bắt đầu xuất hiện.
Cũng còn có nhiều người thao thao bất tuyệt “Tôi buông bỏ rồi, tôi…”, nhưng lại không sẵn lòng thừa nhận khuyết điểm và sai lầm của mình mà chỉ biết lý luận suông.
Có một lão hòa thượng gặp một vị tiểu hòa thượng rất giỏi nói chuyện và nói rất nhiều giáo lý đạo Phật. Lão hòa thượng không nói chuyện với cậu ta, mà bất ngờ dùng thước đánh vào đầu cậu ta, khiến cậu ta rất đau. Tiểu hòa thượng liền kêu lên: “Ôi sư phụ, sao thầy đánh con?” Vị sư phụ này đáp: “Không phải cậu nói cậu trống rỗng rồi sao? Chẳng phải cậu nói cậu đã hoàn toàn trống rỗng rồi sao?”
Khuyên người khác thì rất dễ, nếu cậu thực sự trống rỗng, hẳn là ngay cả cảm giác này cũng không có, bằng không điều đó có nghĩa là cậu vẫn chưa trống rỗng thực sự, mà vẫn đang trong quá trình Ngộ Không và Khai ngộ. Tánh trung tương tri, dụng trung tương bối {Hiểu rõ tự tánh nhưng hành động trái ngược}. Đối với Phật tánh của mình, quý vị có thể thấu hiểu, có thể hiểu rõ, có thể lý giải được nó. Nhưng khi quý vị sử dụng nó lại mâu thuẫn và trái ngược với nhau. Khi cần dùng đến, khi mình thật sự muốn học Phật, muốn lấy Phật lý để thay đổi bản thân thì hoàn toàn không dùng được. Có người lúc nào nói chuyện cũng đều là Phật ngôn, ngồi ở bên cạnh, mặt đầy Phật khí, toàn thân thì giống tướng Phật, khi thấy người ta thì hai tay chắp lại và nói toàn lời Phật, khiến người khác cũng cảm thấy rằng dường như họ còn thật hơn cả chân Phật. Nếu muốn biết họ có phải là người tu chân chính hay không, thì cứ đợi đến khi đụng phải lợi ích trước mắt, khi đó họ sẽ trở thành “Tánh trung tương tri, dụng trung tương bối”.
Phật nói: “Đắc nguyên minh giác, vô sinh diệt tính, vi nhân địa tâm”. Đây chính là nói cho chúng ta biết rằng, quý vị phải đạt được Nguyên Minh Giác. Nguyên Minh Giác là gì? Nguyên chính là nguyên thủy, tâm minh chính là giác ngộ trong tâm, giác ngộ trong bổn tánh gọi là Nguyên Minh Giác, là vô sinh diệt
tính, vi nhân địa tâm. Vô sinh diệt tính, cũng có nghĩa là, vốn dĩ tâm không sinh ra cũng không diệt độ, bởi vì tâm không sinh nên vô sinh pháp nhẫn, tâm không sinh ra bất kỳ tạp niệm nào, vậy thì còn cần diệt độ chính nó nữa hay sao? Loại tu chứng này gọi là Viên Thành Quả Địa. Theo ngôn ngữ ngày nay mà nói, khi một đứa trẻ vẫn chưa học thói xấu, quý vị nói gì với nó nó đều tiếp nhận, nó chính là kiểu người có tâm Nhân địa của vô sanh diệt tính. Còn có một loại, khi quý vị đố kỵ người khác, biết phải kiềm chế như thế nào, “Tôi phải nhẫn nại, tôi phải có tâm nhẫn nhục”, trên thực tế quý vị đã trải qua rất nhiều thời điểm không nhẫn nhục, đã trải qua rất nhiều tạp niệm nhân gian, đang kiềm chế, đang thay đổi, điều này không giống với Nguyên Minh Giác ban đầu
Vì thế Bồ Tát dạy chúng ta phải hiểu rằng dù học Phật pháp gì thì cũng phải dùng tâm Nhân Địa trong bổn tánh nguyên thủy của mình để tu tập. Rất nhiều người nói, tôi đã bị ô nhiễm rồi, tôi phải làm sao bây giờ? Cho nên bảo quý vị phải nhảy ra khỏi nghiệp báo, đừng Sống cuộc sống tồi tệ mà hãy bắt đầu cuộc sống mới. Đây là điều mà Phật tổ đích thân truyền lại cho chúng ta. Trong Mật Tông, Hiển Tông, trên thế giới này, bổn sư của Phật pháp là Thích Ca Mâu Ni Phật. Bất luận quý vị học Phật gì, bất luận tông phái gì, bổn sư của chúng ta chính là Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngày nay quý vị đang sống trên thế giới này, bất luận quý vị làm việc gì, Nguyên Minh Giác trong nội tâm chính là bổn tánh của quý vị. Mỗi người chúng ta, bất kể là người xấu, người tốt, người ích kỷ hay người không ích kỷ, đều sở hữu Nguyên Minh Giác, nghĩa là đều có được giác ngộ thiện lương và bản tính thiện lương nguyên thủy.
Đài Trưởng kể cho mọi người một câu chuyện cuối cùng của bài giảng hôm nay. Tương truyền rằng có một vị Tỳ-kheo, ông là người ở Thành Xá Vệ, đã xuất gia sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp. Nhưng ông có một thói quen vô cùng không tốt, chính là vô cùng sợ chết, hơn nữa bất kể là ban ngày hay ban đêm, chỉ cần nghe thấy tiếng gió bên ngoài, tiếng chim thú, quái vật kêu, hoặc là nhìn thấy cây khô đang lay động, lắc lư, ông liền cảm thấy sự đe dọa của cái chết đến gần,
hơn nữa sau khi cảm nhận thấy những điều đó, thì ông có một thói quen xấu, đó là kêu lên: “Cứu mạng”, và chạy khắp nơi, la hét khắp nơi. Ông không bao giờ nghĩ rằng có một ngày ông sẽ chết, nếu như ông biết cuối cùng có một ngày mình cũng sẽ chết, thì có khả năng ông sẽ không sợ chết rồi. Bởi vì ông chưa từng nghĩ đến việc phải chết, ông chưa từng có kế hoạch: “Tôi đã sống bao nhiêu năm, tôi sẽ làm điều gì, trong bao nhiêu năm cuối cùng của tôi, tôi phải làm những việc gì để tôi có thể lìa khổ được vui, siêu thoát lục đạo”, ông đều chưa từng nghĩ tới, mà ông chỉ sợ chết thôi.
Tâm lý sợ chết của vị Tỳ-kheo này đã bị tất cả các Tỳ-kheo khác biết được. Một ngày nọ, các Tỳ-kheo khác bàn luận về ông trong Pháp đường, có người nói: “Huynh biết không, nghe nói huynh ấy vô cùng sợ chết, suốt ngày bị cái chết đe dọa, trong lòng huynh ấy rất đau khổ”. Một vị pháp sư khác nói: “Là một Tỳ-kheo, nên chắc chắn rằng mình nhất định sẽ chết. Hãy tự mình quán tưởng, có thể hiểu được cái chết thực sự là như thế nào”. Trong khi mọi người đang nói, Đức Phật đi vào, nhìn bọn họ và hỏi: “Mọi người tụ tập ở đây nói về điều gì thế?” Các Tỳ-kheo lập tức trả lời: “Thưa Đức Phật, là về chuyện sợ chết của một vị Tỳ-kheo”. Đức Phật liền gọi vị Tỳ-kheo đó đến và hỏi: “Nghe nói ông rất sợ chết, thật vậy không?” “Vâng, thưa Đức Phật, tôi sợ chết vô cùng”. Vì vậy, Đức Phật quay sang mọi người và nói: “Này các Tỳ-kheo, mọi người đừng chế nhạo và không hài lòng với ông ấy. Ông ấy rất sợ chết, không phải là không có nguyên do, chính là bởi vì kiếp trước ông ấy đã từng gặp phải tình huống như vậy”. Đức Phật rất thích nói về nhân quả, bèn nói về một đoạn nhân quả trong quá khứ của vị Tỳ-kheo này.
Đức Phật kể rằng, ngày xưa có một vị vua khi còn tại vị, đã từng đem một con voi báu ngự dụng giao cho người nuôi voi, bảo ông ta huấn luyện con voi này làm thuật bất động. Do đó người nuôi voi đã treo con voi lên trên cọc gỗ, khiến cho con voi này không thể nhúc nhích, sau đó dùng đủ loại giáo trúc vây quanh bốn phía, nếu con voi này nhảy lên, thì những giáo trúc đó sẽ đâm nó bị thương.
Cứ như vậy, hắn bắt đầu huấn luyện con voi bất động. Con voi này không chịu nổi sự đau đớn khi được huấn luyện, với thân hình to lớn, nó đã phá hủy những cọc gỗ, đè bẹp những cọc gỗ xung quanh, lao ra khỏi đám đông và chạy vào núi sâu. Người ta rượt đuổi theo, “con voi bỏ chạy rồi”, họ đuổi theo lên núi nhưng vẫn không bắt được vì voi chạy rất nhanh nên phải bỏ cuộc và quay trở về. Sau khi voi vào núi, nó cảm thấy rất cô đơn, nó sợ bị bắt trói lại và bị hành quyết, bởi vì nó vẫn còn đang nghĩ đến cảm giác lúc bị trói.
Khi nó nghe thấy tiếng gió, nó rất sợ hãi và sợ chết, liều mạng chạy khắp nơi, như thể vẫn còn bị trói vào cọc gỗ và bị huấn luyện thuật bất động, phải chịu đánh hoặc bị trói lại. Cứ như vậy, con voi mất đi cảm giác an toàn về thể chất lẫn tinh thần, lúc nào cũng run rẩy quanh quẩn một chỗ. Thần cây trong núi sâu nhìn thấy sự bất thường của con voi, liền hát trong rừng: “Hỡi cỏ cây yếu ớt, đung đưa trong gió mạnh, đây được coi như chuyện bình thường. Voi ơi voi ơi, nếu bạn sợ hãi vì điều đó, chắc chắn bạn sẽ tự hủy hoại mình và chết”. Đây là lời thần cây hát cho voi nghe. Thần cây đã động viên con voi điên thất thường và hát cho nó nghe, giúp nó bình tĩnh lại: “Nếu tiếp tục như thế này, bạn sẽ chết mất thôi”. Vì vậy, con voi dần dần bớt sợ hãi hơn, nhưng nỗi sợ hãi vẫn tiếp tục vận hành trong tiềm thức của nó. Đức Phật kể rằng con voi điên lúc bấy giờ chính là vị Tỳ-kheo này. Ông ấy rất sợ chết, nhưng lại không thể tránh khỏi cái chết, chỉ có người thoát khỏi sinh tử mới không bao giờ chết.
Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng cuộc sống thực chất là một quá trình từ Không đến Có. Chúng ta không có sinh mệnh, nhưng khi đến thế gian, chúng ta có sinh mệnh rồi. Chúng ta không có cha mẹ, khi đến thế gian, chúng ta đã có cha mẹ. Chúng ta không có sư phụ, chúng ta không có trường học, chúng ta không có tiền, chúng ta không có quần áo v.v.. Tất cả đều là một quá trình từ Không có đến Có ở nhân gian. Giải thoát thực sự là giải thoát nội tâm, bởi vì tất cả vật chất và con người hình thành từ không có đến có đều sẽ biến mất cùng với sinh mạng của quý vị, chỉ khi trong nội tâm quý vị có được giải thoát, thì
thế giới này mới có thể hoàn toàn thay đổi. Nhưng vấn đề của con người chúng ta là thường muốn thay đổi thế giới và mong rằng thế giới sẽ thay đổi theo ý muốn của mình. Sư phụ nói với mọi người rằng ai cũng có thể định đoạt được bản thân, nhưng không thể thay đổi thế giới, vì vậy cách thay đổi tốt nhất là thay đổi chính mình. Bất kể cuối cùng chúng ta có danh vọng, địa vị hay tiền bạc, chúng ta đã đánh mất quá khứ và hiện tại, chúng ta vẫn chưa đạt tới tương lai, chúng ta vẫn còn đang trong lục đạo luân hồi và chúng ta chỉ cảm nhận được sự tồn tại của mình trong chốc lát. Đây là lý do tại sao Kinh Kim Cang lại nói “Như mộng huyễn bào ảnh”, trong một sát na. Dùng bình nước thanh tịnh của Quán Thế Âm Bồ Tát để rửa sạch linh hồn dơ bẩn trong lòng chúng ta, cuối cùng chúng ta mới có thể nhận ra rằng, vô sự vô tâm là tự nhiên, vô thị vô phi là chí lý.
Được rồi, hôm nay bài giảng “Bạch Thoại Phật Pháp” dành cho đại chúng đến đây là kết thúc, chúng ta hẹn gặp lại vào lần sau.
63. Chứng Phật quả minh tâm tánh
Tập 63
CHỨNG PHẬT QUẢ MINH TÂM TÁNH
(09/05/2020)
Được rồi, hôm nay chúng ta tiếp tục nói về “Bạch Thoạt Phật Pháp”.
Lần trước chúng tôi đã giảng cho đại chúng về Nguyên minh giác. Nguyên minh giác chính là vận dụng tốt “Nguyên” quang minh, bản giác, nguyên sơ và tự giác trong bổn tánh của tự tâm (chính là tự tánh quang minh, tự tánh bất sinh bất diệt mà chúng ta vốn có). Để đạt được Nguyên minh giác, trước tiên quý vị phải khống chế tốt tạp niệm và phiền não trong tâm mình. Hàng ngày ai cũng có những phiền não, vậy làm sao để loại bỏ những phiền não đây? Đầu tiên phải để phiền não lắng đọng lại. Giống như một tách trà, lá trà đều nổi lên trên bề mặt, từ từ chờ nó lắng xuống, như vậy tách trà này sẽ rất thanh tịnh, và đây chính là trà ngon. Sau đó hãy từ từ minh tâm kiến tánh. Đài trưởng vừa giảng cho quý vị về “Giác” và “Nguyên”, trên thực tế bổn tánh viên mãn, giác ngộ và minh tâm kiến tánh đều là một. Khi quý vị có thể sở hữu tự tánh, bổn tánh và giác ngộ vốn có để minh tâm kiến tánh, thì quý vị sẽ biết thế giới này hết thảy đều là bất sinh bất diệt, bởi vì không có sinh ra, cũng không có diệt trừ. Khi hiểu được quy tắc cơ bản của việc học Phật này, thì khái niệm và lý niệm học Phật cơ bản, quý vị đã chủ yếu nắm được, đây chính là bước đầu tiên của học Phật, giới Phật pháp gọi là “Nhân địa tâm”. “Nhân địa tâm” là gì? Chính là tâm vô sinh vô diệt. Khi đến nhân gian, không có nhiều dục vọng, ngay từ đầu đã không có dục vọng, tiếp đó dục vọng phát sinh rất nhiều, đến cuối cùng những dục vọng này cũng sẽ tiêu trừ, vậy thì cuối cùng vẫn giống như chưa sinh ra, đây chính là tâm ban đầu của bổn giác, gọi là “Nhân địa tâm”, bởi vậy mà sinh ra Nhận địa tâm, chính là vô sinh vô diệt. Khi chúng ta đến nhân gian, tất cả những gì chúng ta có được và mất đi, kỳ thực như chưa từng sinh ra, cũng như chưa từng bị tiêu diệt.
Điều quan trọng nhất trong việc học Phật là phải có phương hướng đúng đắn, bởi vì nếu hiểu được Nhân địa tâm này, vậy thì hàng ngày quý vị hành, ở, ngồi, nằm và làm mọi việc ở nhân gian, sẽ thuận theo tâm Bồ Tát mà làm, chính là vô
sinh vô diệt – không sinh ra loại tâm này, cũng không cần phải đi tiêu diệt loại tâm này, có như thế thì quý vị mới không làm “người” nữa {mà học làm Bồ Tát tại nhân gian}.
Rất nhiều người làm người rất tốt, đều là giả tâm giả ý, họ không có bản giác tự tánh trong sáng tự nhiên bên trong của riêng mình. Người học Phật bất kể là ăn cơm, đi, ở, ngồi, nằm, cho dù đi kết giao bằng hữu, làm công đức, thì tâm nhất định phải luôn trong sáng, một số lời nói dối sẽ có tác động tiêu cực đến việc tu tâm. Nhiều người dành cả cuộc đời để tu tâm cho người khác xem, không phải chính họ thật sự tu cho bản thân mình, “Hãy nhìn tôi tu tâm, hãy nhìn xem sự giác ngộ của tôi bây giờ cao đến mức nào”, điều đó chẳng có tác dụng gì cả, bởi vì Nhân địa chính là “nhân duyên” – Tức là nhân duyên quý vị muốn được giải thoát nhưng chưa thực hành nó một cách đúng đắn. Duyên phận này của quý vị đã đến, duyên học Phật hoặc duyên làm người đã đến, nhưng quý vị đã không đi đúng hướng để viên thành Chánh quả, tức là quý vị chưa thực sự hiểu rõ cách tu chứng để viên thành Chánh quả. Sư phụ muốn đưa ra một ví dụ cho quý vị nghe, ví dụ như, làm việc gì đó sẽ luôn có quả báo đúng không, nếu quý vị không hiểu quả báo, mà đối xử tệ với người khác, thì người khác sẽ đối xử tệ với quý vị, đây gọi là nhân quả. Có người năm ngoái đối xử tệ bạc với người khác, người ta nói “Quân tử 10 năm trả thù chưa muộn”, có thể vài năm sau hay một ngày nào đó họ sẽ tìm cơ hội đối xử tệ bạc lại với quý vị, quý vị còn không biết là do quý vị đã từng tạo ra nguyên nhân từ bao nhiêu năm trước. Nếu quý vị không hiểu “Giác” và “Minh” của nó dựa trên nhân địa, vậy thì làm sao có thể tu thành Chánh quả? Vì vậy, những người thực sự tu thành Chánh quả đều dựa trên nền tảng của nhân địa, nghĩa là họ không phạm bất kỳ sai lầm nào về nhân duyên quả báo. Cho dù hôm nay quý vị phát biểu một câu, trong khi người khác đang nói chuyện quan trọng, chẳng hạn như ông chủ đang nói, nếu quý vị ho vào thời điểm rất quan trọng, bất kể là thật hay giả, khi đó mọi người đều cười, vậy thì quý vị đã tạo ra nguyên nhân này, và quý vị có thể sẽ sớm bị ông chủ sa
thải. Quý vị hỏi, “Tại sao? Tôi không thể ho được sao?” Ngay lúc đó thì không thể được, bởi vì quý vị đã tạo ra nhân này trong cái duyên phận này.
Chứng Phật quả chính là minh tâm kiến tánh, chính là hiểu được điều gì nên làm và điều gì không nên làm. Cho nên muốn chứng đắc quả vị Bồ Tát rất khó, quý vị muốn chứng đắc quả vị La Hán cũng đều rất khó. Quý vị muốn kiếp sau được làm người và không phải đọa địa ngục thì ít nhất trước tiên hãy giữ năm giới. Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã dùng Phật pháp dạy dỗ, giáo dục chúng ta: “Như trừng trọc thủy, trữ ô tĩnh khí”. “Như trừng trọc thủy”, chính là nước ô đục cần được làm trong, chúng ta đến nhân gian có ngũ trược ác thế, thì phải làm cho nó trong vắt: “Trữ ô tĩnh khí”, là đặt trong một cái bình yên tĩnh. Sau đó “Tĩnh thâm bất động”, chính là như như bất động. “Sa thổ tự trầm”, tức là phiền não và nghiệp chướng trên thân người dần dần sẽ tự mình chìm xuống. Khi đó “Thanh thủy hiện tiền”, thì quý vị sẽ minh tâm kiến tánh. Đức Phật dạy chúng ta Phật pháp là: Nước vô cùng ô nhiễm, để cho chúng ta phải ở trong hoàn cảnh yên tĩnh “Tĩnh thâm bất động”, như như bất động. Sau đó “cát đất tự trầm”, dần dần sẽ loại bỏ tạp niệm, phiền não: “Thanh thủy hiện tiền”, nước trong này chính là bổn tánh và lương tâm của quý vị. Nhiều người họ có được bổn tánh và lương tâm gì? Có thể hiểu được người khác thì có bổn tánh và lương tâm. Có thể giữ được bản thân như như bất động, thì sẽ có được công năng này.
“Danh vi sơ phục, khách trần phiền não”, “Danh vi sơ phục” chính là hàng phục ban đầu, một người học Phật nhất định phải hiểu được “sơ phục khách trần phiền não”. Đây chính là nói, nếu như quý vị có thể “Tĩnh thâm bất động, sa sĩ tự trầm” một cách sâu sắc, thì quý vị mới có thể “Sơ phục khách trần”, chính là hàng phục những phiền não ban đầu của hồng trần thế gian. Thanh tịnh đến từ đâu? Thanh tịnh là bản thân “tĩnh thâm bất động”. Nếu một người có thể an tĩnh thì họ sẽ trở nên rất xinh đẹp. Một người cả ngày phiền não, cả ngày đầy tạp niệm trong đầu, thì họ sẽ trở nên vô cùng dơ bẩn, đừng nói họ xinh đẹp, hình
ảnh chắc chắn cũng sẽ bị tổn hại. Làm thế nào chúng ta có thể trau dồi một tâm hồn thanh tịnh từ bản chất nguyên sơ của mình? Hãy yên lặng. Sự tĩnh lặng có thể mang lại trí tuệ, tĩnh có thể sinh tuệ. Đức Phật đã dạy cho chúng ta mọi nguyên tắc tu tập, Đức Phật dạy chúng ta học cách tĩnh lặng, đó là lý do tại sao trong đạo Phật có thiền định, đó là sự lắng đọng để cho bản thân được yên tĩnh sâu sắc, yên tĩnh một cách vô cùng sâu sắc.
Có một câu nói nổi tiếng trong《Kinh Hoa Nghiêm》: “Bất vong sơ tâm, phương đắc thủy chung” {Không quên đi tâm nguyện ban đầu, mới có thể có phương hướng đi từ đầu đến cuối}. Trong cuộc sống hiện thực, người ta thường hay nói đến câu “Bất vong sơ tâm” với tần suất rất cao, rất nhiều người ngoài miệng thường nói “Bất vong sơ tâm”. Hôm nay Sư phụ sẽ chia sẻ với mọi người câu nói vàng này trong《Kinh Hoa Nghiêm》, hy vọng mọi người hiểu được cái gì gọi là: “Bất vong sơ tâm, phương đắc thủy chung”.
Trước hết nhất định phải giữ vững bổn tánh và tín niệm ban đầu của mình, đừng quên mình đã bắt đầu học Phật như thế nào và đã chịu rất nhiều đau khổ ở nhân gian ra sao, phải phát nguyện thoát khỏi lục đạo, học Phật thật tốt, giữ vững bổn tánh và tín niệm ban đầu của mình. Nhiều người trong nhà gặp nhiều phiền não mới ra học Phật. Trước đây có nhiều người học Phật vì trong gia đình có người sức khỏe kém, hay gặp chuyện không may về tài chính ở công ty, nơi làm việc, khi đó họ tận tâm học Phật, họ cần sự giúp đỡ của Bồ Tát. Tín niệm ban đầu và bổn tánh này của họ đã thành tựu tâm nguyện của họ, để bây giờ họ có thể học Phật và đạt được công đức viên mãn. Đây chính là bổn tánh ban đầu của họ. Kỳ thực mỗi một người ngộ, có người bắt đầu học Phật, có người xuất gia làm hòa thượng, đều là tự nguyện. Sau khi trải qua quá nhiều thất bại trong cuộc sống, Bồ Tát dạy chúng ta đừng bao giờ quên rằng vì có quá nhiều khó khăn và thất bại như vậy ở nhân gian và chúng ta không được quên lý do tại sao ngay từ đầu chúng ta đã muốn trở thành tu sĩ. Đối với chúng ta, những người cư sĩ tại gia, chúng ta không được quên lý do tại sao ngay từ đầu chúng ta muốn học Phật – là
bởi vì khổ, vì sự đau khổ trong sinh mệnh và khó khăn trong cuộc sống. Vì vậy, Bồ Tát bảo chúng ta không nên quên đi lý do vì sao lại bắt đầu học Phật, và chúng ta đã từng bắt đầu cam tâm tình nguyện buông bỏ rất nhiều tư dục của đời người cũng như những thứ của riêng mình như thế nào. Người mà thường hay nhớ đến “Bất vong sơ tâm” thì sẽ có sức mạnh, bởi vì tâm ban đầu đã khiến cho quý vị có thể bước vào cửa Phật.
Nhất định phải hiểu được “Phương đắc thủy chung”, phải có một khởi đầu và một kết thúc. Thường xuyên nghĩ đến bản thân “Bởi vì lúc ấy trong nhà khổ, cho nên mình mới tu tâm”, đây là điều rất quan trọng, luôn giữ vững loại lý niệm này, đến cuối cùng sẽ thành công, chính là trước sau như một. Vì sao nói có đầu có cuối? Cái gì gọi là từ đầu đến cuối? Chính là vẫn như vậy, từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc, đều là một người học Phật rất tốt. Sơ tâm chính là chúng ta chỉ ra một phương hướng. Cái gì gọi là “Sơ tâm”? Động lực khi bắt đầu. Vì sao mà chúng ta có được động lực khi muốn làm một việc gì đó? Còn nhớ có một người rất nổi tiếng, sao ông ấy lại đi nghiên cứu máy đo nhịp tim? Bởi vì có một người trong gia đình ông ấy đã ra đi vì căn bệnh đó, ông ấy rất buồn, nên ông thành lập quỹ và không ngừng đóng góp vào nghiên cứu tim mạch, đó là tâm ban đầu của ông ấy. Phương hướng nỗ lực chính là “sơ tâm” của quý vị, động lực tiến lên chính là “thủy chung” của quý vị. Đừng quên chúng ta đã học Phật như thế nào, lúc đó chúng ta đã có được những gì, tại sao bây giờ chúng ta lại không quên được? Bởi vì trong học Phật, trong “thủy” và “chung” sẽ sinh ra rất nhiều mê hoặc và điên đảo. Đó là lý do tại sao con người tranh cãi và có những ý tưởng khác nhau. Trên thực tế trong cuộc sống của chúng ta, bất kể có bao nhiêu khó khăn hay thất bại, bất kể con đường phía trước có bao nhiêu quanh co khúc khuỷu hay mênh mông mù mịt, thì chúng ta vẫn phải luôn tiến về phía trước, bởi vì mọi thứ trên thế gian đều sẽ thay đổi. Thế nên, hãy giữ cái tâm ban đầu để quý vị không thay đổi ý định ban đầu.
Vấn đề của con người luôn thích “nhược sơ tương kiến”, nghĩa là giống như lần đầu gặp nhau, thế nhưng sau một thời gian dài, họ sẽ dần quen và không coi trọng điều đó. Chúng ta đừng quên cái tâm ban đầu, chính là để cho chúng ta bất cứ lúc nào, cho dù có một thứ gì mới xuất hiện, cũng phải ghi nhớ bản thân đã bước vào cửa Phật như thế nào và bản thân đã bắt đầu học Phật ra sao. Bất vong sơ tâm, hãy ghi nhớ những suy nghĩ chân thật nhất trong lòng quý vị – suy nghĩ chân thật hiện tại trong lòng quý vị, suy nghĩ ban đầu của quý vị là gì, quý vị vẫn phải nhớ kỹ nó, có lẽ tâm ban đầu này chính là lý tưởng lúc đó của quý vị. Bất kể có bao nhiêu biến hóa trong việc tu tâm, nhưng lý tưởng này cũng không thể quên, đây chính là tâm nguyên thủy của một người và người này rất có lương tâm. Cho dù con đường tu tâm của chúng ta xa xôi đến đâu, cho dù con đường về trời của chúng ta phải trải qua bao nhiêu thiên nan vạn hiểm, thiên sơn vạn thủy ngăn trở, chúng ta cũng không thể từ bỏ. Ngày nay chúng ta đi theo Quán Thế Âm Bồ Tát, chúng ta không bao giờ lạc lối, chúng ta không thể quên con đường ngày xưa đã đưa chúng ta đến, chúng ta không thể mất đi mục tiêu của mình. Dù trên đời có những tham muốn làm xáo trộn suy nghĩ của con người, nhưng chúng ta phải luôn giữ vững tâm ban đầu, một tiếng trống làm tinh thần hăng hái thêm, kiên trì đến cùng, để có thể nhìn thấy tâm trí sáng ngời nhất, thuần khiết nhất ở sâu trong nội tâm. Nếu như chúng ta không muốn trở thành kẻ thất bại trong cuộc đời, nhất định phải học được “Bất vong sơ tâm, phương đắc thủy chung”.
Là một vị Bồ Tát, một người học Phật phải “biết tâm niệm của tất cả chúng sinh”, phải hiểu được người khác. Mọi người thử nghĩ xem, xã hội hiện đại có phải đang sống để hiểu người khác hay không? Người này làm càng tốt, chính là càng hiểu người khác.
Chẳng hạn, công ty quý vị càng lớn thì chắc chắn quý vị phải hiểu nhân viên. Gia đình càng tốt nghĩa là vợ chồng hiểu nhau rất tốt. Sư phụ và đệ tử có mối quan hệ tốt có nghĩa là trò hiểu thầy nhiều hơn hay thầy hiểu trò nhiều hơn.
“Biết tâm tư của tất cả chúng sinh” nghĩa là thực thực tại tại thuyết Phật pháp cho họ nghe, thực thực tại tại nói với mọi người một cách chân thực; “Khởi từ trí nghiệp” nghĩa là có trí tuệ. Bồ Tát biết ý nghĩ trong lòng tất cả chúng sinh chúng ta, hơn nữa Bồ Tát y theo trong tâm chúng sinh nghĩ gì để khai đạo cho chúng ta pháp ấy, đây chính là trí tuệ, bắt nguồn từ trí nghiệp – dùng trí tuệ của Bồ Tát để làm sự nghiệp của Bồ Đề, vì hiểu rõ mới có thể thành công.
Trên đời này, ai muốn thành công trước tiên phải hiểu rõ. Ví dụ, nếu quý vị là nhà sản xuất ô tô, quý vị phải hiểu kết cấu của ô tô. Nếu quý vị là kỹ sư của tâm hồn, quý vị phải hiểu được tinh thần và tâm hồn của mỗi người. Mong rằng mọi người sẽ hiểu được “trí nghiệp”, là một loại nghiệp (sự nghiệp lớn) của trí tuệ Đại Phật trí. Vì Bồ Tát hiểu được tâm của tất cả chúng sinh nên có thể “Ứng cơ thuyết pháp”. Trong câu chuyện Đức Phật mà Sư phụ kể cho mọi người, Đức Phật đi đến đâu Ngài thuyết giảng đến đó – tức là ứng cơ thuyết pháp. Trả lời ngay tại chỗ những câu hỏi của đệ tử – tức là ứng cơ thuyết pháp. Vì vậy, trí tuệ càng cao thì càng khéo léo độ chúng và càng hiểu rõ mọi chúng sinh. Một người thực sự có trí tuệ có thể khéo léo để hiểu được tất cả chúng sinh và ứng cơ thuyết pháp.
Trí nghiệp có nghĩa là dùng “tha tâm thông” của chúng ta để có thể hiểu được đối phương, để tạo phước báu và phước nghiệp cho tất cả chúng sinh, dùng chính bản thân để hiểu rõ ý niệm và tâm hành của đối phương, để giáo hóa chúng sinh cả hữu hình và vô hình trong ba cõi: trời, đất và người. Đây là lý do tại sao chúng ta gọi bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật là bậc thầy của ba cõi. Vì vậy, chúng ta phải dùng cảnh giới cao của Bồ Tát để độ hóa tất cả chúng sinh, dùng Tâm Không, Ý Không và Niệm Không để cứu độ họ. Khi cứu độ người khác, nếu quý vị có tư tâm tạp niệm, thì tâm quý vị sẽ không trống rỗng, người khác sẽ nhìn ra được, và họ sẽ không thể tiếp thu nhiều ý kiến của quý vị. Nếu hôm nay ý niệm của quý vị không trống rỗng và chỉ nói: “Hôm nay tôi chỉ là độ họ, để tôi thử xem”. Nếu quý vị có loại tạp niệm này, quý vị sẽ không độ được
người khác. Quý vị có suy nghĩ: “Bởi vì họ đã từng là ai, họ đã từng là ai của tôi”. Nếu suy nghĩ của quý vị không trống rỗng, thì quý vị không thể độ được chúng sinh. Vì thế Sư phụ cần mọi người dùng Tâm Không, Ý Không, Niệm Không này để hiểu rõ tất cả chúng sinh. Bồ Tát hiểu tất cả chúng sinh, ngoại trừ bản thân không có tư tưởng, không có tâm tư tạp niệm ra, Ngài còn đem tâm từ bi độ người chuyển thành một loại khái niệm, để giúp đỡ quý vị, thành tựu đạo nghiệp trí tuệ cho quý vị.
64. Vô thủ vô chứng hoàn sơ bổn giác
Tập 64
VÔ THỦ VÔ CHỨNG HOÀN SƠ BỔN GIÁC
(09/05/2020)
(Chúng sinh đã có sẵn Phật tánh. Không cần cầu đạt được điều gì cũng không cần chứng đắc) 9/5/2020
Bồ Tát hiểu rõ tất cả chúng sinh, ngoài bản thân không có tư tưởng, không có tư tâm tạp niệm ra, hơn nữa Ngài còn mang tâm từ bi độ người chuyển thành một loại khái niệm để giúp đỡ chúng sinh, thành tựu đạo nghiệp trí tuệ của chúng sinh. Vì ai cũng có trí tuệ, nên Bồ Tát biết mình là người trí, biết mình có thể hiểu được lý lẽ sự việc, nên “Động chi dĩ tình, hiểu chi dĩ lý” {dùng tình cảm làm cho đối phương cảm động, dùng lý lẽ làm cho người ta hiểu}, Bồ Tát không ngừng nói với họ, nói đến cuối cùng, họ nói “Bồ Tát à, con hiểu rồi”, thì Bồ Tát đã cứu độ được họ rồi. Nếu đi độ một người, quý vị nói chuyện từ tốn và hiểu đối phương, thì họ sẽ dễ dàng tiếp thu ý kiến của quý vị. Về mặt tâm lý học mà nói, quý vị phải hiểu họ thì mới có thể giúp họ thay đổi suy nghĩ. Ví dụ, nếu quý vị muốn làm cho con tàu này chạy chậm lại và ngăn nó di chuyển về phía trước, trước tiên quý vị phải leo lên con tàu này. Vậy khi quý vị leo lên con tàu này, nhất định phải đi nhanh như tốc độ của nó, khi đã lên được tàu, quý vị mới có thể làm cho nó từ từ dừng lại. Chuyển niệm thuyết pháp là một phương pháp mà người học Phật chúng ta nên rất chú trọng. Chuyển biến ý nghĩ của mình, không phải quý vị là sư trưởng của họ mà quý vị là người bạn đạo của họ, không phải quý vị là ai đó của họ, mà quý vị là người thân thiết nhất của họ, và họ cũng là chúng sinh giống như quý vị. Quý vị giác ngộ sớm một chút, nên kéo họ một tay, như vậy quý vị tu tâm sẽ không khởi tạp niệm, sẽ biết cách giúp đỡ người khác, không có bất kỳ tư tâm tạp niệm nào thì tâm sẽ không sinh ra nghiệp chướng (rất nhiều người sẽ sinh nghiệp chướng).
Tu tâm tu càng về sau phải tự tánh bất động, phiền não sinh khởi từ đâu? Nếu quý vị không có yêu cầu gì đối với người khác, mà đi nói chuyện với người ta thì có phải là tâm vô quái ngại không? Nếu hôm nay quý vị có yêu cầu với đối phương, nếu họ không đáp ứng được, quý vị sẽ nóng nảy, đến cuối cùng họ vẫn
không nghe, thì quý vị sẽ đập bàn và mắng chửi người. Vậy nếu tâm niệm không khởi thì làm sao phiền não có thể phát sinh? Như như bất động, nhiều người hỏi Sư phụ: “Thưa Sư phụ, như như bất động, nhưng tâm con vẫn đang chuyển động”. “Thưa Sư phụ, con ngồi đây và như như bất động, nhưng con nhìn thấy thiện và ác trên thế gian”. Sư phụ nói với các vị rằng, các vị vẫn có thể nhìn thấy thiện và ác trên thế gian, các vị vẫn thấy như thường và thấy như không thấy, bởi vì các vị biết đây là mối quan hệ nhân quả. Dù đúng hay sai, toàn bộ đều có nhân có quả, đó là nhân duyên quả báo. Nếu quý vị nhìn thấy thì coi như chưa nhìn thấy, đồng nghĩa với không nhìn thấy, “thị nhi bất kiến” tức là dẫu nhìn mà chẳng thấy, vậy thì trong tâm của quý vị, trong khái niệm, bất kỳ thiện ác nào cũng sẽ không ảnh hưởng đến tư duy của quý vị, trong tâm của quý vị sẽ không có thiện, cũng không có ác. Nhiều người học Phật, học càng về sau sẽ có thắc mắc: “Tại sao không nghĩ thiện, không nghĩ ác? Không nghĩ đến điều ác là đúng. Nếu không nghĩ đến điều ác, thì tại sao những điều tốt đẹp cũng không nghĩ đến?” Bởi vì quý vị không hiểu điều đó là thiện hay ác, bởi vì tất cả đều do nhân quả gây ra. Một khi quý vị hiểu được điều này, thì thiện hay ác sẽ không ảnh hưởng đến khả năng phán đoán của quý vị và quý vị sẽ như như bất động. “Như như bất động” thực chất có nghĩa là “Tự tánh bất động”, có nghĩa là bổn tánh và lương tâm của chính mình không bị lay chuyển. Nếu quý vị nhìn thấy bất kỳ thị phi nào của người khác: “Người này rất lương thiện, người kia rất ác”. Nếu họ cãi nhau “Người này tốt, người kia xấu” thì điều đó đã ảnh hưởng đến khả năng phán đoán trong nội tâm của quý vị rồi. Bởi vì quý vị đã bước vào Sắc Không, quý vị đã bước vào Sắc giới, tự tánh của quý vị đã thay đổi, và trong lòng quý vị đã có “thị” và “phi”. Nếu quý vị không thể phân biệt được thiện ác, điều đó sẽ ảnh hưởng đến tâm của quý vị.
Tại sao Phật pháp muốn chúng ta không bị ảnh hưởng bởi thế giới bên ngoài và giữ tâm mình bất động? Khi một người bình tĩnh và lắng nghe những lời tranh cãi của người khác, người đó mỉm cười trong lòng: “Đúng sai thiện ác này, tất
cả đều là nhân duyên quả báo”. “Nhãn kiến diệc phi chân”, tức là điều tôi thấy cũng không phải là sự thật. “Ngũ văn quân thị giả”, tai nghe, người ta nói xấu đều có thể là giả, không phải thật. Sư phụ sẽ giải thích đơn giản cho mọi người câu này: Có người cố ý vì muốn cho một người đối xử tốt với chính mình, khi người đó vắng mặt, biết có người sẽ truyền lời cho họ nghe, nên cố ý nói trước mặt người truyền lời rằng: “Cậu ta không tốt, tôi không thích cậu ấy”. Sau đó người nghe được đi nói với đối phương, dẫn đến đối phương đến tìm người nói xấu mình, sau khi tìm đến, cậu ta lại giả vờ nói: “Xin lỗi, tôi ồ, hóa ra ý của
anh là vậy”, được rồi, thế là kết bạn với cậu ta. Bắt đầu từ mối quan hệ không tốt với người này, dần dần trở thành mối quan hệ tốt. Cho nên, đôi khi kết bạn cũng như vậy, khi còn nhỏ, chúng ta nghe người ta nói đây là cách anh hùng cứu mỹ nhân, có một người rất thích cô gái trong lớp, cô rất xinh đẹp, nhưng không có cách nào tiếp cận với cô ấy, liền rủ rê vài người, buổi tối trên con đường cô ấy trở về, làm bộ đóng vai lưu manh, sau đó thanh niên này lao ra, để cho cô gái nảy sinh thiện cảm với mình.
Những gì tai nghe, mắt thấy đều không phải là sự thật. Quý vị nghĩ nó là thật sao? Nói xấu người thật sự không thể học được, chỉ cần nghe người khác nói xấu, thì quý vị không phải là một người học Phật tốt. Chúng ta không những không nên nghe những điều giả dối mà thậm chí chúng ta cũng không nên nghe những điều thật. Bởi vì chân thật ở nhân gian đều là giả, giả đều là thật, cho nên “thật nghĩ thành giả thì giả cũng thật, giả nghĩ thành thật thì thật cũng giả”. Thế giới này chính là thật thật giả giả. Cũng như nói chuyện, quý vị có biết câu nào thật, câu nào giả không? Tại sao nhiều người bị người khác lừa? Bởi vì thật thật giả giả. Quý vị nói họ toàn bộ đều là giả, nhưng họ lại có lời thật ở bên trong. Quý vị nói họ toàn bộ đều là thật, nhưng họ lại có nhiều lời giả dối trong đó. Vì vậy, Sư phụ bảo mọi người, những người học Phật chân chính, bất kể thời gian nào, từng phút từng giây đều không nên bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh bên ngoài. Quý vị hoàn toàn không có khái niệm về sự tác động của môi trường bên ngoài,
bởi vì quý vị đã triệt ngộ, đã biết thế giới này là thật thật giả giả, “Những gì mắt tôi nhìn thấy đều không nhất định là thật, những gì tai tôi nghe được cũng không nhất định là chân thật, huống chi những việc hiện tại tôi làm, hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng thế nào đi chăng nữa, tôi như như không động”. Chỉ khi tâm của quý vị tập trung vào Phật pháp thì quý vị mới có thể bước đi trên con đường Phật pháp. Để đạt được sự thanh tịnh thực sự bên trong, dù điều đúng sai, thị phi gì, hay điều gì đó, chỉ cần khác biệt một chút, thì tất cả những điều này “Như mộng huyễn bào ảnh. Như lộ diệc như điện”. Chỉ cần dùng tự tánh, bổn tánh của Bồ Tát quan sát mọi nhân duyên quả báo ở thế gian, thì quý vị sẽ hiểu rằng vạn vật trên thế gian này đều “ký vô lai xử, dã vô khứ xử” {không đến cũng không đi}, vậy tại sao quý vị lại phiền não?
Hôm nay muốn nói với mọi người một chút về thành Phật là cảnh giới gì. Ai cũng mong thành Phật phải không? Mọi người đều nói: “Tôi muốn thành Phật”, vậy thì thành Phật rốt cuộc phải có cảnh giới gì? Một người phàm muốn thành Phật thì trước tiên phải học Phật và tu Đạo. Tuy nhiên, trong khi mỗi người học Phật, một bên đang học Phật tu đạo, một bên đang tu với “sở đắc chi tâm” của mình. Cái gì gọi là sở đắc chi tâm? “Thật tuyệt vời nếu tôi thành Phật. Nếu hôm nay tôi tu tâm tốt, chắc chắn tôi sẽ thành Phật” đây chính là điều quý vị đã có được.
Còn có rất nhiều phàm phu ở nhân gian, trong khi học Phật tu đạo vẫn luôn vì cái “tôi” bản thân và tiến vào “ngã tướng” muốn thành Phật, “tôi” muốn học Phật, “tôi” muốn tu đạo, “tôi” nỗ lực như thế này, “tôi” nhất định sẽ thành Phật, điều này đã đi lệch khỏi cái gọi là “vô thủ vô chứng” trong giới Phật pháp. Để thực sự tu tâm của mình, quý vị phải tu “vô thủ vô chứng”, đó là một cảnh giới cao. “Vô thủ vô chứng” có nghĩa là chẳng có gì để đạt được. “Hôm nay tôi muốn thành Phật, nhưng tôi không có gì để đạt được cả”. Chỉ khi đó quý vị mới có thể thực sự đạt được nó. Nếu quý vị muốn thành Phật, muốn có được Phật, trên thực tế quý vị đã đi vào chấp trước. Nhiều người hỏi Sư Phụ: “Thưa Thầy,
nếu con khấu đầu bái lạy xin một điều gì, có tính là chấp trước không?” Từ góc độ của Bồ Tát, quý vị là chấp trước. Từ góc độ của người phàm tu tâm, điều này không tính là chấp trước. Cầu xin cho gia đình, cầu xin cho cha mẹ, cầu xin cho con cái là chuyện bình thường. Nhưng khi Đức Phật dụng đến “vô thủ vô chứng”, thì quý vị sẽ rất khó để thành Phật rồi, bởi vì cảnh giới của Phật rất cao. Rất nhiều người một bên tu tâm, một bên cho rằng mình đã nắm rõ được Phật pháp cùng Phật đạo, dường như đã nắm chắc được rất nhiều đạo lý của Phật, cảm thấy mình đã đạt tới cảnh giới thành Phật. Nếu như quý vị thường xuyên cảm thấy rằng “Tôi cứ tiếp tục tu như vậy thì tôi nhất định sẽ trở thành Phật”, vậy thì quý vị đã tự huỷ hoại đi cảnh giới học Phật của mình, bởi vì quý vị không thể tu luyện ra mà thành, cũng không có ai chứng nhận cho việc tu đó. Nếu quý vị nghĩ đến việc trở thành Phật, thì có thể quý vị sẽ không thể đạt được cảnh giới Phật quả cao hơn. Quý vị phải, ngay cả ý nghĩ làm điều này cũng không có, thì điều quý vị làm được gọi là thuần thiện, thuần thiện sự, như vậy chính là chân Phật, thuần Phật. Ngay cả ý niệm muốn thành Phật cũng không có, đó chính là thật sự muốn thành Phật. Bằng không tu không tốt, thì sẽ bị đọa vào cõi súc sinh, rơi vào cõi người và rơi vào trạng thái cống cao ngã mạn.
Tâm Kinh dạy chúng ta rằng “bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”. Khi tu tâm, quý vị tu tập bao nhiêu năm, thực ra sẽ không có tăng cũng không có giảm, bởi vì bản chất của quý vị vẫn như cũ, bởi vì bản thân quý vị sẽ có bổn tánh ở trong tâm. Trong lòng quý vị có thiện lương, từ nhỏ đã lương thiện, khi ra đi vẫn là người rất thiện lương, không tăng không giảm. Chỉ là thế giới bên ngoài mà quý vị tiếp xúc trong bát thức điền (thức thứ tám) khiến quý vị không nhìn thấy bản chất thực sự của mình, như thể nó chập chờn, lúc sáng lúc tối. Lấy một ví dụ đơn giản, tay của ai mà không thể làm việc được, đúng không? Nhưng người này đã hơn mười năm không làm việc thì tay họ còn có thể làm việc được không? Vẫn có thể làm việc được. Bàn tay của họ có tác dụng không? Tất nhiên là có tác dụng rồi. Bổn tánh của chúng ta tuy không dùng nó,
không lau sạch, nhưng không có nghĩa là chúng ta không có bổn tánh. Bổn tánh có được thì có gì mà tăng giảm? Do đó, “bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”. Không có giảm đi cũng không có tăng lên. Nó vẫn là bản chất ban đầu của quý vị, không có nhiều hơn một chút, cũng không có ít hơn một chút.
Nhiều người nói: “Tôi tu hành tu tâm”. Quý vị tu tâm là gì? Nên nói “tu” tức là lau tâm của quý vị, làm cách nào để lau cái tâm của quý vị sạch sẽ một chút mà thôi. Tâm vốn đã có rồi, còn cần quý vị tu nữa sao? Bổn tánh không giảm – bất tăng bất giảm, chỉ là bổn tánh của người không tu bị ô nhiễm mà thôi. Khi quý vị có chánh niệm trong tâm, thì tâm quý vị sẽ nhập vào thiên đường. Khi nội tâm của quý vị trở nên vô cùng thuần khiết, thì tâm của quý vị nhất định siêu thoát khỏi lục đạo. Khi quý vị bị bao quanh bởi những tạp niệm ở thế gian và cảm thấy rằng bản thân đã tu rất tốt, sau đó dùng quan điểm bất chính kiến và ngôn ngữ bất chính đi phỉ báng người khác, nói xấu người khác, đi nói pháp môn khác không tốt, thì quý vị sẽ tạo ra Nhân xuống địa ngục. Cho nên Sư phụ bảo mọi người, cũng giống như giữa hàng xóm với nhau, nhà quý vị có thể đẹp, quý vị có thể lót sàn, mua tủ lạnh, lắp điều hòa, nhưng quý vị không nên chê bai nhà người khác. Đừng vì bản thân không lắp nổi điều hòa, mà nói tiền điều hòa trong nhà người khác từ đâu mà có. Tất cả những điều này thật ra đã tạo thành Nhân khiến quý vị khổ sở.
Tâm và bổn tánh bất cấu bất tịnh, bởi vì nghiệp tạo ra trong thức thứ tám không hoàn toàn ảnh hưởng đến thức thứ chín (Amala Thức). Đây chính là Sư phụ nói cho mọi người biết, tại sao có một số người sau khi xuống địa ngục, khổ đã chịu hết rồi, có một số tội linh còn muốn đi lên đầu thai làm người? Bởi vì linh hồn của họ vẫn còn, chưa hoàn toàn tản đi, bởi vì lòng từ bi và thiện lương của thức thứ chín (Amala Thức) của họ vẫn còn, chỉ là hoàn toàn bị che khuất nhiễm ô, hoàn toàn không nhìn thấy, đợi đến khi ác nghiệp thọ báo, sạch sẽ rồi, họ còn có thể đầu thai làm người, đầu thai cõi súc sinh, ở trong sáu cõi. Thế nên tâm của
họ vẫn bất cấu bất tịnh, cũng bất tăng bất giảm. Sư phụ đưa ra một ví dụ đơn giản, trong nhà quý vị có một thiết bị điện đã lâu không dùng, bẩn vô cùng, đều bám bụi, bụi bám nhiều đến mức không nhìn ra là thiết bị điện gì nữa, giống như một cái hộp đầy bụi, khi quý vị lau sạch nó, bắt đầu sử dụng lại, nó có phải vẫn là một cái lò vi sóng hay không? Đây chính là điều Sư phụ nói với mọi người, hôm nay quý vị tu cũng được, không tu cũng được, bổn tánh của quý vị không thay đổi. Tại sao quý vị phải xuống địa ngục để chịu khổ? Bởi vì là thân thể của quý vị đang tạo nghiệp, linh hồn của quý vị đang tạo nghiệp, che khuất bổn tánh của quý vị, ảnh hưởng đến tự tánh của quý vị, tự tánh của quý vị liền trở nên ô trược, sẽ chịu khổ, sẽ chịu nạn, bởi vì bổn tánh của quý vị bị nhiễm ô rồi. Cho nên quý vị lên thiên đường hưởng phúc cũng được, xuống địa ngục chịu khổ cũng được, là cảm giác của quý vị – cảm giác của ý thức thứ tám đang chịu khổ, mà tự tánh của quý vị chỉ là bị che khuất, không thể tìm thấy được.
Đức Phật dạy chúng ta rằng con người bình thường trên thế giới này sống trong những cảm giác khổ lạc ưu hỉ. Đại chúng có cảm thấy rằng chúng ta sống trên đời này chính là một loại cảm thụ không? “Cảm thấy vui rồi, cảm thấy ăn uống rất vui vẻ”, “Bây giờ tôi cảm thấy vui, vừa rồi tôi cảm thấy không vừa ý”… Bởi vì đau khổ sẽ qua, hạnh phúc cũng sẽ qua, đây là cảm giác của quý vị Cảm giác đau khổ sẽ sớm tan biến. Một điều gì đó rất hạnh phúc, nó cũng sẽ sớm biến mất. Niềm vui và nỗi buồn có phải là một loại cảm thụ không? Có phải là một loại cảm giác không? Xét từ góc độ tâm lý học mà nói. Niềm vui và nỗi buồn là một loại cảm thụ thuộc về cơ quan cảm giác sinh lý: Nếu quý vị cảm thấy hạnh phúc thì quý vị hạnh phúc. Nếu quý vị cảm thấy vui vẻ, thì quý vị vui vẻ. Lo lắng cũng là một cảm giác ở các cơ quan thụ cảm bên trong. Khi quý vị cảm thấy đau, thì quý vị sẽ đau. Một số nhà trị liệu xoa bóp khi họ ấn vào chân quý vị và khiến quý vị nhảy lên vì đau. Nhưng tại sao có người càng ấn nặng, họ càng cảm thấy vui? Người thì đau vô cùng trong khi có người lại nói “cảm thấy thoải mái quá”. Đây là cảm giác của mỗi người không giống nhau. Cho nên yêu
thích cũng là một loại cảm giác trong tâm quý vị, gọi là “cảm thụ” – “thụ” của cảm giác. Chỉ cần quý vị trút bỏ được những cảm xúc này, thì quý vị sẽ buông bỏ được những cảm giác khổ lạc ưu hỉ. Khổ gì? Vui gì? Đào rỗng nó, làm trống nó, không có gì là khổ, không có gì là hạnh phúc, mọi thứ đều vô thường. Nếu quý vị buông nó xuống và sống ở nhân gian, thì quý vị sẽ không đau khổ cũng không hạnh phúc, và quý vị sẽ có được cảnh giới cực lạc ở nhân gian. Đồ giả thì có gì vui? Đồ giả thì có gì khổ? Đau khổ cũng là giả, vui sướng cũng là giả, vậy đến cuối cùng không hỉ không lạc, liền “Như như bất động”, thì có phải đã đến cảnh giới Cực Lạc rồi không?
Tâm Kinh nói: “Thị cố không trung vô sắc. Vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý. Vô sắc thanh hương vị xúc pháp”. “Không” này nghĩa là gì? Suy cho cùng thì chỉ là chữ “không”, cuối cùng là “Vô trí diệc vô đắc”. “Vô trí” là gì? “Trí” ám chỉ trí tuệ giải thoát, và trí tuệ giải thoát ám chỉ Phật tánh. “Vô trí” chữ “trí” này chính là trí tuệ giải thoát, và nó là Phật tánh, bổn tánh và Không tịch (vắng lặng), “Trí” này không phải là trí tuệ mà là Không tịch của bổn tánh Bồ Tát. “Vô trí diệc vô đắc”. Vô trí, đến cuối cùng, quý vị phải biết rời bỏ mọi hình tướng để có được hạnh phúc thực sự. Hôm nay quý vị chưa rời bỏ mọi hình tướng, thậm chí cả hình tướng giải thoát, nghĩa là hôm nay quý vị “Vô trí diệc vô đắc”, ngay cả ý nghĩ giải thoát cũng không được có và đều không thể có được – ba tâm không thể có được, “chư pháp không tướng”. Quý vị được gì? Cái tâm “Hôm nay tôi muốn giải thoát, thành Phật, thành Bồ Tát” cũng phải Không tánh – “Tâm này không thể có được”. Thì đó mới là cảnh giới cao để thành Bồ Tát, thành Phật. Hôm nay quý vị là một công nhân gương mẫu, quý vị chưa từng nghĩ đến việc trở thành công nhân gương mẫu “Tôi sẽ phục vụ chúng sinh thật tốt”. Cuối cùng, mọi người sẽ đưa quý vị lên báo, đăng quý vị lên báo, cho quý vị rất nhiều tiền thưởng, và cho quý vị tất cả, nhưng quý vị chưa bao giờ nghĩ đến, chưa bao giờ nghĩ đến bản thân, vậy có phải cảnh giới của quý vị đã cao rồi không? Nếu quý vị đang là một công nhân gương mẫu, quý vị liền
nghĩ đến: “Tôi sẽ lên báo, tôi sẽ lên sân khấu dưới sự vây quanh của mọi người, sẽ đeo vòng hoa lớn, sẽ nhận được giấy khen lớn, sẽ nhận được rất nhiều tiền thưởng…”. Vậy thì cảnh giới của quý vị so với gương mẫu còn kém rất xa.
Trí tuệ thành Phật, là chư Phật niết bàn diệu tâm. “Vô trí diệc vô đắc” không phải là nói không có trí tuệ, mà là hôm nay ngay cả tâm muốn giải thoát trong bổn tánh của quý vị cũng không được có, vô đắc. Tâm kinh vì sao đặc sắc? Chính là nói cho chúng ta biết, trên thế giới này, “Thị cố không trung vô sắc. Vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý. Vô sắc thanh hương vị xúc pháp”, hết thảy đều là không có. Vậy ở đâu ra? Đó là cảm giác của quý vị, mọi thứ đều trống rỗng. Sau đó “Vô trí diệc vô đắc”, chính là cảnh giới của Phật rồi. Tâm muốn thành Phật đều không còn, bởi vì “Vô trí diệc vô đắc”, không phải là “vô thủ vô chứng” rồi sao? Không có bất kỳ đòi hỏi nào, cũng không có bất kỳ chứng đắc Phật pháp nào, chính là nói tất cả mọi thứ quý vị có ở nhân gian, đến cuối cùng chính là hai chữ “Không Vô”. Quý vị biết là “Không Vô”, vậy thì quý vị đã thành Phật rồi. Nếu quý vị vẫn có một cái gì đó, bao gồm cả ý tưởng của quý vị, bao gồm một số khái niệm “Tôi muốn trở thành Phật”, thì làm sao quý vị có thể trở thành Phật trong kiếp này? Quý vị liền cách xa Phật vạn dặm rồi.
65. Cảnh giới kham nhẫn là nền tảng của Phật
Tập 65
CẢNH GIỚI KHAM NHẪN LÀ NỀN TẢNG CỦA PHẬT
(09/05/2020)
Quý vị thấy đấy trong Tâm Kinh thật kỳ diệu biết bao, Sư phụ càng giảng cho mọi người thì càng cảm thấy kỳ diệu. Bởi vì “Vô thọ tưởng hành thức”, “Vô sắc”, “Vô khổ tập diệt đạo. Vô trí diệc vô đắc”, nếu cái gì cũng không có, thì quý vị liền có được bổn tánh. Nếu căn phòng này là của quý vị, quý vị cho người khác thuê, căn phòng này vốn trống rỗng, quý vị cho người bán kẹo thuê, và cho anh ta một phần tư không gian để bày kẹo. Quý vị cho người bán bột mì thuê, và lại chất bột mì vào. Quý vị lại cho người bán máy móc thuê, một phần tư cuối cùng cũng dùng để bày bán thứ gì đó, toàn bộ kho hàng đều cho thuê hết rồi. Không gian trong phòng này có phải đã được chất đầy rồi không? Vậy thì quý vị còn sở hữu bổn tánh của mình nữa hay không? Quý vị không thể sở hữu căn phòng này nữa và không thể làm bất cứ điều gì nữa, đúng không? Cho đến khi dọn hết những thứ này đi, quý vị sẽ sở hữu ngôi nhà ban đầu, đúng không? Vậy thì quý vị có được bổn tánh ban đầu rồi phải không? Chính là cái đạo lý này.
Cảnh giới thành Phật là cảnh giới viên giác (tánh giác viên mãn), khi thấy người khác không vui thì phải nhận ra: “Tôi đã làm gì sai?” Đừng nổi giận với người khác, nếu tức giận với họ thì chắc chắn bản thân có vấn đề. Nếu quý vị có cảm giác không tốt đối với một sự việc gì đó, tức là quý vị vẫn chưa “viên” (tức là làm cho sự việc này toàn vẹn), chưa giác ngộ viên mãn. Có một bộ kinh Phật tên là “Viên Giác Kinh”, chính là làm thế nào để giác ngộ viên mãn, thực ra nó có nghĩa là “Vô thủ vô chứng”. Mọi người đều nói: “Tôi muốn cái này, tôi muốn cái kia”. Cuối cùng, trên đời không có thứ gì mang theo được. Chỉ có thành Phật mới có thể đạt được cảnh giới giác ngộ viên mãn thật sự. Cảnh giới viên mãn chính là đã chứng đắc Phật pháp viên mãn, hiểu được Phật pháp triệt để, thì mới có được cảnh giới của Phật. Chỉ khi quý vị hoàn toàn hiểu được một người nào đó mà quý vị yêu mến, thì quý vị mới có thể có được người ấy. Sau khi hiểu biết thấu đáo về đạo Phật thì mới có thể theo Phật tổ tiến về phía trước,
hiểu thấu đáo lòng đại từ đại bi vĩ đại của Quán Thế Âm Bồ Tát đã mang đến cho chúng ta sự yên bình và hạnh phúc vô hạn, thì chúng ta mới có thể có được Phật pháp của Quán Thế Âm Bồ Tát.
Trong xã hội có một số người xem được một chút kinh văn, cảm thấy mình rất am hiểu, sau đó bắt đầu giảng – phạm giới vọng ngữ, không hiểu giảng lung tung. “Bất đắc chứng nhi loạn thuyết” có nghĩa là không có chứng ngộ Phật tánh, thì quý vị không được giảng lung tung. Cũng giống như một người, không điều tra thì không có tiếng nói. Quý vị có hiểu chuyện này không, hiểu rồi mới nói. Nếu quý vị không hiểu thì tại sao quý vị lại nói về nó? Nếu quý vị không hiểu mà nói ra, thì mọi người sẽ cười nhạo quý vị, cũng như nói với mọi người rằng: “Tôi không có đầu óc và tôi nói những điều vô nghĩa”. Vì vậy, đôi khi nhiều người phạm phải khẩu nghiệp, và một số thậm chí còn phạm tội đọa địa ngục.
Cho nên trong thực tướng “Thực vô Bồ Tát và chúng sinh”, là không có Bồ Tát và chúng sinh. Bồ Tát và chúng sinh ở đâu ra? Bồ Tát chính là chúng sinh, chúng sinh đã khai ngộ chính là Bồ Tát, Bồ Tát chưa khai ngộ chính là chúng sinh. Cho nên là để nói cho chúng ta biết rằng, trong đời sống của Như Lai chân thật là không có Bồ Tát và chúng sinh. Người có trí tuệ coi mọi người như một vị Bồ Tát, vị Phật tương lai. Nếu một người đối xử với người khác như Bồ Tát, quý vị có nghĩ rằng mọi người sẽ thích người đó không? Chắc chắn rằng người này rất tôn kính mọi người và họ sẽ không có tâm cống cao ngã mạn. Con người phải sống trong thế giới thực tướng, chính là thế giới của Như Lai chân thực. Trước hết không được nói dối, phải thừa nhận sự thật. Còn có một số người tu tâm, dù có nói cho họ biết chuyện này là thật, thì họ cũng không tin. Dù có nói sự việc này là sự việc của Như Lai chân thật, họ cũng nói “có thể không phải”, nên họ vĩnh viễn không thấy được cảnh giới chân thật của Phật, “tin thì có, không tin thì không có”. Thực tướng chính là chân tướng thực thực tại tại và sự hiểu biết về cảnh giới của Phật.
Phải quán thế gian khổ-không-vô thường. Thế gian này hết thảy đều là khổ-không-vô thường, có gì mà to tát lắm đâu, quá khứ đã đi qua rồi, một câu nói, một sự việc, nếu không có bản ngã thì sẽ được giải thoát, người được giải thoát sẽ có trí tuệ. Niệm kinh là sự khởi đầu của minh tâm kiến tánh, nếu chưa rõ ràng thì tụng kinh thường xuyên hơn sẽ giúp quý vị minh tâm kiến tánh. Tranh đấu của nhân loại chúng ta, từ xã hội nguyên thủy cho đến ngày nay chưa bao giờ dừng lại, đây chính là nghiệp lực. Bởi vì nhân loại chưa đạt đến cảnh giới của Phật, chưa đạt đến cảnh giới của Bồ Tát, nên không thể thoát khỏi những vòng tuần hoàn ác tính đó. Vì vậy, khi nhìn thấy người khác, trước hết họ tìm tật xấu của đối phương, coi thường người khác, khen ngợi mình, đố kỵ người, khiến cho bản thân có được càng nhiều tham muốn ích kỷ hơn. Do bản chất xấu xa của con người, nên trong thế giới này mới nảy sinh ra đủ loại tranh đấu, đó là tham muốn sinh tồn mà sinh ra dục vọng, những dục vọng này khiến quý vị ở trong lục đạo không được siêu sinh và vĩnh viễn ở trong lục đạo luân hồi.
Quán Thế Âm Bồ Tát đảo giá Từ Hàng đến nhân gian chúng ta, khổ khẩu bà tâm khuyên can chúng ta, đến để điều phục và khơi dậy những thay đổi trong tâm thái chúng ta, để cho chúng ta hiểu được thế giới này hết thảy đều là khổ-không-vô thường. Chỉ bằng cách hiểu đúng Phật giáo, hoàn thiện Phật tâm nguyên thủy, khơi dậy Phật tánh bên trong và thay đổi thái độ của mình, thì mới có thể tìm thấy vị Phật chân chính trong cuộc đời. Phật ở xa tận chân trời, gần ngay trước mắt, chính là chân Phật trong lòng quý vị, chính là chân Phật trong trường thức thứ chín, Amala thức của quý vị, chính là lương tâm cùng bổn tánh của quý vị, là Phật tánh chân chính và cái tâm nguyên thủy của quý vị. Vì vậy, phải hiểu rằng học Phật chính là một loại hiểu biết, học Phật chính là giúp đỡ người khác, học Phật chính là chìa khóa để giải thoát bản thân khỏi mọi phiền não và buồn khổ hiện tại. Nếu hôm nay quý vị không làm được những điều này, có nghĩa là quý vị vẫn chưa được giải thoát, vẫn còn luân hồi trong khổ nạn. Chỉ
có buông bỏ hoàn toàn thì quý vị mới được giải thoát một cách triệt để. Quý vị buông bỏ bao nhiêu, sẽ giải thoát được bấy nhiêu: nếu quý vị buông bỏ hoàn toàn, thì sẽ đạt được sự giải thoát hoàn toàn của đại viên mãn.
Được rồi, cuối cùng Sư phụ kể cho mọi người nghe một câu chuyện về Phật giáo.
Đức Phật năm đó cùng các đệ tử của Ngài mỗi ngày đi thác bát khất thực, là vì muốn giải quyết ấm no của bản thân sao? Không hẳn. Người xuất gia hoàn toàn có thể tự làm nông. Như vậy thác bát khất thực rốt cuộc là vì cái gì? Là muốn cho chúng sinh một cơ hội để phát triển thiện căn. Nhưng rất nhiều người không hiểu, cho rằng “Tại sao các vị không nấu ăn, mà lại muốn để người ta đến cúng dường cho các vị?”, trên thực tế, ý của Đức Phật chính là muốn thí chủ nhận được đại phúc báu. Quý vị thử nghĩ xem, nếu không có ai đến xin ăn, thì làm sao quý vị có thể bố thí được? Pháp thí, tài thí, vô úy thí mà quý vị bố thí ngày hôm nay, cần phải có người đến tiếp nhận, khi họ tiếp nhận bố thí của quý vị, thì quý vị sẽ có được đại phúc báu. Sau đây kể cho mọi người nghe câu chuyện này, chính là khiến cho một vị Bà La Môn cuối cùng đã giải quyết được những phiền não trong lòng và chứng đắc được Chánh quả.
Trong thành Xá Vệ có một vị Bà La Môn (Bà La Môn chính là bậc quý tộc có địa vị ở Ấn Độ năm đó), ông thông minh nhanh nhẹn bẩm sinh, suy nghĩ sâu sắc, hơn nữa còn có vô số của cải, phú khả địch quốc (tức là vô cùng giàu có), cả đời hầu như không có thứ gì ông muốn mà không có được. Dân trong thành thấy ông đều hâm mộ. Ông rất bài xích Phật pháp, ông thường nói một câu: “Bố thí là lãng phí tiền bạc, làm việc thiện là hành động vô nghĩa”. Một chút căn Phật trong ông cũng không có.
Một buổi trưa hôm nọ, Tôn giả Xá Lợi Phất hiển hóa thần túc thông, từ một nơi rất xa đến trước mặt vị Bà La Môn này, Xá Lợi Phất tay cầm bát đất đứng bất động (đột nhiên đứng bất động trước mặt vị Bà Là Môn này). Lúc này, vị Bà La
Môn đang chuẩn bị ngồi ăn, thì vô cùng tức giận khi nhìn thấy Tôn giả Xá Lợi Phất đột nhiên đến. Bình thường ông khinh thường người ăn xin, đang định mắng chửi, nhưng vừa mở miệng thì trong đầu chợt nảy ra một ý nghĩ, ông định làm cho vị hòa thượng này tự chuốc họa vào thân.
Thế là vị Bà La Môn quay người ngồi xuống, như thể ông ta không nhìn thấy Tôn giả Xá Lợi Phất, thậm chí không thèm nhìn một cái, không trục xuất cũng không hoan nghênh, ông không để ý đến Ngài mà tiếp tục ăn một mình. Một lúc sau, khi vị Bà La Môn này đã no nê, ông đổ nước định dùng để rửa tay và súc miệng vào bát khất thực của Tôn giả Xá Lợi Phất và nói: “Đây là những gì ta muốn bố thí cho ông hôm nay, ông có thể đi được rồi.” Không ngờ Tôn Giả Xá Lợi Phất không hề tức giận, ngược lại còn từ bi chúc phúc cho ông: “Cầu mong sự cúng dường chân thành của Ngài ngày hôm nay mang đến cho Ngài vô lượng phước lành trong trăm kiếp và hàng nghìn kiếp”. Nói xong, Xá Lợi Phất quay người chậm rãi rời đi. Nếu dùng cách nghĩ của người hiện đại, thì điều đầu tiên hiện lên trong câu nói này là chế giễu ông, nhưng Xá Lợi Phất rất thành thật và cảm thấy rằng “Tôi vô cùng biết ơn bát nước mà ông cúng dường”.
Vị Bà La Môn nhìn bóng dáng Tôn giả đang dần rời xa, bất tri bất giác trong lòng chợt nảy sinh ý nghĩ sợ hãi, ông vừa đi vừa nghĩ: “Nếu Sa Môn này đi khắp nơi nói về hành động của mình và phô trương ra ngoài, thì chắc chắn người ta sẽ cho rằng ta là một quỷ ma keo kiệt không hề có lòng cung kính.” Vị Bà La Môn càng nghĩ càng không yên lòng, vì vậy liền phái người hầu truy tìm Tôn giả Xá Lợi Phất về.
Sau khi Tôn giả Xá Lợi Phất rời đi, Ngài trở về thẳng Tinh Xá. Ngài nghĩ: “Hôm nay tôi xin được bát nước này, tôi muốn mang lại lợi ích tối đa cho vị thí chủ này (nghĩa là biến nó thành một việc làm công đức).” Ngay sau đó, ông nghĩ ra một phương pháp. Ông đổ nước trong bát vào một cục bùn, rồi trộn đều lên, khi bùn thật mềm, ông lấy ra và rải ở bất cứ nơi nào Đức Phật thường lui
tới. Vào thời đó, Đức Phật và các vị Tỳ kheo đều đi chân trần, nếu có một cục bùn hòa trộn cùng với nước thì đi trên đó sẽ êm chân hơn. Rồi ông liền thưa với Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, vị thí chủ này bản tính keo kiệt, ông chỉ nguyện ý bố thí những thứ nước này. Tuy nhiên, để tránh cho ông ta sa vào ba đường ác, con đã dùng bát nước và đất bùn này để đắp đường cho Đức Phật, và cầu mong Đức Phật từ bi mà đi trên mảnh đất này, để vị Bà La Môn này có thể nhận được đại phước báu mãi mãi”. Tôn giả Xá Lợi Phất đều rất thành tâm, ông mong Đức Phật sẽ đi qua lớp bùn mềm do ông trải ra để vị Bà La Môn được phước lớn. Sau khi nghe Tôn giả Xá Lợi Phất diễn thuyết, Đức Phật đã nhận lời thỉnh cầu của Xá Lợi Phất với lòng đại từ bi, rồi nhập định, đi trên đất bùn rồi bước tới.
Lúc này người hầu do vị Bà La Môn sai đến chứng kiến sự việc, ở bên cạnh vô cùng cảm động, lập tức trở về nhà Bà La Môn để cụ trần kỳ sự cho Bà La Môn (tức là lập tức báo cáo sự việc này cho Bà La Môn nghe): “Thưa Bà-la-môn, Đức Phật Tối Cao vô thượng vốn là hoàng tử của một vương quốc, nhưng nay Ngài đã từ bỏ ngôi vị Chuyển Luân Thánh Vương mà mọi người hâm mộ, dẫn dắt các đệ tử của Ngài tu hành và khất thực xin ăn. Ngài ấy không có thức ăn ư? Ngài ấy có. Ngài chỉ muốn mang lại phước báu cho tất cả chúng sinh, cho chúng sinh cơ hội để phát triển thiện căn, là do Ngài từ bi và không làm những việc khất thực này vì lợi ích riêng của mình. “Sau khi nghe điều này, vị Bà La Môn cảm thấy vô cùng hổ thẹn về những hành động và ý nghĩ xấu xa của mình nên đã đưa cả gia đình đến Tinh Xá để cầu xin sám hối với Đức Phật, mong Đức Phật tha thứ cho sự thiếu hiểu biết của mình. Đức Phật đã truyền thụ cho ông tam quy y đồng thời thuyết pháp, vị Bà La Môn liền tiêu trừ mọi phiền não trong tâm và đắc đạo chứng quả.
Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng, chúng ta phải biết quan tâm và thấu hiểu người khác. Cuộc sống là một kiểu quan tâm và thấu hiểu người khác. Nếu quý vị biết quan tâm và thấu hiểu người khác thì quý vị sẽ bao dung với họ, cuộc sống sẽ ấm áp, cuộc sống sẽ bình yên, nhiều phiền não đến từ việc chúng
ta không thể thông cảm cho người khác. “Thiên hữu bất trắc phong vân, nhân hữu sớm chiều họa phúc.” Cảm xúc của mỗi người sẽ thay đổi, chúng ta không nên quá quan tâm đến ý kiến và sự chấp trước của bản thân, chúng ta có thể hiểu người khác hơn. Một số người không hiểu nhau và đó là lý do tại sao họ không nhượng bộ và làm tổn thương nhau. Chúng ta nên nhận ra rằng mọi việc trên đời này đều có tiến có lùi, nếu biết nhường nhịn thì sẽ thấy được tâm bình thường quan trọng biết nhường nào. Có gì mà to tát lắm đâu? Tâm bình thường thôi, đời có gì mà không vui? Không cần phải đấu tranh với những chấp trước của chính mình, hãy tiêu trừ đi những cố chấp của bản thân. Điều mà một người cần trong cuộc sống là một trái tim hiểu người khác, một sự hồn nhiên như trẻ thơ, một trái tim trong sáng, một niềm tin, một cơ thể khỏe mạnh, một tâm thái cân bằng cũng như một giấc ngủ ngon và một trái tim nhìn về tương lai, tận hưởng cuộc sống và biết đủ. Người có thể thực sự hiểu Phật pháp là người có thể nhìn thấy tương lai và nhìn thấy ánh sáng. Chúng ta hãy học Phật và tu tâm, đoạn trừ tham, sân, si, mạn, nghi. Dùng tấm lòng của một vị Phật để hướng tới Bồ-đề và ánh sáng với tinh tấn và nhẫn nhục mỗi ngày.
Được rồi, bài giảng “Bạch Thoại Phật Pháp” dành cho đại chúng hôm nay xin tạm dừng tại đây, hẹn gặp lại mọi người vào tiết mục lần sau. Cảm ơn đại chúng.
65. Cảnh giới kham nhẫn là nền tảng của Phật
Tập 65
CẢNH GIỚI KHAM NHẪN LÀ NỀN TẢNG CỦA PHẬT
(09/05/2020)
Quý vị thấy đấy trong Tâm Kinh thật kỳ diệu biết bao, Sư phụ càng giảng cho mọi người thì càng cảm thấy kỳ diệu. Bởi vì “Vô thọ tưởng hành thức”, “Vô sắc”, “Vô khổ tập diệt đạo. Vô trí diệc vô đắc”, nếu cái gì cũng không có, thì quý vị liền có được bổn tánh. Nếu căn phòng này là của quý vị, quý vị cho người khác thuê, căn phòng này vốn trống rỗng, quý vị cho người bán kẹo thuê, và cho anh ta một phần tư không gian để bày kẹo. Quý vị cho người bán bột mì thuê, và lại chất bột mì vào. Quý vị lại cho người bán máy móc thuê, một phần tư cuối cùng cũng dùng để bày bán thứ gì đó, toàn bộ kho hàng đều cho thuê hết rồi. Không gian trong phòng này có phải đã được chất đầy rồi không? Vậy thì quý vị còn sở hữu bổn tánh của mình nữa hay không? Quý vị không thể sở hữu căn phòng này nữa và không thể làm bất cứ điều gì nữa, đúng không? Cho đến khi dọn hết những thứ này đi, quý vị sẽ sở hữu ngôi nhà ban đầu, đúng không? Vậy thì quý vị có được bổn tánh ban đầu rồi phải không? Chính là cái đạo lý này.
Cảnh giới thành Phật là cảnh giới viên giác (tánh giác viên mãn), khi thấy người khác không vui thì phải nhận ra: “Tôi đã làm gì sai?” Đừng nổi giận với người khác, nếu tức giận với họ thì chắc chắn bản thân có vấn đề. Nếu quý vị có cảm giác không tốt đối với một sự việc gì đó, tức là quý vị vẫn chưa “viên” (tức là làm cho sự việc này toàn vẹn), chưa giác ngộ viên mãn. Có một bộ kinh Phật tên là “Viên Giác Kinh”, chính là làm thế nào để giác ngộ viên mãn, thực ra nó có nghĩa là “Vô thủ vô chứng”. Mọi người đều nói: “Tôi muốn cái này, tôi muốn cái kia”. Cuối cùng, trên đời không có thứ gì mang theo được. Chỉ có thành Phật mới có thể đạt được cảnh giới giác ngộ viên mãn thật sự. Cảnh giới viên mãn chính là đã chứng đắc Phật pháp viên mãn, hiểu được Phật pháp triệt để, thì mới có được cảnh giới của Phật. Chỉ khi quý vị hoàn toàn hiểu được một người nào đó mà quý vị yêu mến, thì quý vị mới có thể có được người ấy. Sau khi hiểu biết thấu đáo về đạo Phật thì mới có thể theo Phật tổ tiến về phía trước,
hiểu thấu đáo lòng đại từ đại bi vĩ đại của Quán Thế Âm Bồ Tát đã mang đến cho chúng ta sự yên bình và hạnh phúc vô hạn, thì chúng ta mới có thể có được Phật pháp của Quán Thế Âm Bồ Tát.
Trong xã hội có một số người xem được một chút kinh văn, cảm thấy mình rất am hiểu, sau đó bắt đầu giảng – phạm giới vọng ngữ, không hiểu giảng lung tung. “Bất đắc chứng nhi loạn thuyết” có nghĩa là không có chứng ngộ Phật tánh, thì quý vị không được giảng lung tung. Cũng giống như một người, không điều tra thì không có tiếng nói. Quý vị có hiểu chuyện này không, hiểu rồi mới nói. Nếu quý vị không hiểu thì tại sao quý vị lại nói về nó? Nếu quý vị không hiểu mà nói ra, thì mọi người sẽ cười nhạo quý vị, cũng như nói với mọi người rằng: “Tôi không có đầu óc và tôi nói những điều vô nghĩa”. Vì vậy, đôi khi nhiều người phạm phải khẩu nghiệp, và một số thậm chí còn phạm tội đọa địa ngục.
Cho nên trong thực tướng “Thực vô Bồ Tát và chúng sinh”, là không có Bồ Tát và chúng sinh. Bồ Tát và chúng sinh ở đâu ra? Bồ Tát chính là chúng sinh, chúng sinh đã khai ngộ chính là Bồ Tát, Bồ Tát chưa khai ngộ chính là chúng sinh. Cho nên là để nói cho chúng ta biết rằng, trong đời sống của Như Lai chân thật là không có Bồ Tát và chúng sinh. Người có trí tuệ coi mọi người như một vị Bồ Tát, vị Phật tương lai. Nếu một người đối xử với người khác như Bồ Tát, quý vị có nghĩ rằng mọi người sẽ thích người đó không? Chắc chắn rằng người này rất tôn kính mọi người và họ sẽ không có tâm cống cao ngã mạn. Con người phải sống trong thế giới thực tướng, chính là thế giới của Như Lai chân thực. Trước hết không được nói dối, phải thừa nhận sự thật. Còn có một số người tu tâm, dù có nói cho họ biết chuyện này là thật, thì họ cũng không tin. Dù có nói sự việc này là sự việc của Như Lai chân thật, họ cũng nói “có thể không phải”, nên họ vĩnh viễn không thấy được cảnh giới chân thật của Phật, “tin thì có, không tin thì không có”. Thực tướng chính là chân tướng thực thực tại tại và sự hiểu biết về cảnh giới của Phật.
Phải quán thế gian khổ-không-vô thường. Thế gian này hết thảy đều là khổ-không-vô thường, có gì mà to tát lắm đâu, quá khứ đã đi qua rồi, một câu nói, một sự việc, nếu không có bản ngã thì sẽ được giải thoát, người được giải thoát sẽ có trí tuệ. Niệm kinh là sự khởi đầu của minh tâm kiến tánh, nếu chưa rõ ràng thì tụng kinh thường xuyên hơn sẽ giúp quý vị minh tâm kiến tánh. Tranh đấu của nhân loại chúng ta, từ xã hội nguyên thủy cho đến ngày nay chưa bao giờ dừng lại, đây chính là nghiệp lực. Bởi vì nhân loại chưa đạt đến cảnh giới của Phật, chưa đạt đến cảnh giới của Bồ Tát, nên không thể thoát khỏi những vòng tuần hoàn ác tính đó. Vì vậy, khi nhìn thấy người khác, trước hết họ tìm tật xấu của đối phương, coi thường người khác, khen ngợi mình, đố kỵ người, khiến cho bản thân có được càng nhiều tham muốn ích kỷ hơn. Do bản chất xấu xa của con người, nên trong thế giới này mới nảy sinh ra đủ loại tranh đấu, đó là tham muốn sinh tồn mà sinh ra dục vọng, những dục vọng này khiến quý vị ở trong lục đạo không được siêu sinh và vĩnh viễn ở trong lục đạo luân hồi.
Quán Thế Âm Bồ Tát đảo giá Từ Hàng đến nhân gian chúng ta, khổ khẩu bà tâm khuyên can chúng ta, đến để điều phục và khơi dậy những thay đổi trong tâm thái chúng ta, để cho chúng ta hiểu được thế giới này hết thảy đều là khổ-không-vô thường. Chỉ bằng cách hiểu đúng Phật giáo, hoàn thiện Phật tâm nguyên thủy, khơi dậy Phật tánh bên trong và thay đổi thái độ của mình, thì mới có thể tìm thấy vị Phật chân chính trong cuộc đời. Phật ở xa tận chân trời, gần ngay trước mắt, chính là chân Phật trong lòng quý vị, chính là chân Phật trong trường thức thứ chín, Amala thức của quý vị, chính là lương tâm cùng bổn tánh của quý vị, là Phật tánh chân chính và cái tâm nguyên thủy của quý vị. Vì vậy, phải hiểu rằng học Phật chính là một loại hiểu biết, học Phật chính là giúp đỡ người khác, học Phật chính là chìa khóa để giải thoát bản thân khỏi mọi phiền não và buồn khổ hiện tại. Nếu hôm nay quý vị không làm được những điều này, có nghĩa là quý vị vẫn chưa được giải thoát, vẫn còn luân hồi trong khổ nạn. Chỉ
có buông bỏ hoàn toàn thì quý vị mới được giải thoát một cách triệt để. Quý vị buông bỏ bao nhiêu, sẽ giải thoát được bấy nhiêu: nếu quý vị buông bỏ hoàn toàn, thì sẽ đạt được sự giải thoát hoàn toàn của đại viên mãn.
Được rồi, cuối cùng Sư phụ kể cho mọi người nghe một câu chuyện về Phật giáo.
Đức Phật năm đó cùng các đệ tử của Ngài mỗi ngày đi thác bát khất thực, là vì muốn giải quyết ấm no của bản thân sao? Không hẳn. Người xuất gia hoàn toàn có thể tự làm nông. Như vậy thác bát khất thực rốt cuộc là vì cái gì? Là muốn cho chúng sinh một cơ hội để phát triển thiện căn. Nhưng rất nhiều người không hiểu, cho rằng “Tại sao các vị không nấu ăn, mà lại muốn để người ta đến cúng dường cho các vị?”, trên thực tế, ý của Đức Phật chính là muốn thí chủ nhận được đại phúc báu. Quý vị thử nghĩ xem, nếu không có ai đến xin ăn, thì làm sao quý vị có thể bố thí được? Pháp thí, tài thí, vô úy thí mà quý vị bố thí ngày hôm nay, cần phải có người đến tiếp nhận, khi họ tiếp nhận bố thí của quý vị, thì quý vị sẽ có được đại phúc báu. Sau đây kể cho mọi người nghe câu chuyện này, chính là khiến cho một vị Bà La Môn cuối cùng đã giải quyết được những phiền não trong lòng và chứng đắc được Chánh quả.
Trong thành Xá Vệ có một vị Bà La Môn (Bà La Môn chính là bậc quý tộc có địa vị ở Ấn Độ năm đó), ông thông minh nhanh nhẹn bẩm sinh, suy nghĩ sâu sắc, hơn nữa còn có vô số của cải, phú khả địch quốc (tức là vô cùng giàu có), cả đời hầu như không có thứ gì ông muốn mà không có được. Dân trong thành thấy ông đều hâm mộ. Ông rất bài xích Phật pháp, ông thường nói một câu: “Bố thí là lãng phí tiền bạc, làm việc thiện là hành động vô nghĩa”. Một chút căn Phật trong ông cũng không có.
Một buổi trưa hôm nọ, Tôn giả Xá Lợi Phất hiển hóa thần túc thông, từ một nơi rất xa đến trước mặt vị Bà La Môn này, Xá Lợi Phất tay cầm bát đất đứng bất động (đột nhiên đứng bất động trước mặt vị Bà Là Môn này). Lúc này, vị Bà La
Môn đang chuẩn bị ngồi ăn, thì vô cùng tức giận khi nhìn thấy Tôn giả Xá Lợi Phất đột nhiên đến. Bình thường ông khinh thường người ăn xin, đang định mắng chửi, nhưng vừa mở miệng thì trong đầu chợt nảy ra một ý nghĩ, ông định làm cho vị hòa thượng này tự chuốc họa vào thân.
Thế là vị Bà La Môn quay người ngồi xuống, như thể ông ta không nhìn thấy Tôn giả Xá Lợi Phất, thậm chí không thèm nhìn một cái, không trục xuất cũng không hoan nghênh, ông không để ý đến Ngài mà tiếp tục ăn một mình. Một lúc sau, khi vị Bà La Môn này đã no nê, ông đổ nước định dùng để rửa tay và súc miệng vào bát khất thực của Tôn giả Xá Lợi Phất và nói: “Đây là những gì ta muốn bố thí cho ông hôm nay, ông có thể đi được rồi.” Không ngờ Tôn Giả Xá Lợi Phất không hề tức giận, ngược lại còn từ bi chúc phúc cho ông: “Cầu mong sự cúng dường chân thành của Ngài ngày hôm nay mang đến cho Ngài vô lượng phước lành trong trăm kiếp và hàng nghìn kiếp”. Nói xong, Xá Lợi Phất quay người chậm rãi rời đi. Nếu dùng cách nghĩ của người hiện đại, thì điều đầu tiên hiện lên trong câu nói này là chế giễu ông, nhưng Xá Lợi Phất rất thành thật và cảm thấy rằng “Tôi vô cùng biết ơn bát nước mà ông cúng dường”.
Vị Bà La Môn nhìn bóng dáng Tôn giả đang dần rời xa, bất tri bất giác trong lòng chợt nảy sinh ý nghĩ sợ hãi, ông vừa đi vừa nghĩ: “Nếu Sa Môn này đi khắp nơi nói về hành động của mình và phô trương ra ngoài, thì chắc chắn người ta sẽ cho rằng ta là một quỷ ma keo kiệt không hề có lòng cung kính.” Vị Bà La Môn càng nghĩ càng không yên lòng, vì vậy liền phái người hầu truy tìm Tôn giả Xá Lợi Phất về.
Sau khi Tôn giả Xá Lợi Phất rời đi, Ngài trở về thẳng Tinh Xá. Ngài nghĩ: “Hôm nay tôi xin được bát nước này, tôi muốn mang lại lợi ích tối đa cho vị thí chủ này (nghĩa là biến nó thành một việc làm công đức).” Ngay sau đó, ông nghĩ ra một phương pháp. Ông đổ nước trong bát vào một cục bùn, rồi trộn đều lên, khi bùn thật mềm, ông lấy ra và rải ở bất cứ nơi nào Đức Phật thường lui
tới. Vào thời đó, Đức Phật và các vị Tỳ kheo đều đi chân trần, nếu có một cục bùn hòa trộn cùng với nước thì đi trên đó sẽ êm chân hơn. Rồi ông liền thưa với Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, vị thí chủ này bản tính keo kiệt, ông chỉ nguyện ý bố thí những thứ nước này. Tuy nhiên, để tránh cho ông ta sa vào ba đường ác, con đã dùng bát nước và đất bùn này để đắp đường cho Đức Phật, và cầu mong Đức Phật từ bi mà đi trên mảnh đất này, để vị Bà La Môn này có thể nhận được đại phước báu mãi mãi”. Tôn giả Xá Lợi Phất đều rất thành tâm, ông mong Đức Phật sẽ đi qua lớp bùn mềm do ông trải ra để vị Bà La Môn được phước lớn. Sau khi nghe Tôn giả Xá Lợi Phất diễn thuyết, Đức Phật đã nhận lời thỉnh cầu của Xá Lợi Phất với lòng đại từ bi, rồi nhập định, đi trên đất bùn rồi bước tới.
Lúc này người hầu do vị Bà La Môn sai đến chứng kiến sự việc, ở bên cạnh vô cùng cảm động, lập tức trở về nhà Bà La Môn để cụ trần kỳ sự cho Bà La Môn (tức là lập tức báo cáo sự việc này cho Bà La Môn nghe): “Thưa Bà-la-môn, Đức Phật Tối Cao vô thượng vốn là hoàng tử của một vương quốc, nhưng nay Ngài đã từ bỏ ngôi vị Chuyển Luân Thánh Vương mà mọi người hâm mộ, dẫn dắt các đệ tử của Ngài tu hành và khất thực xin ăn. Ngài ấy không có thức ăn ư? Ngài ấy có. Ngài chỉ muốn mang lại phước báu cho tất cả chúng sinh, cho chúng sinh cơ hội để phát triển thiện căn, là do Ngài từ bi và không làm những việc khất thực này vì lợi ích riêng của mình. “Sau khi nghe điều này, vị Bà La Môn cảm thấy vô cùng hổ thẹn về những hành động và ý nghĩ xấu xa của mình nên đã đưa cả gia đình đến Tinh Xá để cầu xin sám hối với Đức Phật, mong Đức Phật tha thứ cho sự thiếu hiểu biết của mình. Đức Phật đã truyền thụ cho ông tam quy y đồng thời thuyết pháp, vị Bà La Môn liền tiêu trừ mọi phiền não trong tâm và đắc đạo chứng quả.
Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng, chúng ta phải biết quan tâm và thấu hiểu người khác. Cuộc sống là một kiểu quan tâm và thấu hiểu người khác. Nếu quý vị biết quan tâm và thấu hiểu người khác thì quý vị sẽ bao dung với họ, cuộc sống sẽ ấm áp, cuộc sống sẽ bình yên, nhiều phiền não đến từ việc chúng
ta không thể thông cảm cho người khác. “Thiên hữu bất trắc phong vân, nhân hữu sớm chiều họa phúc.” Cảm xúc của mỗi người sẽ thay đổi, chúng ta không nên quá quan tâm đến ý kiến và sự chấp trước của bản thân, chúng ta có thể hiểu người khác hơn. Một số người không hiểu nhau và đó là lý do tại sao họ không nhượng bộ và làm tổn thương nhau. Chúng ta nên nhận ra rằng mọi việc trên đời này đều có tiến có lùi, nếu biết nhường nhịn thì sẽ thấy được tâm bình thường quan trọng biết nhường nào. Có gì mà to tát lắm đâu? Tâm bình thường thôi, đời có gì mà không vui? Không cần phải đấu tranh với những chấp trước của chính mình, hãy tiêu trừ đi những cố chấp của bản thân. Điều mà một người cần trong cuộc sống là một trái tim hiểu người khác, một sự hồn nhiên như trẻ thơ, một trái tim trong sáng, một niềm tin, một cơ thể khỏe mạnh, một tâm thái cân bằng cũng như một giấc ngủ ngon và một trái tim nhìn về tương lai, tận hưởng cuộc sống và biết đủ. Người có thể thực sự hiểu Phật pháp là người có thể nhìn thấy tương lai và nhìn thấy ánh sáng. Chúng ta hãy học Phật và tu tâm, đoạn trừ tham, sân, si, mạn, nghi. Dùng tấm lòng của một vị Phật để hướng tới Bồ-đề và ánh sáng với tinh tấn và nhẫn nhục mỗi ngày.
Được rồi, bài giảng “Bạch Thoại Phật Pháp” dành cho đại chúng hôm nay xin tạm dừng tại đây, hẹn gặp lại mọi người vào tiết mục lần sau. Cảm ơn đại chúng.
66. Phật tánh bình đẳng vô nhị
Tập 66
PHẬT TÁNH BÌNH ĐẲNG VÔ NHỊ
(13/05/2020)
Được rồi, hôm nay chúng ta tiếp tục nói về “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Trước hết, khi một người nghĩ về một vấn đề mà cố gắng nghĩ về nó theo hướng tích cực và tốt đẹp, thì người đó sẽ tràn ngập pháp hỉ. Bởi nỗi khổ và đau buồn của nhiều người là do trong lòng họ có quá nhiều năng lượng tiêu cực, khi có quá nhiều năng lượng tiêu cực, họ sẽ suy nghĩ nhiều vấn đề theo chiều hướng xấu, tiêu cực, càng nghĩ càng sợ hãi càng nghĩ thì chính bản thân sẽ dần dần lo lắng. Suy nghĩ một cách tích cực, thì rất nhiều sự việc sẽ trở nên vui vẻ không lo lắng, sẽ không có đau buồn. Vậy nên, đây là một phương pháp hiểu biết sự vật vô cùng quan trọng của người học Phật. Bất cứ ai cũng đều phải hiểu được luân hồi, một việc có tốt hay không nó đều sẽ luân hồi: chuyện tốt đụng phải chuyện không tốt, dần dần lại luân hồi thành tốt. Việc ác, việc không tốt dần dần luân hồi sẽ trở thành tốt.
Bắt đầu từ mắt tai mũi lưỡi thân và ý của con người, mãi cho đến khi quý vị nghe thấy, ngửi thấy, trên thực tế toàn bộ đều là một loại luân hồi, quý vị không nên coi nó là quá thật. Một việc nào đó rất đau lòng khi còn bé, chính là bởi vì chúng ta coi nó là quá thật, cho nên chúng ta đang ở trong luân hồi. Bồ Tát dạy cho chúng ta hiểu được, chỉ sau khi nhìn thấy được Phật tánh thì con người mới không luân hồi, cũng chính là nói cho chúng ta biết, chỉ khi một người thực sự hiểu được Phật tánh, hiểu được Phật lý, muốn đoạn luân hồi, thì nhất định phải khai ngộ, nhất định phải chứng đạo. Sư Phụ nói với mọi người rằng, nếu một mình bước tiếp trên con đường này, quý vị có nghĩ rằng mình luôn có thể tiếp tục bước đi được không? Đúng vậy, phải kiên định đi về phía trước. Còn phương hướng thì sao? Nếu như phương hướng sai, quý vị vẫn đang đi trong luân hồi. Nếu như phương hướng đúng, quý vị sẽ thoát ra khỏi đầm lầy cuộc đời của mình, quý vị sẽ dần dần khai ngộ và hiểu rõ không thể ở trên thế giới này mê hoặc điên đảo nữa, phải thoát ra khỏi con đường của mình, phải nhìn thấy
Phật tánh, phải hiểu rõ thế giới này, hết thảy toàn bộ đều là khổ-không-vô thường, không có gì là vĩnh viễn. Cho nên có được chẳng khác nào mất đi, mất đi cũng chẳng khác nào tạm thời có được.
Người có thể có được Phật pháp trong tâm thì họ có thể phá mê khai ngộ. Bởi vì trong tâm chúng ta vẫn còn mê hoặc, cho nên mới có vọng tưởng và chấp trước. Khi một người nghĩ không thông điều gì đó, thực ra họ đang chấp trước, người chấp trước chắc chắn sẽ bị luân hồi. Cho nên hy vọng mọi người nhất định phải hiểu, phải chuyển đổi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thành Phật tánh: những gì mắt thấy, mũi ngửi, tai nghe, v.v… đều chuyển thành Phật tánh, Chánh tín Chánh niệm, “Tôi không nghe bừa, không nhìn bừa, không ngửi bừa”. Ý tưởng đều dựa trên những khái niệm được hình thành trong suy nghĩ của chính mình nên ý niệm này rất quan trọng, tức là ý niệm của bất cứ người nào cũng phải được giác ngộ. Quý vị có ý niệm giác ngộ, thì Chánh tín của quý vị bắt đầu. Quý vị có ý niệm giác ngộ, thì Chánh tri Chánh giác của quý vị đã bắt đầu. Một người có Chánh tri Chánh giác, những lời nói ra đều giống như Phật. Mỗi người trong chúng ta muốn thành Phật, phải có Phật trong lòng, mới có thể nói, làm và suy nghĩ ra Phật tánh, thì quý vị nhất định sẽ tránh xa được luân hồi. Ở nhân gian, chưa nói đến những lần luân hồi lớn, nhưng những lần luân hồi nhỏ thì vô tận – nếu quý vị không coi trọng việc nào đó, thì quý vị sẽ phạm một sai lầm khác. Có bao nhiêu điều luân hồi đã xảy ra trong cuộc đời chúng ta, từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành? Chúng ta nói phải hiếu thảo với cha mẹ, nhưng cuối cùng lại quên mất. Chúng ta thỏa thuận những gì sẽ làm với gia đình trong những ngày nghỉ lễ, nhưng rồi lại quên. Chúng ta đã thống nhất rằng khi có người đối xử tốt với mình thì mình sẽ cảm ơn người đó và trả ơn cho họ, nhưng cuối cùng lại quên mất. Tất cả những điều này đều ở trong luân hồi.
Phật duyên mà chúng ta gieo trồng trên thế gian này chính là nguyên nhân khiến chúng ta không luân hồi, và chúng ta sẽ nhận quả báo không luân hồi. Nhiều người rất đáng thương, họ chưa gieo Phật duyên mà đã gieo nhân quả ở nhân
gian, tức là nhân duyên, nhân duyên thì sẽ dẫn đến quả báo xấu. Chúng ta phải hiểu rằng Bồ Tát là người thầy của tâm linh chúng ta. Dạy dỗ chúng ta, điều khiển tâm linh của chúng ta, đó chính là Bồ Tát, là đạo sư của chúng ta. Vì vậy, những gì chúng ta nghĩ trong tâm phải giống như những gì Phật, Bồ Tát nghĩ. Những gì chúng ta làm, phải giống như những gì Bồ Tát nghĩ. Hãy tưởng tượng rằng tâm của quý vị đang được tự tại, bởi vì chỉ khi nhất tâm nhất ý với Phật, quý vị mới có thể “nhậm vận” được tâm linh của chính mình. “Nhậm vận” nghĩa là quý vị có thể hoàn toàn tự tại, tự chủ tâm linh, lương tâm, lòng từ bi và lòng vô ngã lợi tha của quý vị sẽ xuất hiện. Vì vậy, hãy an trụ nội tâm của chính mình, đừng để nó luân hồi, thì quý vị sẽ đi vào con đường Niết Bàn vĩnh hằng. Nhiều người hỏi, làm thế nào để đi vào con đường của Niết Bàn? Phải an trụ nội tâm của mình, đừng để cho nó tham sân si mạn nghi.
Đức Phật dạy chúng ta rằng “Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”, chỉ có giác ngộ trong cuộc sống mới có thể thoát khỏi những chướng ngại phiền não của con người. Quý vị phải loại bỏ tất cả những chướng ngại mà quý vị biết, bản thân cảm thấy cái này cũng biết, cái kia cũng hiểu, thì khi đó sẽ có những chướng ngại chấp trước. Tại sao chúng ta thường khuyên người khác cho dù có hiểu thì cũng phải buông, không hiểu thì càng phải buông nhiều hơn? Đã hiểu thực ra là biểu hiện vẫn còn rất nhiều điều quý vị chưa hiểu. Không hiểu chính là biểu hiện quý vị cần phải học, sẽ học được rất nhiều điều mà người trí hiểu. Nếu quý vị nghĩ: “Tôi đã biết nhiều rồi”, thì những trở ngại của quý vị đang bắt đầu xuất hiện. Tại sao phải khiêm tốn? Tại sao cần có trí tuệ để tiêu trừ nghiệp lực và nghiệp chướng? Quý vị thử nghĩ xem, một người có nghiệp chướng thì không thể tiêu trừ được nếu không có trí tuệ. Họ phải có trí tuệ mới tiêu trừ được nghiệp. Bất kỳ ai nếu không có trí tuệ sẽ xa rời khỏi Bát nhã: không có trí tuệ, sẽ trở nên ngày càng ngu si.
Chúng ta phải hiểu rằng chúng ta bình đẳng vô nhị với Phật tánh, bởi vì chúng ta có Phật tánh sâu thẳm trong tâm, và Phật ở trong tâm chúng ta, nên chúng ta
có thể vượt qua mọi khổ đau trên thế gian. Bởi vì tâm chúng ta bình đẳng vô nhị, cho nên chúng ta chính là Phật, Phật chính là ta, chỉ khi chúng ta có tâm thái này mới có thể thành Phật ở cõi người. Đừng nghĩ rằng Phật ở cách xa chúng ta, thực ra chỉ cần tâm quý vị giống Phật thì quý vị chính là Phật ở thế gian. Phải có sự tự tin cùng với nổ lực tinh tấn. Hiện nay chúng ta dùng Pháp Môn Tâm Linh để hóa giải, tiêu trừ nghiệp chướng và siêu độ vong linh, đồng thời dùng diệu pháp trí tuệ chuyển hóa nhân quả nghiệp lực. Đây có phải là những gì chúng ta đang làm bây giờ không? Niệm kinh sẽ tiêu trừ nghiệp chướng vốn không tốt của mình, rất nhiều người trong số chúng ta kiếp trước thiếu nợ người khác, chúng ta dần dần thông qua niệm kinh, phát nguyện, phóng sinh để tiêu trừ nghiệp chướng trong quá khứ của bản thân, đây chính là chuyển hóa nghiệp lực và đang thay đổi túc mệnh của chính bản thân chúng ta.
Hiểu rõ Phật pháp, có sinh tất có tử, hết thảy danh lợi đều là ảo ảnh. Danh tiếng sẽ biến mất sao? Đúng vậy. Lợi sẽ rời đi sao? Đúng vậy. Hết thảy đều như mộng huyễn bọt bóng. Hy vọng mọi người sẽ hiểu được những hiện tượng tự nhiên của cuộc sống ở thế gian, những hiện tượng tự nhiên đó chính là lục đạo luân hồi, vì vậy nếu không muốn luân hồi thì phải hiểu được sự vô thường của sinh tử. Chúng ta phải hiểu rằng tiền bạc danh lợi ở nhân gian không thể giải quyết được vấn đề sinh tử, chỉ có thâm nhập vào trong Phật pháp để tìm tòi, hiểu biết và khai ngộ. Vô thường là lẽ tự nhiên, trên đời này không có gì tồn tại mãi mãi, nếu hiểu được điều này thì quý vị sẽ có được trí tuệ. Khi quý vị có được trí tuệ để giải quyết những phiền não của thế gian thì quý vị sẽ có được Bát nhã.
Phải hiểu rằng không có gì để đạt được, bởi vì dù quý vị có nổi tiếng bao nhiêu, cuối cùng quý vị cũng sẽ chẳng có gì. Dù quý vị có được bao nhiêu lợi ích, cuối cùng quý vị cũng sẽ không đạt được gì cả. Nó không phải của quý vị, chỉ là quý vị đang giúp người khác trông coi, vì khi quý vị ra đi, tất cả đều trở về không, tất cả đều là của người khác. Sư phụ thường cho mọi người ví dụ, nếu ngôi nhà này là của quý vị, khi quý vị vừa rời đi, ngôi nhà sẽ được đổi tên. Mọi thứ đều
vô thường, cho nên nếu quý vị xem nhẹ danh lợi, thì mới có thể sinh trưởng trí tuệ, mới có thể rời khỏi chướng ngại phiền não. Mục đích của việc giải thoát khỏi sinh tử là để đạt được đại tự tại, nên người giác ngộ có được đại tự tại, người giác ngộ hiểu rằng vạn vật không sinh cũng không diệt, sinh ra sẽ bị hủy diệt, bị hủy diệt lại sẽ được tái sinh. Vậy nên trí huệ của Phật pháp được lý giải thành “Bất sanh bất diệt”. Mọi người đều biết trong《Tâm Kinh》có câu “bất cấu bất tịnh”, bất sanh bất diệt, cũng là mang hàm ý như vậy.
Chúng ta phải ngừng làm điều ác trên thế gian này và không được làm điều ác. Người không làm điều ác thì bổn tánh, tự tánh, Phật tánh sẽ hiển hiện. Những người hay la mắng, đối xử tệ bạc, đâm thọc sau lưng người khác, âm mưu giở trò với người khác thì trong tâm họ vô cùng bẩn thỉu, thì lấy đâu ra tâm thanh tịnh vô ngại? Sư phụ muốn quý vị hiển lộ bổn tánh và lương tâm của mình, nhìn thấu nhân sinh mới có thể thực sự hiểu được Phật tánh. Một người lương thiện, mỗi ngày họ đều sống trong đại tự tại. Một người u ám, suốt ngày họ sống trong sợ hãi. Vì vậy, người học Phật có thể hưởng được sự tự tại và trí tuệ vĩ đại của thế gian, còn một người nghĩ không thông thì rời xa trí tuệ và Bát Nhã của chính mình. Chúng ta phải hiểu rằng mọi thứ đều do tâm tạo ra.
Có người hỏi Sư phụ, trong giới Phật giáo người ta thường nói đại bi vô lệ, đại ngộ vô ngôn, đại tiếu vô thanh, điều này có nghĩa là gì? Sư phụ nói với mọi người: “Đại bi vô lệ” mọi người hãy thử nghĩ xem, từ bi là lòng từ bi vô tận, là lòng từ đi liền với bi mẫn, cho nên nó là vô tận, không phải là một loại tình cảm của con người. Nước mắt của con người là một loại biểu lộ tình cảm, mà từ bi là ở nội tâm, cho nên người thực sự có lòng đại từ đại bi không phải rơi lệ, mà là ở nội tâm cảm nhận được nỗi đau khổ và thương đau của người khác, cho nên gọi là “Đại bi vô lệ”.
Có người hỏi câu thứ hai “Đại ngộ vô ngôn”. Đại ngộ, tại sao sau khi đã triệt ngộ rồi lại không nói chuyện? Quý vị hãy nhìn xem, có rất nhiều pháp sư, bất kể
quý vị hỏi họ điều gì, họ luôn là “A Di Đà Phật”, bởi vì ở nhân gian không có thị phi, và họ đã không rơi vào thị phi nữa, họ rời xa thị phi của nhân gian. Đại ngộ chính là khai mở đại trí huệ, trí huệ này không thể dùng ngôn ngữ để biểu đạt. Người thật sự khai ngộ không cần dùng ngôn ngữ để giải thích, cho nên họ không nói chuyện nữa, đây gọi là đại ngộ vô ngôn.
Câu cuối cùng: “Đại tiếu vô thanh”. Đại tiếu, trên thực tế chính là một loại tâm tình trong thất tình lục dục của con người, “Vui vẻ, ha ha ha”, cười to, đó là một loại tâm trạng vui mừng của nhân gian. Còn hạnh phúc và niềm vui trong lòng của Bồ Tát, đó là Bồ Tát nhìn thấy một người được cứu độ, nhìn thấy một nghiệp chướng được quý vị tiêu trừ, giúp quý vị lìa khổ được vui, Ngài làm sao có thể diễn tả niềm vui trong lòng bằng tiếng cười? Cho nên nói đại tiếu vô thanh (cười to không tiếng động). Hãy thử nghĩ xem, có phải vậy không? Để con cái đạt điểm cao trong các kỳ thi, người mẹ phải thức khuya dậy sớm nấu ăn cho con, để con có không gian yên tĩnh học hành chăm chỉ, ngày nào bà cũng chờ đợi, suốt năm xuân hạ thu đông. Trong kỳ thi đại học chính thức, khi con về và nói: “Mẹ ơi, con thi đậu rồi” khi con hớn hở vui mừng, người mẹ không cười cùng con mà rơi nước mắt, vì cảm xúc đó xuất phát từ trong trái tim, và nó là một loại từ bi.
67. Tâm vô sở động, tâm vô sở trụ
Tập 67
TÂM VÔ SỞ ĐỘNG, TÂM VÔ SỞ TRỤ
(13/05/2020)
Khi hiểu Phật pháp, mọi người có thể hiểu được bản chất con người, và dần dần sẽ hiểu được Phật tánh là như thế nào. Đại bi vô lệ, đại tiếu vô thanh, vì vậy có biết bao người mừng rơi nước mắt. Khi Sư Phụ nói chuyện với mọi người, thầy hy vọng rằng mọi người sẽ hiểu Phật là cảnh giới như thế nào, Bồ Tát đến nhân gian để làm gì và ngày nay quý vị nên làm gì ở chốn nhân gian.
Người học Phật phải có tâm thanh tịnh, trong kinh có câu nói nổi tiếng: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm. Bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Điều này muốn nói cho chúng ta biết rằng, chúng ta không nên trụ sắc sanh tâm, ở thế gian này, chúng ta không thể bị danh văn lợi dưỡng của nhân gian làm mê hoặc, và tâm trí chúng ta không thể thay đổi theo vật chất hay suy nghĩ của người khác. “Bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm”. không được vì ngửi thấy hương thơm mà động tâm, không nên nghe thấy âm thanh, lời người khác nói thì động tâm. “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”. Câu này là một câu nổi tiếng trong《Kinh Kim Cang》, hôm nay Sư Phụ đã đặc biệt lấy ra để giải thích cho mọi người. “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”. Sự ngộ đạo sơ bộ của Lục Tổ Thiền Tông chính là câu nói này. Hãy thử nghĩ xem, chỉ một câu như vậy mà có trọng lượng lớn như vậy, bởi vì Ngài đã được khai ngộ khi nghe “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”.
Sư phụ giải thích cho mọi người hiểu, thì ra tâm chúng ta vốn dĩ không có chỗ trụ, tâm chúng ta toàn bộ đều không có chỗ trụ, “Vô sở trụ”, tức là trống rỗng, không có chỗ để đi, chính là nói với chúng ta “tâm này không có chỗ trụ, không có chỗ trụ thì suy cho cùng cũng trống rỗng”. Trái tim thời thơ ấu của các vị bây giờ ở đâu rồi? Sự hận thù của tuổi thơ ở đâu? Lòng tham thời thơ ấu ở đâu? Khi còn nhỏ, quý vị đã từng bị người khác bắt nạt, hoặc quý vị bắt nạt người khác. Những trái tim xấu xa đó bây giờ ở đâu? Vì thế nó không có tâm thường trụ, chỉ là một cảnh giới trống rỗng mà thôi. “Hữu sở trụ” nghĩa là quý vị dồn hết những
điều tốt xấu vào trong lòng. Nghĩ mà xem, quý vị có cảm thấy áp lực trong lòng không? Có phải phiền não bắt nguồn từ tâm quý vị không? Tốt – vui, xấu – buồn. Có phải bắt đầu từ tâm của quý vị không? Nếu không trụ ở trong tâm thì hãy trụ ở trong không trung, cái tâm này hôm nay không chướng ngại gì cả. Cũng giống như nhiều bạn Phật tử đã nói với Sư Phụ: “Thưa Thầy, con nói chuyện với một số người mà không cần động não, con cảm thấy rất vui. Nói chuyện với họ cũng giống như nói chuyện với một đứa trẻ, vì họ sẽ không giận con, và con cũng sẽ không giận họ. Con nói chuyện, nói gì bạn ấy cũng có thể chấp nhận, không suy nghĩ lung tung. Bạn ấy nói gì, con cũng không suy nghĩ lung tung. Cho nên con nói chuyện với bạn ấy rất thoải mái, rất vui vẻ”. Đó chính là tâm vô sở trụ. Nếu quý vị có cái tâm rồi, quý vị lo lắng rằng người bạn ấy sẽ đến nói chuyện với quý vị, đến bắt gặp phiền não của quý vị, bắt gặp vấn đề của quý vị, mỉa mai quý vị, gây tổn thương cho quý vị, sau khi quý vị có được những tâm này, quý vị chính là “Trụ sắc sanh tâm”, và quý vị đang sống giữa những phiền não của thế gian, thì quý vị lấy đâu ra tự tại, lấy đâu ra tâm tự tại?
Tâm thanh tịnh thực sự không chỉ là trống rỗng, chủ yếu là có cảnh giới. Là con người, chúng ta phải hiểu “không trụ vào sắc, không trụ vào thanh, hương, vị, xúc, pháp”. Tu hành chân chính hẳn là không động tâm – ngay từ đầu đã không có tâm rồi, vậy thì tại sao tôi phải để nó ở trong đó? Tại sao tôi phải dùng tâm mình để chứa đựng những thứ dơ bẩn trần tục như danh lợi và vật chất? Vì vậy, phải “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Quý vị có nghĩ rằng có cái tâm không? Có đó. Ở đâu? Vô sở trụ. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị còn sống, phải không? Phải. Quý vị sống ở đâu? Không có ở đâu, muốn ở đâu thì ở. Người mà nói muốn ở đâu thì ở đó, thì họ có được sự tự tại hay không? Hôm nay quý vị bị một nơi nào đó kiểm soát và quý vị chỉ có thể ở lại đây, có phải quý vị đã “trụ sắc” – sống trong sắc không? Lấy một ví dụ đơn giản, ở thế gian này, bởi vì lòng tham của quý vị, bởi vì hận thù của quý vị, cuối cùng quý vị làm điều sai trái,
vậy thì quý vị phải sống trong tù, cái tâm này chỉ cần sống trong nhà tù, thì có phải quý vị đã bị quản lý rồi không? Có phải cái tâm này của quý vị liền trụ sắc rồi không? Thế nên phải vô sở trụ, thản nhiên. “Tôi không có tâm tình với bất cứ ai, tôi không có tâm ý để làm tổn thương người khác, tôi không có tâm ý để chấp nhận những tổn hại mà người khác gây ra cho tôi”. Có phải quý vị có được đại tự tại rồi không? Vì vậy không có tâm tức có tâm, có tâm tức không có tâm, vậy tâm ở đâu? Vì tâm không đến cũng không đi nên không có tâm thường trụ. Đây là điều chúng ta thường nói: đừng có “lưu tâm”, một khi quý vị đã lưu tâm, nhất định quý vị sẽ gặp phiền não.
Bồ Tát dạy chúng ta rằng tâm này vô hình, giống như một tấm gương. Chính là muốn nói với mọi người rằng tâm của chúng ta không có hình dạng. Cái tâm có hình dạng gì? Quý vị hận người ta thì tâm quý vị có hình dạng gì? Quý vị thấy đấy, rất nhiều người cố gắng để có được hình ảnh, yêu người này phải làm ra hình trái tim giống như quả thọ đào, nhưng điều đó không có nghĩa là quý vị sở hữu tình yêu này. Thực ra, cái tâm chỉ là vô hình, trái tim là hữu hình, nhưng tất cả những khái niệm, hiểu biết, yêu ghét mà cái tâm nghĩ ra đều là vô hình. Những thứ vô hình này giống như một tấm gương soi vào vật chất hữu hình và quý vị có vật chất hữu hình trong tâm mình. Nếu hôm nay quý vị soi thấy tình yêu, quý vị sẽ có tình yêu trong tâm. Nếu hôm nay quý vị soi thấy hận, trong tâm quý vị liền có hận. Thế nên “Tâm như minh kính đài”, có cảnh giới thì nó có thể đến soi chiếu. Trong tâm có một tấm gương, thiện và ác được soi chiếu trong tâm quý vị, một khi được soi qua rồi, thì nó sẽ biến mất. Mọi người hãy thử nhìn vào gương, lúc vừa soi qua gương, trong gương có phải có hình ảnh của quý vị không? Hình ảnh quý vị trong gương có phải là một giả tướng của quý vị không? Chiếc gương này có phải là không có chỗ trụ không? Sau khi quý vị rời khỏi gương, nó chiếu thấy gì? Chiếu thấy tánh Không, biến mất rồi. Bởi vì quý vị đã soi qua rồi, nên khi rời khỏi gương, quý vị không còn ở trong gương nữa. Vì vậy, Bồ Tát dùng minh kính đài để nói cho chúng ta biết rằng
tâm giống như minh kính đài – khi chiếu thấy thiện là thiện, khi chiếu thấy ác là ác, trong tâm luôn giữ Phật, thì chiếu thấy là Phật. Điều này cho chúng ta biết rằng chúng ta không thể có ma chướng trong tâm, bởi vì nếu có ma chướng và hận thù thì trong tâm quý vị sẽ lưu lại ma tánh. Tại sao nhiều người cho dù khuyên họ thế nào, họ cũng không thể có Phật tánh? Bởi vì họ đã dùng ma tánh của bản thân để chiếm lấy Phật tánh bên trong của họ. Cũng giống như một đứa trẻ, dù quý vị có khuyên nó nên tốt như thế nào thì nó cũng sẽ không thể thay đổi để tốt hơn, bởi vì trong lòng nó vốn đã có rất nhiều điều ác nên khó có thể thay đổi để tốt hơn được.
Chân dung Phật là gì? Hãy để Phật tánh soi sáng trái tim quý vị. Tấm gương này của quý vị mỗi ngày đều soi chiếu Phật, và quý vị nên lưu vị Phật này trong gương, vì Phật là ngọn đèn sáng. Mọi người hãy nhìn xem, có một số tấm gương bên trong có đèn, khi quý vị bật đèn lên thì có phải gương càng ngày càng sáng không? Nếu quý vị dụng tâm, thì cái đèn này sẽ sáng. Nếu quý vị không dụng tâm, thì cái đèn này sẽ không sáng. Cho nên khi quý vị tâm minh mắt sáng thì tâm quý vị không có gì để trụ, nó chỉ là một chùm ánh sáng, ánh sáng ở đâu? Ánh sáng không dừng lại ở đâu cả. Quý vị nhìn vào ánh sáng của mặt trời, nó trôi qua theo thời gian, ánh sáng của thế gian, ban đêm khi mọi người đi ngủ thì nên tắt đèn, phải không? Nó không có một điểm cố định nào để dừng nghỉ.
Vì vậy, hết thảy không trụ, nếu quý vị có thể để mọi thứ không trụ trong tâm mình, thì quý vị chính là cảnh giới thật tướng. Mọi người nghĩ mà xem, hai người này đang cãi nhau, quý vị đang đứng bên cạnh nghe, “Người này tốt, người kia không tốt”, “Vậy người kia tốt, người này không tốt”, đối với quý vị mà nói, nếu quý vị không giúp người này, cũng không giúp người kia, thì quý vị được gọi là cảnh giới thật tướng. Nếu quý vị có mối quan hệ tốt với người này và quý vị giúp đỡ họ, thì quý vị đã bước vào thế giới ảo tưởng và ảo tướng, bởi vì quý vị mang theo tình cảm và quý vị đã chiếu thấy đúng sai của một điều nào
đó trong tâm. Tại sao gọi là cảnh giới thật tướng? Thực thực tại tại. Chúng ta làm người phải chân thực, không nên thiên vị, không nên tha thứ những sai lầm và khuyết điểm của bản thân, không nên tha thứ những thói hư tật xấu của bản thân, phải kiên cường đấu tranh chống lại những khuyết điểm của chính mình, khắc phục và loại bỏ chúng một cách triệt để thì mới có thể đạt tới tướng Như Lai chân thật.
Khi đạt đến cảnh giới tướng Như Lai chân thật, khi nói lời chân thật và nói chuyện thực thực tại tại, thì quý vị cũng phải hiểu được “thực tướng vô tướng”. Trên thực tế, ở nhân gian chúng ta, khi cuối cùng quý vị tu thành, quý vị nói: “Tôi không còn vướng mắc vào đúng sai nữa, tôi có được thật tướng”. Thực tướng này có còn tồn tại không? Trên thực tế, nó là vô tướng. Quý vị nói ở nhân gian này hết thảy đều là hư không – hư vô, rỗng không, quý vị có nghĩ rằng có thật tướng không? Chắc chắn là không, không có gì cả. Vì vậy, một người đã xác định một việc nào đó là đúng hay sai trong suốt cuộc đời mình thì có thể làm điều đó ở tuổi 20. Môi trường, sự hiểu biết và các nguyên tắc lúc đó là đúng, nhưng ngày nay, 20 năm sau, có thể như vậy là sai. Vậy thì tất cả những thứ này đều không có được gì cả, tại sao chúng ta lại phải vướng vào một việc nào đó đã xảy ra ở một thời điểm nào đó mà bám víu vào nó không buông, hơn nữa cứ bám chấp lấy nó và cố định suy nghĩ của mình, khiến cho suy nghĩ không được giải phóng, không được giải thoát, sau đó dốc sức nắm lấy, tạo ra sự chấp ngã, phiền não và vô minh của chính mình sao? Bằng cách đó quý vị dần dần bước vào thế giới ảo tưởng này. Sư phụ nói với mọi người rằng “Thực tướng vô tướng”. Khi quý vị thật sự nhận ra sự việc này là thật tướng, trên thực tế chính là vô tướng.
Mọi thứ trên thế giới đều không thể trụ được, cả trong sự sống và cái chết. Mọi người thử nghĩ xem, ai có thể sống mãi được? Cho dù người mà chúng ta có yêu thương đến đâu thì họ cũng sẽ rời bỏ chúng ta mà đi, dù người mà chúng ta có
ghét bỏ đến đâu thì người ta cũng sẽ rời bỏ chúng ta mà đi, tất cả những điều đó đều không thể trụ lại được.
Vì vậy, quan niệm và chấp trước không được để ở trong tâm chúng ta, mà phải như tấm gương sáng, có thể nhìn thấu phàm trần, thắp sáng Phật quang trong tâm, để cho Bát Nhã thực tướng trong tâm vĩnh viễn chiếu rọi tiền đồ của mình, như vậy mới có thể lìa khổ được vui, mới có thể dùng đèn quang minh để chiếu sáng tiền đồ của quý vị.
Nếu một người chấp trước bởi “Vô trụ” thì lại không được nữa rồi. “Tôi không trụ vào đó, tôi không để tâm vào việc này, nếu tôi cố chấp, tôi sẽ không quan tâm đến bạn, điều đó đối với tôi không quan trọng”. Quý vị lại rơi vào trạng thái Thiên chấp và Thiên không (Thiên Chấp tức là không chịu thay đổi quan niệm của mình. Thiên Không tức là lí Không thiên về bên Không). Vì vậy, học Phật rất khó, nếu ép bản thân và nói “Tôi muốn làm người tốt” thì có thể quý vị là người tốt giả tạo, vì quý vị đang ép mình làm chứ không phải tự giác làm. Nếu là tự giác tự nguyện làm người tốt, thì quý vị nhất định rất tự nhiên tùy duyên, khi đó quý vị chính là người tốt. Bất cứ ai Thiên chấp chính là do họ không hiểu Phật pháp, vì vậy Phật giáo khuyên chúng ta đừng chấp trước vào Vô trụ, “Mọi việc tôi làm, bạn thấy đấy, tôi không có ý định muốn khen ngợi bản thân, tâm tôi không có một điểm cố định nào để dừng nghỉ, tôi chỉ phục vụ mọi người thôi, tôi rất chăm chỉ”. Quý vị có chấp trước không? Vẫn là chấp trước.
Những người tâm thực sự không trụ, thậm chí còn không nghĩ tới điều đó, tại sao họ lại nghĩ “Tôi đang làm điều tốt” khi họ đang làm việc giúp đỡ người khác? Như vậy chính là cảnh giới cao.
Làm thế nào để không rơi vào Thiên Không? Khi biết rằng chân Không không trống rỗng. Chân Không không trống rỗng nghĩa là gì? Khi một người bước vào chân Không, thì thực ra họ không hề trống rỗng. Khi quý vị ở nhân gian mọi việc đều suy nghĩ rõ ràng, hiểu thấu đáo, thì thực ra quý vị đang sống trong
trống rỗng. Nhưng quý vị sống trong trống rỗng, mà quý vị lại đang ở trong thực tướng. Những lời này sẽ nói như thế nào đây? Vị lão trụ trì và lão sư nào đó tuy rằng đã hoàn toàn nhìn thấu, và đã hoàn toàn trống rỗng, nhưng họ vẫn có thân thể, vẫn phải sinh hoạt, vẫn phải độ người, thì quý vị có cho rằng họ hoàn toàn trống rỗng không? Họ nhìn thấu Không, nhưng không trống rỗng, đây gọi là “chân không bất không”, họ đã không rơi vào Không nữa. Đây là một giáo pháp vô cùng, vô cùng khó hiểu của đạo Phật.
“Không tịch linh tri”, khi quý vị không nghĩ tới nó, không có nghĩa là Bồ Tát ở trên trời hay trong đầu quý vị không có ý tưởng này. Điều này nói tương đối sâu sắc, lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị muốn giúp đỡ người này. Khi quý vị giúp họ, quý vị không cảm thấy rằng “Tôi đang giúp cậu ta”. Nhưng trước khi quý vị đi giúp người này, có phải sâu thẳm trong tâm hồn quý vị muốn giúp cậu ấy không? Có. Khi ấy trong Không tịch có linh hồn biết, cũng chính là Phật tánh của quý vị biết mình phải đi độ người và độ chúng sinh, nhất định phải đi trợ giúp chúng sinh. Và khi quý vị thực sự đang giúp đỡ chúng sinh, quý vị lại không cảm thấy như “Tôi đang giúp đỡ chúng sinh”. Không biết mọi người có hiểu được ý của Thầy nói không, đây thực sự là một chỗ rất sâu sắc trong Phật giáo. Thầy thích dùng hình ảnh một người mẹ chăm sóc con cái để ví dụ. Một người mẹ hoàn toàn hết lòng vì con, quan tâm đến con cái, bà không hề có cảm giác rằng “Tôi đang làm những việc vì con, tôi đang làm những việc để nuôi dạy chúng khôn lớn” nhưng thực ra, mọi việc người mẹ này làm có mục đích không? Trong chân Không, đúng không? Người mẹ lại không trống rỗng, tại sao vậy? Người mẹ giáo dục con cái là điều đương nhiên, đây là sự thật nên bà không hề trống rỗng. Bởi vì bà có được chân lý này, mặc dù bà không nghĩ đến chân Không, nhưng thực ra bà vẫn có suy nghĩ chỉ đạo này, và sâu thẳm tâm hồn bà vẫn chưa hoàn toàn trống rỗng. Vì vậy, chân lý thâm sâu được đề cập trong “Tâm Kinh” và “Kinh Kim Cang” là khi quý vị hiểu, khi quý vị giác ngộ, thì quý vị đã được giải thoát, thực ra quý vị đang ở giữa đúng và sai, hiểu được
điều gì đó trong quá trình đó. Tại sao trong kinh điển thường nói “Vô sở trụ”? Cái gì có chỗ trụ tâm, lại lần nữa cái gì không có chỗ trụ tâm? Trên thực tế trụ và không trụ tâm, chính là ở trong một ý niệm mà thôi.
68. Quán chiếu chính là chiếu kiến
Tập 68
QUÁN CHIẾU CHÍNH LÀ CHIẾU KIẾN
(13/05/2020)
Kinh Phật cho chúng ta biết lý do tại sao, bởi vì trí tuệ Bát Nhã mà sinh ra tâm, bởi vì khi quý vị hoàn toàn trống không, trí tuệ Bát nhã của Phật tánh khiến cho quý vị sinh ra loại tâm từ bi và thiện lương này, mà loại tâm từ bi thiện lương này lại không có chỗ trụ tâm, là ở trong ý niệm có, nhưng lại giống như tìm không thấy. Sư phụ rất muốn lấy ví dụ từ nhân gian hiện tại để nói với mọi người, hôm nay quý vị đến dự buổi tiệc của một người, ăn mặc thật xinh đẹp, quý vị bước vào, hy vọng mọi người đều có thể hiểu được quý vị, nhìn thấy quý vị ăn mặc xinh đẹp, nhưng khi quý vị vừa thấy mọi người đều ăn mặc rất đẹp, thì lúc này quý vị đã quên mất mình có đẹp hay không, cũng rất vui vẻ như mọi người vậy.
Đài trưởng hỏi mọi người, đâu đó sâu thẳm trong trái tim quý vị, quý vị có cái cảm giác muốn người khác ngưỡng mộ mình, một cảm giác khiến quý vị cảm thấy rất tự hào, “Vì hôm nay tôi đã mặc chiếc váy này, nó rất đắt và rất đẹp”. Có bao giờ cảm thấy như thế này không? Lúc đó quý vị không nói về cảm giác này, cũng không nghĩ tới, nhưng nó có ở sâu trong lòng quý vị không? Đây chính là những gì có trong tâm hồn.
Vì tương đối khó nên Sư phụ sẽ đưa ra một ví dụ đơn giản khác. Ví dụ, khi khấu đầu lễ lạy Phật, quý vị có thể nói: “Quán Thế Âm Bồ Tát, con đoạn trừ những tạp niệm, đoạn trừ những tạp niệm”. Khi quý vị nói “Đoạn trừ những tạp niệm”, thì những tạp niệm biến mất trong nháy mắt. Có dấu hiệu nào khi những tạp niệm biến mất trong nháy mắt không? Xin hỏi mọi người sau khi tẩy xóa chữ, có để lại dấu vết nào không? “Quán Thế Âm Bồ Tát, con trống rỗng, con trống rỗng, con không muốn nghĩ tới, không nghĩ tới”. Khi không muốn nghĩ tới, quý vị còn nghĩ đến ba chữ “không nghĩ tới” này không? “Quán Thế Âm Bồ Tát, con phải trong sạch, con nhất định phải trong sạch, con nhất định phải trong sạch và con không muốn nghĩ ngợi gì cả”. Khi tạp niệm xuất hiện, khi trong tâm
con có hình ảnh của một người nào đó hay một vật nào đó, hoặc là lúc quỳ trước Bồ Tát niệm Chú Đại Bi và niệm Tâm Kinh, loại ý nghĩ này không phải là đã đến với quý vị rồi sao? Khi đến quý vị nói: “Quán Thế Âm Bồ Tát, con muốn thanh tịnh, con muốn thanh tịnh, con muốn thanh tịnh”. Lúc quý vị muốn thanh tịnh, dường như tạm thời không nghĩ tới, kỳ thực sâu thẳm trong tâm trí có nghĩ đến không, có ý niệm này hay không? Đây chính là chỗ đặc sắc mà kinh Phật nói. Vậy nên, những thứ đã tồn tại trong Bát thức điền (thức thứ tám) của quý vị, quý vị muốn hoàn toàn không có trụ tâm, rất khó! Vì thế mong mọi người nên học Phật một cách chân thành, nếu đã từng ích kỷ thì có thể nói: “Tôi không muốn ích kỷ, tôi không muốn ích kỷ”. Nhưng cho dù lúc đó “không muốn ích kỷ”, xin hỏi quý vị, sự ích kỷ này có phải là cái bóng trong trái tim quý vị không? Nó chắc chắn ở đó. Khi đó cái bóng này phải được loại bỏ và phải làm cho nó “Vô sở trụ tâm”, để quý vị có thể đạt được tự tại thực sự. Vậy thì “vô sở trụ tâm” chính là như vậy. Sư phụ nói với mọi người làm thế nào để có thể hiểu được Phật pháp, Phật pháp rất trí tuệ, hy vọng mọi người nhất định phải tu thật tốt, học thật tốt.
Cuối cùng, Sư phụ muốn kể cho mọi người nghe một câu chuyện, câu chuyện này vô cùng đặc sắc.
Vào thời kỳ cuối nhà Ngụy của Nam Bắc triều ở Trung Quốc, núi Ngũ Đài ở Sơn Tây có một ngôi chùa Linh Thứu, mỗi khi đến tháng ba mùa xuân, đều tổ chức lễ Vô Già Trai như thường lệ. Lễ Vô Già Trai là gì? Nghĩa là, bất kể là pháp sư xuất gia, đệ tử cư sĩ chưa xuất gia, dù là thiện nam hay nữ, già hay trẻ, giàu hay nghèo, hay thậm chí là người ăn xin, vào ngày này, đều phải lấy tâm bình đẳng để cúng dường, cung cấp thức ăn cho họ, ăn no một bữa, bình đẳng bố thí, đối xử bình đẳng với tất cả chúng sinh, biểu thị Phật pháp bình đẳng, không có sự phân biệt giữa mình và người. Đây là một ngày tuyệt vời để tưởng nhớ, vì vậy đến tháng ba, mọi người đều đi.
Trong buổi Trai Giới có một người phụ nữ nghèo đến, trên tay bế hai đứa con nhỏ, theo sau là một con chó, ngoài chúng ra cô không có của cải gì thêm. Cô đến hiện trường buổi Lễ Vô Già Trai ở chùa Linh Thứu, nhưng còn chưa tới giờ dùng Trai (chưa đến giờ ăn), cô không một xu dính túi và xấu hổ vì ăn miễn phí, nên lúc đó cô nghĩ: “Tôi lấy cái gì để bố thí đây” cô liền cắt tóc của mình để bày tỏ tấm lòng bố thí (tức là cắt tóc “đây cũng là việc bố thí của tôi”). Cô yêu cầu trụ trì trong chùa rằng: “Thưa Thầy, con chỉ có những sợi tóc này để cũng dường cho Tam Bảo. Xin đừng từ chối”.
Pháp sư nói: “Được rồi, vậy chúng tôi sẽ nhận. Nữ thí chủ, cô từ đâu tới?” Nữ thí chủ đột nhiên nói: “Ta từ nơi xưa tới”.
Nhìn thấy câu trả lời của cô như vậy, pháp sư trụ trì cảm thấy nữ thí chủ này có chút kỳ quái. Không ngờ, người phụ nữ đột nhiên lên tiếng hỏi: “Sư phụ, tôi có chuyện gấp phải đi nơi khác, có thể cho tôi chút đồ ăn trước được không?”.
Dù thời điểm dùng Trai chưa đến nhưng yêu cầu của nữ thí chủ không thể bị từ chối. Vị trụ trì này tên là pháp sư Pháp Ấn, đây là một câu chuyện có thật được truyền lại từ xưa.
Sau đó pháp sư Pháp Ấn nói: “Được rồi”. Ông ấy rất từ bi lấy ra ba phần thức ăn, chỉ để người phụ nữ và hai đứa con nhỏ có thể ăn một bữa no nê.
Nhưng sau khi ăn xong, người phụ nữ lại nói: “Thưa Thầy, tôi vẫn còn con chó này và nó cũng cần ăn chút gì đó”.
“Ồ, được thôi”. Pháp sư trụ trì không còn cách nào khác đành miễn cưỡng lấy thêm một ít thức ăn ra đưa cho người phụ nữ.
Người phụ nữ liền nói: “Thưa Sư phụ, trong bụng con còn có một đứa bé, cũng cần chút thứ gì đó để ăn”. Trụ trì lúc này không nhịn được, tức giận nói: “Cô tới nơi này cầu người xuất gia bố thí Trai thực, mà cô lại tham lam, đạo lý ở đâu ra!
Đứa bé trong bụng cô còn chưa ra đời, chẳng lẽ nói nó cũng có thể ăn cơm sao? Nhưng cô cứ đòi, tham ăn ngon. Này cô, cô không nghĩ nó hơi quá đáng à?”.
Cô gái nghèo bị khiển trách, lúc này nói một câu kệ:
“Khổ qua liên căn khổ, dưa ngọt triệt đế ngọt. Tam giới vô trứ xứ, trí sử a sư hiềm”.
Bài kệ này muốn nói với mọi người rằng: Rễ mướp đắng cũng là đắng. Nếu là dưa ngọt, ngay cả rễ dưa cũng ngọt. Nhưng trong ba cõi này, những vấn đề này không có cách nào giải quyết được. “Trí sử a sư hiềm” chính là có thể khiến cho những người bố thí và sư phụ ghét bỏ.
Nói xong bài kệ này, Ngài đột nhiên bay lên không trung nhảy lên hư không, thị hiện ra đức tướng của Văn Thù Bồ Tát. Lúc này, con chó bên cạnh biến thành sư tử ngồi dưới của Ngài, hai hài tử lại là hai vị bên cạnh hầu Ngài, trong ánh mây mù mịt lờ mờ, như ẩn như hiện, còn nói một bài kệ khác:
“Chúng sinh học bình đẳng, tâm tùy vạn cảnh ba. Bách hài đều buông bỏ, há còn yêu ghét sao?”.
Chính là nói cho mọi người biết: Chúng sinh chúng ta dốc sức học tâm bình đẳng, nhưng tâm của chúng ta lại theo cảnh giới ở nhân gian mà biến hóa. Chúng ta “trăm hài đều vứt bỏ” (khi chúng ta chết đi, xương cốt của chúng ta cũng sẽ tan tành và trở về với cát bụi), con người chúng ta phải biết loại bỏ tất cả các loại ý niệm không tốt. Vậy thì yêu và ghét còn có ý nghĩa gì nữa chứ?
Ý nghĩa của bài kệ này chính là để cho người học Phật chúng ta phải hiểu được tâm bình đẳng, hôm nay quý vị nói phải bố thí bình đẳng, không có gì đáng trách, nhưng lại không khống chế được sự dao động trong tâm thức của chính mình, nhìn người phụ nữ đang mang thai liền cảm thấy đứa bé trong bụng này không đáng được ăn, cảnh giới của quý vị đang không ngừng lưu chuyển. Mặc
dù chúng ta biết rõ mình phải từ bỏ thân xác bên ngoài này và bố thí cho người khác một loại vật phẩm, là để cho tâm của mình có thể bố thí cho người khác, nhưng trong lòng chúng ta còn cất giấu yêu cùng hận, nói cách khác, vì thấy cô ta nghèo khó, vì nhìn thấy cô ấy dắt theo hai đứa con và một con chó, liền nổi lên tâm sân hận, ý của Bồ Tát là: Như vậy thì làm sao có thể nhập Đạo đây?
Khi đó có hơn một ngàn người tham gia Lễ Trai Giới, tận mắt nhìn thấy thánh tích của Bồ Tát Văn Thù, lắng nghe lời kệ cảnh báo của Đại Sĩ, tất cả mọi người đều quỳ ở đó rưng rưng mà khóc, hướng không trung cúng bái đảnh lễ, nói: “Thưa Đại Sĩ, chỉ mong bày tỏ pháp môn bình đẳng đích thực, cũng là để cho chúng con một lòng phụng hành!”.
Trong không trung lại truyền đến lời kệ của Bồ Tát:
“Trì tâm như đại địa, cũng như thủy hỏa phong, vô nhị vô phân biệt, cứu cánh như hư không”.
Đây chính là nói cho chúng ta biết: “Trì tâm như đại địa”, chúng ta ở trên thế giới này, muốn bố thí bằng tấm lòng bình đẳng thì phải đối xử với người và vật bằng tấm lòng bao dung trời đất “cũng như nước, lửa và gió”, nước, lửa và gió đều giống nhau, cả hai đều sẽ diệt độ và biến mất, nên “vô nhị vô phân biệt”, hôm nay dù là nước, dù là lửa hay gió, tất cả đều sẽ mất đi, nên vô nhị vô phân biệt. “Cứu cánh như hư không” đến cùng rồi, chính là hư không vô tánh, đến cuối cùng đều là vô tánh.
Lúc này, pháp sư trụ trì oán hận mình có mắt, mà không nhận ra Phật thật, để bày tỏ sự sám hối chuộc lỗi vì đã xúc phạm đến Bồ Tát, ông vào bếp lấy dao chuẩn bị tự móc mắt mình. Bởi vì ông cảm thấy mình có mắt không tròng, thậm chí Bồ Tát đến mà ông cũng không biết.
Bên cạnh có rất nhiều đệ tử và cư sĩ nói: “Thưa Sư phụ, Thầy không thể làm như vậy được”. “Vâng, thưa Sư phụ, làm như vậy không giúp ích gì, đây là một
điều ngớ ngẩn ạ!”. “Có rất nhiều cách để chuộc lỗi, sao lại phải khổ sở ra hạ sách này chứ?”. Mọi người nói qua nói lại với nhau và giật lấy con dao từ tay pháp sư trụ trì. Vị pháp sư trụ trì sau đó đã từ bỏ ý định ban đầu của mình và lấy mái tóc của cô gái nghèo (chính là Văn Thù Bồ Tát) bố thí, xây dựng một bảo tháp để cúng dường.
Thời kỳ đầu Vạn Lịch, pháp sư Viên Quảng tiếp nhận chức trụ trì, để trùng tu lại bảo tháp, ở dưới tháp đào ra vài bó Thánh Phát của Đại sĩ (giống như Sri Lanka có chùa Phật Nha, rất nhiều tháp Phật đều có tóc, răng của Bồ Tát), màu sắc (màu tóc của Văn Thù Bồ Tát) giống như màu vàng kim, nhưng nhìn kỹ lại, màu tóc biến hóa bất định. Tòa bảo tháp này hiện tại đang ở phía đông chùa chiền Đại Tháp, đây là dấu tích cổ văn hiện tại trong chùa Linh Thứu còn có được.
Câu chuyện này chính là nói cho chúng ta biết, người ta nói muốn bình đẳng nhưng trong thâm tâm họ vẫn bất bình đẳng. Chúng ta cần hiểu cách tạo ra sự bình đẳng thực sự trong trái tim mình khi sống trên thế giới này. Chúng ta phải yêu thương mẹ của mình, và càng phải yêu mến Quán Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát v.v.. và các vị Bồ Tát, giống như khi chúng ta còn nhỏ nhớ đến mẹ của mình vậy, niệm niệm Quán Thế Âm, niệm niệm các vị Bồ Tát, tự nhiên liền tắt đi tham sân si “tam độc” trong tâm mình. Người không có trí tuệ sẽ mãi mãi ghi hận người khác.
Cho nên Sư phụ nói với mọi người rằng: Nếu quý vị có thể nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chính mình nơi người khác, quý vị chính là người trí tuệ. Nếu có thể rút ra bài học từ người khác, chính là một người trí. Trí tuệ có nghĩa là có giải pháp cho mọi việc và xử lý nó một cách từ tốn, hài hước và bình tĩnh. Tu tâm chính là tu giác ngộ trong tâm, “Giác” là bổn tánh của quý vị, “Ngộ” là năng lượng tích cực của chính mình, dùng năng lượng tích cực của chính mình đi Giác bổn tánh của chính mình, chính là đi trong Phật đạo. Dùng tâm quán
chiếu những thói hư tật xấu của mình, thì quý vị mới có thể chiếu kiến được ngũ uẩn giai không. “Quán chiếu” này chính là chiếu kiến, vậy nên quý vị mới có thể sửa đổi những vấn đề của nhân gian, mới có thể buông bỏ và mới có thể giải thoát. Hãy nhớ rằng, giải thoát chính là giác ngộ.
Được rồi, bài giảng《Bạch thoại Phật pháp》hôm nay xin tạm dừng tại đây. Chúng ta hẹn gặp lại trong chương trình sau, cảm ơn đại chúng.
69. Thực tướng chân tam giác ngộ hữu đạo
Tập 69
THỰC TƯỚNG CHÂN TÂM GIÁC NGỘ HỮU ĐẠO
(16/05/2020)
Được rồi, hôm nay Đài trưởng sẽ tiếp tục nói với mọi người về “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Lần trước Đài trưởng đã nói với mọi người về “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm”, hôm nay Đài trưởng lại tiếp tục giải thích với mọi người. Câu này trích từ Kinh Kim Cang và là câu nói từ sự ngộ đạo của Lục Tổ. Thực ra thì câu này rất có ý nghĩa. Đầu tiên chúng ta cần hiểu “Vân hà sinh tâm”, chính là vì sao con người sinh ra rất nhiều tâm như vậy. Bởi vì mỗi người chúng ta gặp phải sự việc liền sinh ra rất nhiều tâm, ví dụ như tâm ích kỷ, tâm tham, tâm ghen tị, tâm hận … “Vân hà sinh tâm”, tại sao chúng ta lại có loại tâm này? Bởi vì con người chúng ta vốn đã có diệu minh chân tâm (chân tâm vi diệu và trong sáng), tức là trong trường thức thứ chín đã có chân tâm nguyên thủy của quý vị, chính là bản chất chân thật như thực tướng – tâm lương thiện từ bi, những thứ này là tâm tốt, nhưng chúng ta ở trong hồng trần nhân gian quá lâu, đã che khuất bổn tánh, lương tâm, vì vậy sinh ra rất nhiều tâm không nên có, mà thực ra cần phải sinh ra tâm bi nguyện, tâm Bồ Tát, tâm Bồ Đề, tâm từ bi, tâm bình đẳng và tâm lợi tha vô ngã mà con người nên có đối với người khác, tất cả những tâm tốt này đều không thể tìm được. Đó là lý do tại sao mọi người ngày càng xuống dốc. Khi gặp sự việc, người ta trước tiên nghĩ đến “tôi”, “bản thân tôi” và “cái tôi cần”, chứ không nghĩ đến việc giúp đỡ người khác.
Bồ Tát yêu cầu chúng ta phải có “như thị đẳng tâm” – mọi tâm thiện đều phải “vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm”. Cho dù là tâm tốt, một khi đã nghĩ đến thì cũng đừng giữ trong lòng. Một khi đã dùng đồ tốt, đừng lúc nào cũng vướng mắc, và cũng đừng lúc nào cũng ghi nhớ trong lòng. Quý vị đã giúp đỡ người khác rất nhiều nhưng không ghi nhớ trong lòng, hoặc quý vị đã tặng cho người khác rất nhiều thứ, nuôi dạy hay đối xử tốt với họ, tấm lòng nhân hậu như vậy thực ra chính là chân tâm và tâm thanh tịnh của quý vị, đó là tâm Phật của quý vị, vì
quý vị không có nơi nào để trụ, quý vị đã quên rằng quý vị từng giúp đỡ người khác, và quý vị không còn cảm thấy rằng quý vị có cái tâm này. Phân tích cuối cùng, chính là đã từng giúp đỡ người khác thì phải quên đi, và quý vị cũng phải quên đi đã từng đối xử tốt với người khác. Tại sao chúng sinh lại có quá nhiều tâm tham và cống cao ngã mạn như vậy? Tại sao chúng ta lại có tâm phân biệt và thậm chí có 84000 tâm phiền não? Bởi vì chúng ta đã giữ cái tâm đã qua sử dụng đó trong lòng rất lâu rồi, “Đây là tâm của tôi”, “Đây là sự hận thù của tôi”, “Đây là sự ghen tị của tôi”… Dần dần vì quý vị đã giữ đủ rất nhiều loại tâm, khiến cho quý vị sinh ra nhiều tâm hơn, rồi tâm vọng tưởng của quý vị bắt đầu khởi lên và tâm nghiệp thức bắt đầu khởi lên, nên tâm bình đẳng sẽ không còn tìm thấy nữa. Vậy nên, tất cả đều là “Vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm”, chúng ta chỉ cần lấy bất kỳ tâm nào ở nhân gian đặt vào trong tâm thanh tịnh của mình, thì chân tâm của quý vị sẽ không bị đắm nhiễm, đó chính là Phật tâm thường trụ. Tâm mà chúng sinh khởi lên đều là tham lam, cố chấp, tâm cống cao ngã mạn, và còn có tâm phân biệt, những tâm vọng tưởng và tâm nghiệp thức này (nghiệp là nghiệp của nghiệp chướng, vì nghiệp chướng làm chướng ngại ý thức, loại tâm thái này sinh ra gọi là tâm nghiệp thức), cũng chính là tâm của chúng sinh.
Trong kinh Phật nói: “sở dĩ giả hà?(Vì cớ sao?)” Tại sao chúng sinh ở bất cứ đâu đều bị chấp vào hình tướng, chuyện gì cũng muốn đi sâu vào? “Tôi đã tốt với bạn. Tôi đã tốt với bạn hai, ba lần rồi. Tại sao bạn lại làm điều này với tôi?” Đã bị chấp tướng rồi. “Tại sao tôi đã tu như vậy rồi, mà vẫn tu chưa tốt? Bồ Tát, con khấu đầu quỳ lạy mỗi ngày, tại sao con vẫn không được?”. Bởi vì “tướng đa, cố tâm diệc đa (tướng nhiều, cho nên tâm cũng nhiều)”. Tức là hôm nay quý vị chấp tướng càng nhiều, thì quý vị càng sinh ra nhiều tâm. Hôm nay nhìn thấy người này hay người kia, cảm thấy khác hẳn: Nhìn người này thấy rất tốt, sinh tâm hoan hỷ. Cảm thấy rất ghét người này, sinh tâm sân hận. Hôm nay quý vị nhìn thấy người khác nữa, cảm thấy họ giàu có hơn mình và trông xinh đẹp hơn mình, lại nảy sinh tâm đố kỵ v.v… Bởi vì tướng sinh ra tâm, nếu có nhiều tâm
thì không thể thanh tịnh được. Vì vậy, khi học Phật, chúng ta thường có một câu nói: “Bạn đa tâm quá” – bởi vì quý vị suy nghĩ quá nhiều nên tâm không thanh tịnh, vậy thì tất nhiên trong học Phật không thể ngộ ra được thực tướng chân tâm, quý vị không thể hiểu được thế nào là thực tướng. Vậy nên, nếu người học Phật “Dục ngộ thực tướng chân tâm” (“chân tâm” chính là tâm chân thật của quý vị), là Sư phụ bảo mọi người đừng nói dối, thì mới có thể nói ra lời chân tâm. Nếu hôm nay quý vị nói dối, thì quý vị có thể nói thật không? “Thực tướng chân như”. Nếu tâm không thanh tịnh, thì mọi sự sẽ không có được chân tướng, cho nên phải buông bỏ hết thảy, thì hết thảy sẽ không trụ được. Hôm nay quý vị có đối xử tốt với người này hay không – một cái tâm này cũng không nên có. Hôm nay nhìn thấy họ có chán ghét hay không – đừng nên có. Cũng giống như Sư phụ ngày nay bất kể nhìn thấy ai, đều cảm thấy rằng họ học Phật, họ là người có bổn tánh, họ là người chân tâm tụ kiến (người có thể nhìn thấy bản chất thật của mình). Nếu quý vị dùng cảnh giới này để nhìn vào tất cả mọi người, thì quý vị sẽ không cảm thấy họ đáng ghét và quý vị sẽ tự nhìn thấy được đạo tâm của chính mình.
Phật đạo, học Phật có đạo lý, học Phật có một con đường, không phải loạn học, rất nhiều người cho rằng niệm niệm kinh thì bản thân liền học Phật rồi. Phật đạo Phật đạo, Phật có một con đường. Quý vị có thể tìm thấy Phật trên con đường chân chính này. Nếu quý vị rời bỏ con đường của Phật và không thể tìm thấy chân Phật, có thể quý vị đã đi lệch. Vậy “Đạo từ tâm sinh”, Đạo đến từ đâu? Sinh ra từ trong tâm. “Tâm do đạo kiến”. Chỉ khi tâm của quý vị hướng về Phật đạo, thì mới có thể nhìn thấy lương tâm và bổn tánh thực sự. Suy cho cùng, đó là chữ “Đạo”, chữ “Phật”, chữ “Giác”, chữ “Ngộ”, điều kì diệu không thể diễn tả được. Nếu quý vị đã hiểu được là đã tìm ra được con đường này, nếu quý vị không hiểu được thì sẽ xa rời con đường Phật giáo. Bất kể quý vị làm gì, ngôn và hành (ngôn ngữ và hành vi) của quý vị, nếu quý vị có thể hiểu được, quý vị liền có thể có được Phật, liền có thể phán đoán. Nếu trong tâm quý vị đang làm
điều gì đó và quý vị không thể tìm thấy một con đường nào đó trong tâm mình vậy thì con đường của quý vị sẽ bị cắt đứt hoặc không còn nữa. Nếu quý vị không thể tìm thấy Phật pháp, thì con đường của quý vị sẽ không còn nữa. Phật đạo vi diệu, người mới học căn bản không biết lĩnh ngộ chân như thực tướng của Phật pháp, bởi vì họ tìm không thấy Phật đạo.
Phật muốn chúng sinh lĩnh ngộ thực tướng vô tướng, Phật dạy mọi người: Thế giới này hết thảy đều là trống không, các vị không nên vì một chút lợi ích nhân gian, vì danh lợi mà cãi vã, bởi vì thế giới này bề ngoài thoạt nhìn là thực tướng, trên thực tế là vô tướng, là không tồn tại. Nếu hôm nay quý vị không nghĩ đến ý nghĩ này thì quý vị chính là chân tâm, nên gọi “Ly niệm tức là chân tâm”. Nếu quý vị có ý nghĩ này vậy thì trong tâm quý vị sẽ có chỗ trụ. Nếu như hôm nay quý vị không có ý niệm này, tâm sẽ không có chỗ trụ. Vì vậy, Phật pháp chân chính là sự hiểu biết và khai ngộ. Phật muốn chúng sinh lĩnh ngộ chỗ ảo diệu của Phật pháp, chính là nói cho chúng ta biết phương pháp sinh ra tâm này: chúng ta phải sinh ra tâm Phật và tâm từ bi, đây mới gọi là chánh đạo. Nếu hôm nay quý vị sinh ra những tâm tham hèn hạ, tâm sân hận và tâm ngu si đáng khinh đó mà còn giữ những tâm này ở trong lòng mình, thì vĩnh viễn sẽ không tìm được Phật đạo. Chúng ta phải hiểu rằng “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm”, nghĩa là dù bản thân có làm việc gì (dù tốt hay xấu) thì cũng phải quên đi những tư tưởng đang khởi lên trong tâm mình và không để chúng đọng lại trong tâm. Hãy thử nghĩ xem, khi còn trẻ quý vị đã làm điều gì sai trái, và bây giờ ngay khi Sư phụ kể cho quý vị nghe về việc quý vị đã từng như thế nào, như thế nào, quý vị lập tức rơi nước mắt vì điều đó ở trong tâm quý vị mà sinh tâm.
Bồ Tát dạy chúng ta “Ưng vô sở trụ”, những điều tốt hay xấu này đều là chuyện quá khứ, không để trong tâm trí, liền “vô sở trụ tâm”. Hai câu này: “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm”. Bề ngoài, dường như muốn bảo với quý vị rằng không nên có tâm; nhưng câu sau đây: “Nhi sinh kỳ tâm”, nghĩa là lại phải sinh ra cái tâm này. Vậy rốt cuộc là sinh tâm gì đây? Nghe thì có vẻ mâu thuẫn nhưng thực ra
đang nói với quý vị rằng: tôi có tâm của ngày hôm nay, nhưng tôi không trụ nó ở trong tâm, đồng nghĩa với tôi không có tâm. Không có tâm lại sinh ra tâm. Mặc dù sinh tâm, nhưng tôi sẽ không trụ trong tâm mình. Chẳng phải nó giống như thời gian trôi qua, sẽ không còn nữa sao? Hãy thử nghĩ xem, nỗi thống khổ của chúng ta là do hồi ức, ký ức gây ra, nếu quý vị “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” thì quý vị sẽ không đau khổ nữa. Vậy tại sao tâm quý vị lại sinh ra? Bởi vì tâm nhất định sẽ sinh ra. Vì thế, nếu cũng phải sinh tâm, Bồ Tát dạy chúng ta nhất định phải sinh ra tâm “Ưng vô sở trụ”. Đảo ngược hai câu này có nghĩa là: Nhất định bạn sẽ sinh tâm cho nên bạn cần phải không có chỗ để trụ tâm. Đây là điều ảo diệu của Phật giáo.
Trong《Kinh Kim Cang》, “Vân hà ứng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm” Điều này có nghĩa là muốn đạt tới cảnh giới Bát Nhã Bồ Tát, quý vị nên hàng phục tâm của mình như thế nào? Tức là quý vị nên đặt tâm này vào cảnh giới nào, và quý vị nên hàng phục những tâm vọng tưởng này như thế nào? Sư phụ sẽ đưa ra một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị cãi nhau với người khác, nếu cảnh giới của quý vị quá thấp, quý vị đặt tâm này trụ trong tâm hận thù sâu thẳm của mình. Bởi vì sau khi cãi vã, quý vị đã hận đối phương và không muốn hòa hợp với họ, rất buồn, quý vị đặt cái tâm này trụ trong tâm sân hận, chính là cái cảnh giới này. Vậy làm thế nào để quý vị hàng phục được những tâm vọng tưởng này đây? Cũng chính là bảo với mọi người rằng “Ưng như thị trụ” là thực sự cầu thị, sự việc này qua rồi, bản thân chúng ta cũng không có cảnh giới này, chúng ta đã phạm sai lầm hoặc có được hoặc mất đi thì nó vẫn như thế này – nó vốn dĩ là như thế này. Nghĩ rõ ràng, trên thế giới này tất cả những gì nên xảy ra sẽ xảy ra, những gì không nên xảy ra sẽ không xảy ra, hết thảy đều là duyên phận.
“Ưng như thị trụ, như thị hàng phục kỳ tâm”, nghĩa là mọi việc trên đời này đều bình thường, xuất hiện cũng bình thường, xảy ra cũng bình thường, giải quyết nó cũng bình thường, để thuần phục cái tâm này của mình, có như thế thì quý vị sẽ an trụ được tâm của mình. Bề ngoài thoạt nhìn, câu trả lời của Đức Phật trong
Kinh Kim Cang dường như không có câu trả lời, thực ra trong lòng Đức Phật đã trống rỗng từ lâu, Ngài không có ý niệm. Khi đệ tử hỏi thì ý nghĩ của Đức Phật đã sớm trống rỗng, nên sau này Đức Phật liền nói một câu pháp môn tiện lợi, đó chính là “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm”. Chính là mọi suy nghĩ của quý vị không trụ trong tâm quý vị, lúc này những gì quý vị nảy sinh trong tâm, có phải là một cái tâm trong sáng không? Lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị vừa cãi nhau với ai đó, nếu quý vị đem hận niệm, những gì anh ta nói về quý vị, những suy nghĩ tồi tệ mà anh ta có về quý vị, và tất cả những điều anh ta nói đã làm tổn thương quý vị trong quá khứ và bây giờ, tất cả đều không trụ ở trong tâm, quên hết rồi, lúc này quý vị sẽ cảm thấy rằng: “Khi tôi nói chuyện khác với bạn, tôi không có việc gì khác trụ ở trong lòng”, cái tâm cuối cùng mà quý vị sinh ra chính là cái tâm đang diễn ra, chính là tâm như thế, sẽ không mang theo thành kiến nữa. Sao nhiều người lại có thành kiến? Bởi vì tâm trong quá khứ của họ trụ ở trong tâm, họ đã có thành kiến với người khác. Vì vậy, mỗi một ý nghĩ đều không được để nó dừng lại trong tâm quý vị – gọi là “Vô sở trụ tâm”, và nó sẽ hành mây lưu thủy (nước chảy mây trôi) một cách tự nhiên.
“Tiền niệm dĩ diệt” nghĩa là ý nghĩ trước đã bị diệt độ rồi; “Hậu Niệm bất sanh” tức là nói cho chúng ta biết rằng sau khi niệm trước của chúng ta đã diệt rồi, thì sau đó không nên có niệm nào khác khởi lên nữa. Bây giờ Đài trưởng đem một số câu kinh văn quan trọng trong Kinh Kim Cang làm nền cho mọi người trước, sau này giảng kinh văn cho mọi người, mọi người có thể nghe hiểu. Chính là nói với mọi người rằng một khi một niệm khởi lên thì các vị cần phải tiêu diệt nó, và các vị sẽ không còn trụ nó ở trong tâm mình nữa. Nếu quý vị lại không có những niệm tưởng tiếp theo thì quý vị sẽ trong sạch. Sư phụ thích lấy gia đình làm ví dụ, người chồng vừa nói một câu rất khó chịu, người vợ nhìn thấy thì rất chán ghét, nếu người vợ quên điều khó chịu mà người chồng vừa nói thì ý nghĩ trước đó đã diệt, sẽ không còn nữa. Tiếp theo đó “Hậu niệm bất sinh” Nói cách khác, vừa rồi câu nói đáng ghét mà người chồng nói đã bị diệt độ rồi, nó không
còn nữa, giống như không nghe thấy vậy, thì sẽ không khởi lên ý niệm chán ghét phía sau đối với anh chồng, thì có phải hậu niệm không sinh nữa không? Vì vậy, “Hành mây lưu thủy, đương thể tức không”. Ngay lập tức và vào lúc này, trong tâm quý vị không có tâm sân hận, không có tâm phiền não, tất cả đều không sao cả, quý vị liền trống không. Cho nên đừng đi dụng tâm.
Quay trở lại ví dụ này, nếu người chồng vừa nói điều gì đó rất khó chịu mà người vợ vẫn nhớ và giữ trong lòng rồi lại muốn diệt độ nó thì người vợ nhất định phải dụng tâm để cầu sự trống rỗng. Nói cách khác, cô ấy phải dụng tâm mình để diệt độ những lời anh ta vừa mắng cô, vậy thì lúc này cô vợ đang đóng quân trong tâm của chính mình rồi.
“Vừa rồi! Anh ta mắng tôi à? Quên đi, đừng làm vậy. Anh ta là người như vậy, suốt ngày phiền phức. Thôi quên đi, để tôi kiềm chế bản thân một chút …”. Hãy ngẫm lại xem, quý vị dụng tâm cầu trống rỗng, quý vị dụng tâm muốn đem chuyện này không trụ ở trong tâm, kỳ thật vẫn là “Nhân tâm nhi sinh tâm (Vì tâm mà sinh tâm)”. Vì thế, điều kỳ diệu trong lời Bồ Tát nói là “Nhi sinh kỳ tâm” – “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm”. Cô vợ đã quên hết những lời chửi rủa mà anh chồng vừa nói với cô, cái tâm mà cô nảy sinh ra có phải là tâm trong sạch không? Giống như trước mặt có một chậu nước bẩn, quý vị đã đổ đi, và sau đó hứng nước mới có phải nước tiếp theo là sạch không? Nếu chậu nước bẩn trước đó chưa được quý vị xả sạch, quý vị sẽ nói: “Ồ, thật đáng ghét, tôi sẽ đổ nó đi”. Cái chậu nước trước là thuận tay đổ đi, còn “Ồ, thật đáng ghét, tôi thấy nó bẩn rồi”, rồi sau đó mới đổ nó đi, lúc này quý vị phải sinh ra một cái tâm sạch sẽ, cái tâm này không còn là cái tâm “Đương thể tức không” nữa. Vì vậy, bất cứ một vọng niệm nào khởi lên, chúng ta đều không được để nó trụ trong bổn tánh tự tánh. Khi một người có niệm xấu thì phải diệt trừ nó, nếu không thể diệt trừ được niệm này, vậy thì không thể làm được như như bất động.
71. Nhất niệm trí tức bát nhã
Tập 71
NHẤT NIỆM TRÍ TỨC BÁT NHÃ
(16/05/2020)
Một người tốt không tham, thì phiền não ở đâu ra? Muốn cái này, muốn cái kia, muốn đến về sau mới không có được, không phải là có phiền não rồi sao? Cho nên muốn bản thân không có phiền não, không có sai lệch, thì phải tránh những rủi ro đó một cách hiệu quả. Một số người rất có kinh nghiệm, chỉ cần hỏi chuyện này có rủi ro hay không, họ vừa nghe đến có rủi ro, thì “Tôi không làm nữa, thêm một chuyện không bằng bớt đi một chuyện”, vậy nên mới có thể chống lại được cám dỗ. Lấy một ví dụ đơn giản, hiện nay có nhiều người vay trả góp (vay mua nhà), và họ rất đau khổ, tại sao? Họ không thể chịu được sự cám dỗ, vì họ nghe người ta khuyến khích: “Bạn có thể vay, bạn có thể mua nhà”, nhưng sau khi đi vay tiền lại trả không nổi, ngôi nhà này liền bị thu hồi và ngôi nhà này sẽ không phải là của họ nữa, họ liền bị nỗi thống khổ quấn lấy thân, bởi vì họ không thể cưỡng lại được loại cám dỗ này. Vì vậy “Tâm động tắc vật động, tâm tĩnh tắc vật tĩnh”. Lấy một ví dụ đơn giản, bộ quần áo đẹp trưng bày trong tủ kính, nếu quý vị muốn mua, quý vị vừa động tâm, thì bộ quần áo này liền động – vì quý vị muốn mua nên nó liền chuyển động – Nếu tâm quý vị không lay động, nhìn thoáng qua rồi đi, thì chiếc áo này vẫn còn đó như cũ. Quý vị muốn mua nó, giá cả của nó chính là nguồn gốc cám dỗ của quý vị.
Sư phụ nói với mọi người “Nhất niệm ngu tức Bát Nhã tuyệt”: Một ý niệm vô cùng ngu xuẩn, thì trí tuệ của quý vị liền bị cắt đứt. “Nhất niệm trí tức Bát Nhã sinh”: Nếu hôm nay một ý niệm của quý vị có trí tuệ, Bát Nhã của quý vị sẽ được sinh khởi. Hôm nay quý vị rất coi trọng sự việc này, quý vị cho rằng nó Có, thì nó sẽ Có ở trước mắt quý vị. Nếu quý vị cảm thấy vấn đề này không quan trọng với mình chút nào và không hề nghĩ đến nó, thì đó là nó Không tồn tại trước mặt quý vị. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị cảm thấy ngôi nhà này rất tốt, quý vị rất thích, ai nấy đều vừa ý, bắt đầu động não để đi vay tiền, quý vị suy nghĩ tính toán rất nhiều, thì vật phẩm này là tồn tại. Đợi đến khi quý vị nói “Thôi đi, giá cả cao như vậy, có rất nhiều ngôi nhà còn tốt hơn nó nữa”, quý vị
không coi trọng nó, thì ngôi nhà này sẽ không tồn tại, và trong mắt quý vị nó sẽ không tồn tại, nó liền kết thúc và không còn nữa. Bất luận chúng ta làm chuyện gì, có đôi khi để nó ở trong tâm, nó liền Có. Không để nó ở trong tâm, nó liền Không có. Rất nhiều vật chất nhân gian đều là hư không, ngay cả con người cũng là hư không, chúng ta đến thế gian này, hết thảy đều là hư không. Trong kinh Phật đã sớm có giải thích, “Sinh không mang đến, chết không mang đi”. Vật này không mang đi được thì không phải là của quý vị. Quý vị nghĩ có thể mang nó đi được không? Không mang theo được, vậy thì nó không phải của quý vị, cho dù quý vị có được cũng sẽ mất đi.
[Vọng tâm bất khởi, hằng xử tịch diệt chi lạc]. “Vọng tâm bất khởi”, hôm nay quý vị đối với bất cứ việc gì trên thế gian cũng không khởi tham niệm và vọng tưởng mà có được ý niệm. “Hằng xử tịch diệt chi lạc” có nghĩa là quý vị luôn ở trong niềm vui của sự tịch diệt (tức là một loại bình an và yên tĩnh). Nếu như vọng tâm của quý vị vừa động, sẽ bị bụi gai đâm bị thương, thế nên trong kinh nói “Hữu tâm giai khổ, vô tâm tức nhạc”, người học Phật chính là phải quản tốt cái tâm này của mình. Cho nên người học Phật chân chính, tu hành tu tâm, tu tâm tu hành, đều không thể rời khỏi cái tâm này, nên quản tốt cái tâm này của mình, để cho cái tâm này của mình trở nên tâm vô quái ngại, thì quý vị mới có thể đạt đến cảnh giới vô ngã.
Sau đây sư phụ sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện về thời Đức Phật khi còn tại thế.
Nhất thời Phật ở thành Xá Vệ, Lộc Dã Uyển có một vị vua nổi tiếng tên là vua Phạm Thí. Trong thời gian ông còn tại vị, quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, trâu béo ngựa tráng, cả nước tràn trề sức sống, phồn vinh thịnh vượng, mọi người trải qua cuộc sống hòa bình. Không lâu sau, vương phi mang thai, sau mười tháng sinh ra được một nữ hài tử xinh đẹp đoan trang, trong ngoài cung đình vì nàng mà cử hành một nghi thức chúc mừng long trọng. Lúc chuẩn bị đặt
tên cho nàng, bởi vì dòng giống của nhà họ Vương là Ca Hi, mà nàng lại trời sinh lệ chất, xinh đẹp tuyệt trần phi phàm, cho nên đặt tên là “Mỹ Nữ Ca Hi”. Quốc vương đặc biệt mời tám người di mẫu (bà vú), họ lần lượt phụ trách ăn, uống, ngủ, chơi đùa, vui chơi… tỉ mỉ chăm sóc nuôi nấng nàng. Công chúa lớn nhanh như hoa sen giữa biển. Thuở nhỏ nàng đã học tập các loại văn võ lý số, kinh sử thi phú, đồng thời sinh khởi lòng tin lớn lao đối với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (trước đây nói sinh khởi lòng tin chính là sau khi xem kinh thư cảm thấy rất tốt và rất kính trọng Đức Phật), bên cạnh đó nàng còn thường xuyên mượn sự giúp đỡ của cha mẹ để cúng dường Tam Bảo, Phật, Pháp, Tăng.
Lúc này Mỹ Nữ Ca Hi là một thiếu nữ trẻ trung, yểu điệu thục nữ, sắc đẹp của nàng có thể nói tuyệt đỉnh thiên hạ, không gì sánh bằng, ngay cả các vị vua của sáu nước xung quanh cũng đều biết đến nàng, đều hy vọng cưới được nàng về hoàng cung. Trong số sáu nước, mỗi nước bèn cử sứ giả đến gặp vua Phạm Thí của Ấn Độ để cầu hôn con gái của ông. Vua Phạm Thí nghe xong trong lòng lập tức bất an, thầm nghĩ: Ta chỉ có một cô con gái, nếu ta đồng ý với một trong các vị vua, năm vị vua còn lại chắc chắn sẽ khiêu chiến ta, điều này sẽ gây nguy hiểm cho toàn bộ thần dân trong nước. Ông có chút lo lắng, cho nên không đồng ý với bất kỳ vị vua nào. Sáu vị vua này rất bất mãn, ai nấy đều tự chỉ huy bốn đại quân đội tiến quân về phía Lộc Dã Uyển, chuẩn bị cướp bóc người dân.
Vào một buổi sáng, quốc vương Phạm Thí đột nhiên nghe thấy tiếng cờ tung bay phấp phới và tiếng ngựa xe tấp nập bên ngoài thành. Khi trèo lên tường thành để quan sát, ông nhìn thấy quân đội của sáu quốc gia đang ở trước mặt mình. Đột nhiên, ông cảm thấy mọi chuyện đã kết thúc, trong lòng vạn phần lo lắng, lê từng bước nặng nề, uể oải trở về mái nhà, ngồi đó chống cằm và suy nghĩ: “Mình nên làm gì đây?” Ông rất lo lắng.
Lúc này Mỹ Nữ Ca Hi đi tới bên cạnh quốc vương Phạm Thí, thấy phụ vương vẻ mặt ưu sầu, vội hỏi: “Thưa phụ vương, vì sao cha lo lắng như vậy?
“Ồ, là lo cho con mà thôi”
“Vì con ư! Chẳng lẽ diện mạo của con không đủ đẹp sao?” Nàng còn nói đùa rằng diện mạo của mình không đủ đẹp.
Quốc vương Phạm Thí với nụ cười khắc khổ và nói: “Con ơi, không phải vì con không xinh đẹp mà là vì con quá xinh đẹp. Sáu nước tranh nhau cưới con, nhưng ta lần lượt từ chối. Kết quả là hôm nay sáu nước đem binh đến gần kinh thành, vậy thì phải làm sao đây?”
Mỹ Nữ Ca Hi suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Thưa phụ vương, phụ nữ có được quyền lựa chọn hôn nhân cho chính mình không?”, Quốc vương trả lời một cách sảng khoái: “Đương nhiên là có quyền lựa chọn cho mình rồi”.
Sau khi Mỹ Nữ Ca Hi nhận được sự khai hứa (tức là sau khi quốc vương đồng ý), liền an ủi phụ vương: “Thưa phụ vương, xin cha không cần lo lắng, cha hãy đi báo với sáu vị quốc vương rằng, con sẽ tự mình chọn lựa bọn họ.”
Quốc vương nghe xong những lời này, cảm thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều nên sai sáu sứ giả đến báo cáo sự việc này với sáu vị vua và yêu cầu họ rút quân, đợi vài ngày sau để chuẩn bị tuyển chọn. Sáu vị quốc vương lúc này đều kiêu ngạo và cho rằng Mỹ Nữ Ca Hi nhất định sẽ chọn mình, vì vậy bọn họ đều không hẹn mà cùng đồng ý lui binh. Lúc này sứ giả chạy về bẩm báo: “Báo! Thưa quốc vương, sáu nước này toàn bộ đã lui binh.” quốc vương trong lòng nghĩ: Lần này nhất định con gái phải xuất giá làm vương phi rồi, nhưng dù thế nào đi nữa, chỉ cần quốc thái dân an, thì trong lòng ta đã đủ lắm rồi. Sau đó tâm ông từ từ bình tĩnh lại.
Sáu vị quốc vương dự tuyển kia đều tự xây dựng cung điện, tìm ra đủ loại bảo vật, mang theo voi (voi tượng trưng cho danh tiếng của một quốc gia lúc bấy giờ), kho báu và gia quyến, gần như dốc hết tất cả những gì họ có, ngày hôm đó đúng giờ đi tới Lộc Dã Uyển. Sau khi đến nơi, mỗi người vào một vị trí, xếp đội
hình của riêng mình rồi ngồi trên ngai Sư Tử, chờ đợi Mỹ Nữ Ca Hi đến. Mọi người ai nấy đều ngươi nhìn ta, ta nhìn ngươi, đều nghĩ mình là người tốt nhất.
Lúc này Mỹ Nữ Ca Hi thật sự đã đến, nàng mặc bộ quần áo lộng lẫy và đeo đồ trang sức, cưỡi voi, chậm rãi đi ra khỏi cổng thành, đi đến trước mặt từng vị quốc vương, sau đó chân thành nói với bọn họ: “Các vị quốc vương, ta không muốn cùng bất cứ người nào trải qua cuộc sống thật thật giả giả trên thế gian, ta nguyện ý lễ bái Phật Thích Ca Mâu Ni!” Nói xong nàng quay đầu và cưỡi voi đi mất. Sáu vị quốc vương cùng gia quyến nhìn bóng lưng khoan thai rời đi của nàng, cảm thấy vô cùng thất vọng (bởi vì trước đây bọn họ vô cùng tôn trọng tôn giáo, Phật giáo và bọn họ vô cùng tôn kính Đức Phật), nhưng lại mơ hồ tự hỏi làm thế nào mà một người phụ nữ xinh đẹp như vậy có thể không tham luyến cuộc sống trên thế gian này, lại không muốn tận hưởng sự giàu sang và vinh quang của cuộc sống, mà lại sẵn sàng quy y theo Đức Phật. Quốc vương Phạm Thí và gia quyến cũng thấy được hành động này của công chúa Mỹ Nữ Ca Hi, bọn họ bán tín bán nghi đi theo Mỹ Nữ Ca Hi để nhìn ra chân tướng.
Trên đường đi, nếu có thể thì Mỹ Nữ Ca Hi cưỡi voi, nếu không thể thì nàng đi bộ, sau một hành trình gió bụi phong trần, cuối cùng nàng cũng đến được thánh cư của Đức Phật. Sau khi nhìn thấy Đức Phật, nàng chắp tay dưới chân Ngài, cung kính đảnh lễ và thỉnh cầu: “Bạch Đức Thế Tôn, con nguyện xuất gia theo giáo pháp của Ngài và trì giới thanh tịnh. Con chỉ mong được Ngài chấp thuận!” Đức Phật vui vẻ đồng ý, gọi chủ mẫu của chúng sinh đến, đích thân giao Mỹ Nữ Ca Hi cho chủ mẫu (Chủ mẫu của chúng sinh là thủ lĩnh chuyên môn phụ trách về Tỳ kheo ni, quản lý toàn bộ Tỳ kheo ni). Chủ mẫu chúng sinh liền cạo đầu cho vị công chúa này xuất gia, thụ cụ túc giới và truyền thụ Phật pháp. Vị công chúa này đã tích lũy tư lương, tinh tấn tu trì, đoạn tận hoàn toàn tam giới luân hồi, chứng đắc được quả vị của Thánh giả La Hán. Trong cảnh giới của cô, vàng cũng giống như đất, không có ưu hay nhược, bàn tay và hư không không khác biệt, không có gì là khác biệt cả, hiển thị trống không như một. (Sư phụ đã từng
kể với mọi người, có một người rất vĩ đại, khi ra đi đã nói với thị vệ của ông rằng, đợi đến khi ông ta đi rồi, phải đặt hai tay ông ta bên ngoài quan tài, để cho mọi người nhìn, chính là một người vĩ đại như thế, khi ra đi cũng là hai tay trống không, chỉ để nói với mọi người rằng: hai tay trống không, như thể nắm giữ một thứ gì đó, và cuối cùng tất cả đều phải buông bỏ). Chư Thiên ca ngợi (tức là thượng thiên cũng đánh giá rất cao).
Những người đi theo đều thấy Mỹ Nữ Ca Hi thật sự đã xuất gia (ngày xưa chỉ cần xuất gia, không kết hôn thì mọi người đều kính trọng), đồng thời chứng đắc được quả vị, mọi người đều cảm thấy thật sự rất tuyệt vời. Mỹ Nữ Ca Hi đến gặp Đức Phật để lạy tạ và Đức Thế Tôn đã thuyết pháp cho những người đi theo nàng. Lúc này, chư Tỳ kheo hỏi: “Bạch Thế Tôn, vì nhân duyên gì mà Mỹ Nữ Ca Hi được sinh vào hoàng gia? Vì nhân duyên gì mà cô ấy lại xinh đẹp uy nghiêm như vậy? Vì nhân duyên gì mà cô ấy lại có niềm tin lớn lao vào lời dạy của đấng Như Lai như vậy?” Và vì nhân duyên gì mà cô ấy nhanh chóng chứng đắc Thánh quả?”
Đức Phật liền kể cho chư Tỳ kheo nghe: “Đây là nguyện lực trước kia của cô ta. Trước khi người Hiền Kiếp thọ hai mươi ngàn tuổi, và khi, Thiên nhân đạo sư (Thiên nhân sư), Như Lai, bậc Chánh Đẳng Giác Ca Diếp Phật ra đời, Lộc Dã Uyển có một vị thí chủ, người giàu như Đa Văn Thiên Tử. Vợ của thí chủ sinh ra một cô con gái xinh đẹp. Sau khi lớn lên, cô sinh khởi niềm tin mãnh liệt vào Đức Phật Ca Diếp. Với sự giúp đỡ của cha mẹ cô đã xây dựng một kinh đường cho Đức Phật và chư Tăng. Được sự đồng ý của cha mẹ, cô đã có thể xuất gia, cô nghiêm chỉnh chấp hành tuân thủ giới luật thanh tịnh trong suốt cuộc đời và tinh tấn Văn Tư Tu Hành. Trước khi chết cô phát nguyện: “Nguyện ở đời này, con có được những công đức như bố thí, cúng dường, trì giới, văn tư v.v., Có thể đời đời kiếp kiếp sinh ra trong một gia đình giàu có, tướng mạo trang nghiêm, đồng thời xuất gia chứng quả La Hán trong giáo pháp Thích Ca Thế Tôn. Vị Tỳ kheo ni phát nguyện này chính là Mỹ Nũ Ca Hi. Với nguyện lực quá khứ đã
chín muồi, cô sinh ra trong một gia đình giàu có, hảo tướng trang nghiêm, đối với ta (Đức Phật) sinh khởi lòng tin, được xuất gia và trở thành ni sư, chứng đắc Thánh quả.
Đức Phật kể với họ có một nhân duyên như vậy, chính là để nói với họ rằng, con người phải phát khởi lòng tin thanh tịnh lớn. Hãy xem chúng ta hiện nay, ai nấy đều không có nguyện lực, nguyện lực của rất nhiều người chính là “Tôi muốn nổi tiếng, tôi muốn giàu có”. Hãy nhìn những người đi chùa cầu xin mà xem, đều là muốn cầu tài, cầu xin những gì tốt cho bản thân, đều là xin cho bản thân mình. Mỗi người chúng ta phải hiểu rằng: phiền não đến từ việc cầu xin, dục vọng sẽ tạo ra phiền não cho quý vị, sẽ làm tổn thương trái tim trong sáng của quý vị và khiến quý vị mất đi nhiều trí tuệ và phúc đức hơn. Vậy nên hãy xa lìa dục vọng, để chúng ta có thể đón nhận trí tuệ của Đức Phật, dùng tấm lòng thanh tịnh của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, và dùng Phật pháp mà Đức Phật đã ban cho chúng ta để chỉ dẫn hướng đi cho chúng ta, như thế chúng ta mới có thể tránh xa được điên đảo mộng tưởng và một kiếp tu thành báo Phật ân!
Được rồi, hôm nay bài giảng dành cho đại chúng xin tạm dừng tại đây. Chúng ta hẹn gặp lại ở chương trình tiếp theo. Cảm ơn đại chúng.
72. Tu tâm như sơ, rời xa mê cảnh
Tập 72
TU TÂM NHƯ SƠ, RỜI XA MÊ CẢNH
(20/05/2020)
Được rồi, hôm nay Đài trưởng sẽ tiếp tục giảng với đại chúng về “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Trên đường đời, tất cả mọi người đều đang chạy, đôi khi chúng ta vượt qua một số người và đi trước những người khác. Đôi khi cuộc sống của chúng ta lại bị rất nhiều người vượt qua. Thực ra bí quyết của cuộc sống là tìm một tốc độ phù hợp nhất với mình để sống, không nên bởi vì nhìn thấy người khác nhanh, hoặc là nhìn thấy người khác chậm, mà tăng thêm gánh nặng cho bản thân. Vậy nên, khi một người sống trên đời, người đó phải biết cách tìm ra tốc độ và năng lượng phù hợp nhất với mình để làm một việc gì đó. Giới Phật giáo thường nói: “Mạc nhân trì hoãn nhi không háo sinh mệnh”, nghĩa là đừng hao tổn sinh mệnh của mình một cách vô ích.
Đạo Phật dạy chúng ta rằng ai cũng sẽ phải trải qua một quá trình khổ đau. Bởi vì “khổ” là sự hiểu biết về thế giới, đôi khi đau khổ lại là cảm nhận và cảm thụ của chúng ta về thế giới.
Điều quan trọng nhất là người học Phật nên học cách sống trí tuệ trong thế giới này. Điều con người không thể quên nhất, đó chính là người đã từng cứu chúng ta thoát khỏi bể khổ, người đã từng giúp đỡ chúng ta, khi chúng ta gặp khổ nạn, khi nghĩ không thông, khi rất khó xử. Điều mà con người không thể kết giao nhất, chính là người khinh thường quý vị, hắt hủi quý vị khi quý vị thất bại. Điều mà con người chúng ta không thể tin tưởng toàn bộ nhất chính là khi quý vị thành công, người khen quý vị cái gì cũng tốt, quý vị phải đặc biệt cẩn thận và phải dùng trí tuệ của mình để nhìn thấu những điều này. Người không thể từ bỏ nhất, đó chính là người cùng quý vị tu tâm, cùng vượt qua hoạn nạn, tình bạn trong nghịch cảnh rất quý giá. Hiện nay trong thời mạt pháp, mọi người trên thế giới đều chịu những áp lực khác nhau, những người có thể học Phật với chúng ta là những người cùng tu tâm và cùng chung hoạn nạn với chúng ta. Người
không thể yêu thương nhất, chính là người không coi trọng nhân cách của quý vị. Khi một người thích tiền bạc, danh dự và vẻ đẹp của quý vị nhưng không coi trọng phẩm cách của quý vị, thì những người này là những người mà ít được quý vị chấp nhận nhất.
Điều quan trọng nhất của con người là không nên bị những dục vọng trên thế gian này điều khiển. Dục vọng của nhân gian sẽ khiến chúng ta lạc lối trong cách đối nhân xử thế trên thế gian này, sẽ mang đến cho chúng ta rất nhiều phiền não và hoang mang. Dục vọng đôi khi giống như mật ong được pha thêm chất độc, bề ngoài thì có vẻ ngọt ngào nhưng thực chất nó đang dần ăn mòn gan của con người.
Nhiều người không có sự cảnh giác về tham muốn, bởi vì họ cảm thấy nó rất ngọt. Có tham muốn nào không làm cho con người hạnh phúc? Nhưng khi quý vị bước vào tham muốn thì khổ không thể tả. Ai cũng muốn mua nhà, khi người khác mua thì quý vị cũng muốn mua trong khi tài chính của quý vị không ổn, khi nhìn thấy ngôi nhà này, quý vị rất muốn vay tiền, một khi đã vay thì quý vị sẽ cảm thấy áp lực rất lớn. Vì vậy, trong cuộc sống, những tham muốn sẽ khiến chúng ta nảy sinh nhiều tà tư tà niệm, lòng tham của con người thực chất chính là một loại liệt căn tính (tức là thói hư tật xấu). Nhiều người nói con người có những tính xấu, thực chất những tính xấu đó là gì? Đó là lòng tham và dục vọng của chúng ta. Mỗi người đều muốn sống theo ý mình muốn, nhưng với tâm và với tham muốn của chính họ thì chúng sẽ ngày càng tăng lên, “tùy tâm sở dục”, cái loại tham muốn này sẽ mang đến cho quý vị những đau đớn và phiền não vô tận. Mọi người thử nghĩ xem, dục vọng nào mà không mang đến cho quý vị bối rối và phiền muộn? Người theo đuổi tiền, cuối cùng bị tiền làm cho cửa nát nhà tan. Người theo đuổi tình yêu thì bị tình yêu làm tổn thương. Người theo đuổi danh tiếng thì cuối cùng lại mất đi danh vọng, gây tổn hại và u sầu vô hạn cho bản thân, điều này sẽ ảnh hưởng đến cả cuộc đời họ, thậm chí khi quý vị không chiếm hữu được, thì nỗi thống khổ của quý vị còn có thể ảnh hưởng đến kiếp
sau của quý vị. Bởi vì tham muốn là vô tận, chỉ cần quý vị có dục vọng thì nó sẽ không bao giờ dừng lại, nhiều còn muốn nhiều hơn, tốt còn muốn tốt hơn, lòng tham không được thỏa mãn sẽ luôn gây ra nỗi đau nội tâm và tra tấn tinh thần. Khi một người có tham muốn thì tâm niệm người ấy chắc chắn bị ô nhiễm, có tham muốn tức là bị ô nhiễm. Con người thật đáng thương, suốt ngày họ nghĩ “Tôi muốn, tôi muốn, tôi muốn…”, suốt ngày họ nghĩ “Chỉ cần tôi mua thứ này là tôi sẽ ổn”. Chỉ cần tình cảm này có được rồi thì tôi ổn thôi.” , Trên thực tế, nó sẽ không khá hơn và sẽ không dừng lại. Mọi người đều biết phương châm của Thầy: “Vô dục tự nhiên tâm như thủy (không có dục vọng tâm tự nhiên sẽ như nước)”. Vì thế Thầy muốn mọi người đừng có dục vọng, nước chính là tâm của quý vị, tĩnh lặng như nước. Nếu quý vị không tham, quý vị sẽ không sân hận. Nếu quý vị không hận người khác, thì quý vị sẽ không làm những điều ngu si.
Là con người, chúng ta phải suy nghĩ sáng suốt và hiểu Phật lý, Phật pháp là gì, phải hiểu rằng mọi tham muốn chỉ là một cảnh giới mê hoặc nhất thời của cuộc sống, gọi là “mê cảnh”. Vì quý vị có dục vọng nên quý vị liền mê cái cảnh giới này, nó cám dỗ tâm linh phàm phu tục tử chúng ta lạc lối. Cho nên hôm nay Sư phụ nói với mọi người, dục vọng rất hại người, bởi vì tâm linh của quý vị bị lạc lối, nhiều còn muốn nhiều hơn, tốt còn muốn tốt hơn, quý vị sẽ rơi vào cảnh giới tham lam, không thể tự mình kiềm chế, cảnh giới này mang đến cho quý vị cái gọi là “khốn cảnh”. Nếu quý vị nắm bắt tốt trí tuệ, không tham muốn, và nghĩ trong lòng rằng mọi thứ trên đời đều là hư ảo, bởi vì dù quý vị có bao nhiêu hạnh phúc thì nó cũng sẽ biến mất, dù quý vị có hưởng thụ bao nhiêu thì cuối cùng nó cũng sẽ rời bỏ quý vị mà đi. Nhìn những gì trước mắt, quý vị cảm thấy rất hài lòng và luôn vui vẻ thì quý vị sẽ không bị cám dỗ bởi những tham muốn.
Vì vậy, khi sống ở thế gian, chúng ta không nên bị ô nhiễm bởi những tham muốn trần thế, chúng ta phải luôn nhớ tâm ban đầu khi vừa học Phật tu tâm, tâm ban đầu rất quan trọng, “Bất vong sơ tâm, phương đắc thủy chung {Không quên
đi tâm nguyện ban đầu, mới có thể có phương hướng đi từ đầu đến cuối}.” Cũng như một ông già tuy đã già nhưng trong tâm hồn ông luôn nghĩ đến những hoài bão, hy vọng thuở còn trẻ, đây chính là cội nguồn duy trì cuộc sống của ông. Có một số người nhập thế đã lâu, ở nhân gian này nhìn thấy người khác đều là tham sân si mạn nghi, rồi bản thân lại chịu những thất bại, và chính mình trải qua gian nan khốn khổ, dần dần trong tâm họ bị ô nhiễm, tính cách của họ trở nên xấu xa. Tham luyến hồng trần, làm cho tính cách vốn vô cùng thẳng thắn của mình trở nên càng ngày càng giả dối, không dám nói thật nữa. Vì muốn làm cho nhân duyên của mình trở nên tốt hơn, họ hoàn toàn trở thành một con người giả tạo, giả nhân thì sẽ giả ý, giả tâm sẽ trở thành giả nhân, con người trở nên không thản nhiên, không thẳng thắn, họ sẽ sống trong một thế giới mà họ biết đó là sự thật, nhưng họ sẽ nói nó sai, rõ ràng là sai họ sẽ bóp méo tâm lý của mình để gánh chịu những thất bại của thế gian. Đây là lý do tại sao việc chuyển đổi tâm con người hiện nay lại rất quan trọng.
Trong cuộc sống, nhiều người luôn cho rằng “môi trường xã hội đã làm ảnh hưởng đến mình”, nhiều người nói: “Thật ra tôi khá tốt. Môi trường xã hội là thế, ai cũng thế, người khác thế nào, người khác ra sao v.v.. “Thực ra từ giới Phật pháp mà nói, hoàn cảnh không thể ảnh hưởng đến chúng ta, và môi trường không thể làm chúng ta ảnh hưởng được, là vì sự tu dưỡng, thành tựu và nền tảng của chính quý vị chưa đủ. Chính tinh thần của chính quý vị đã rời khỏi quá xa xa vời với cảnh giới của Bồ Tát, cho nên quý vị mới bị cảnh giới xoay chuyển. Nếu tinh thần của chúng ta sống trong cảnh giới của chư Phật, chư Bồ Tát thì dù thời đại hay môi trường có phức tạp đến đâu, thì “Khôi khôi hồ kì ư du nhận tất hữu dư địa hĩ”, nghĩa là con người sẽ không bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh bên ngoài. Đây là điều mà Phật gia chúng ta nói là “như như bất động”, và đây là điều mà Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo nói về sự tu dưỡng và tâm ban đầu vốn có của một người. Trạng thái tâm lý ban đầu (ai cũng có trạng thái tâm lý ban đầu) là khi con người ở trạng thái thuần khiết nhất, chưa bị ô nhiễm bởi
thế giới bên ngoài, tâm con người đều quang minh lỗi lạc, thẳng thắn thuần khiết, có được một trái tim Phật, tốt đẹp biết dường nào. Đây chính là điều mà đạo gia Lão Tử nói “Như trẻ con hồ”, một người thuần khiết như trẻ con. Đài trưởng tin rằng nhiều người rất thích trẻ sơ sinh, vì trẻ sơ sinh rất trong sáng nên mới nói trong sáng như trẻ sơ sinh.
Dù một người là tu sĩ hay cư sĩ, con đường tu hành đều bắt đầu từ phàm phu tu lên và tu đến thành Đạo thành Phật. Rất nhiều người trong chúng ta bắt đầu từ phàm phu tục tử chuyển biến cảnh giới, để thoát khỏi sự nhiễm ô của thế giới phàm trần.
Học Phật không phải là điều dễ dàng, “học Phật một năm, Phật ở ngay trước mắt. Học Phật hai năm, Phật ở chân trời. Học Phật ba năm, ỷ vào Phật bán lấy tiền”, càng tu càng xa. Tại sao? Bởi vì chúng ta không thể duy trì được cái tâm vĩnh cửu ban đầu. Bởi vì tâm niệm của chúng ta phải thanh tịnh mới có thể thành Phật. Vậy tại sao Sư phụ lại nghiêm khắc với các vị như vậy? Chính là muốn các vị giữ vững trái tim thuần khiết. Người xuất gia phải thuần khiết như trẻ con, người không xuất gia cũng phải thuần khiết như trẻ con, lúc này quý vị dư sức để thành Phật. Đừng nghĩ rằng mình không thể thành Phật. Nhiều người thường nói: “Thành Phật rất khó, Phật cách chúng ta rất xa”, thật ra người nói “Phật cách chúng ta rất xa”, là bởi vì tâm họ đã rời xa Phật rất xa rồi. Có người nói: “Phật ở bên cạnh chúng ta, sao gần đây tôi cảm giác Phật ở ngay bên cạnh? Ngài đang kiểm soát chúng ta”. Quý vị đã thành công rồi, bởi vì nếu Phật cách quý vị càng ngày càng gần, thần Hộ Pháp cách quý vị càng ngày càng gần, thì Bồ Tát sẽ cách quý vị càng ngày càng gần và cơ duyên thành Phật của quý vị ngày càng gần hơn. Nếu quý vị là một người suốt ngày không có ai quan tâm, và suốt ngày cảm thấy: “Khi nào tôi mới tu thành? Khi nào tôi mới có thể đến thế giới Tây Phương Cực Lạc và thế giới Tâm Linh Tịnh Thổ đây?” Lúc này tâm của quý vị đã thật sự rời khỏi Phật rồi.
Vì vậy, kinh Phật nói rằng, sơ phát tâm (Cái tâm mới phát cầu đạo Bồ Đề) chính là thành Chánh đẳng Chánh giác. Mọi người thử nghĩ xem, sơ phát tâm chính là bổn tánh của mình, khi quý vị vừa mới bắt đầu tu tập thì tâm ấy đã trở thành tâm quang minh chánh giác. Phật nói như vậy là để cho chúng ta biết rằng con người có thể nhìn thấy sự việc một cách rõ ràng nhất qua những ý nghĩ đầu tiên, khi mới bắt đầu học Phật, chúng ta có thể nhìn thấy vấn đề một cách rõ ràng nhất, nếu chúng ta thấy rõ con đường và phương hướng thì sẽ thành tựu được Bồ Đề và trong tâm có Phật, tiếp theo đó dần dần có được tâm Bồ Đề, tiếp tục tu thì quý vị có thể tu thành Phật đạo. Cái tâm xuất gia lúc ban đầu, cái tâm muốn một kiếp tu thành đó, cái tâm muốn lìa khổ được vui, chính là cái tâm cầu Phật đó, tâm ấy mới là tâm Như Lai chân thành vĩnh hằng – là tâm nguyên thủy
– Khi chúng ta tu tập càng về sau, con người càng trở nên lười biếng và vô trách nhiệm, mọi việc đều đổ lỗi cho người khác, khi gặp chuyện không tốt, tất cả đều là do người ta khiến tôi làm như vậy, và tìm ra hàng nghìn lý do, hàng vạn lý do. Ngay cả khi quý vị có những tạp niệm về cha mẹ hoặc thế hệ sau của mình – quý vị luôn cảm thấy mình đúng còn người khác sai – ngay cả tâm ban đầu cũng không có nên quý vị càng ngày càng rời xa Chánh đẳng Chánh giác. Kỳ thực chúng ta đối nhân xử thế cũng vậy, có nhiều người khi mới bắt đầu nào là khấu đầu, nào là lạy bái Bồ Tát, sau vài năm thì tâm ban đầu không còn nữa, tâm cung kính cũng không còn nữa. Đối với Sư phụ cũng vậy, khi mới tới đây, cung kính vô cùng, nhưng càng về sau càng trở nên bất kính, tâm cung kính không còn nữa. Là người học Phật, chúng ta nên “niệm niệm trong Bồ Đề”, dù sống một năm cho đến mấy mươi năm đều là “niệm niệm trong Bồ Đề”, cần phải như như bất động và có Phật trong tâm. Tư tưởng đầu tiên và căn bản nhất trong việc học Phật đó chính là sơ tâm (tâm ban đầu).
Sư Phụ muốn mọi người đừng quên tâm ban đầu của mình, đó là niệm đầu tiên và là niệm cuối cùng của quý vị. Bất kể quý vị làm gì, quý vị không được có sự khởi đầu mà không có sự kết thúc, phải có đầu có cuối. Học Phật càng về sau,
không được sửa đi, vứt bỏ hay không tìm được tâm của một niệm thiện và một niệm thành Phật ban đầu, bằng không quý vị sẽ không bao giờ có được nền tảng để học Phật.
Sư Phụ nói với mọi người: “Học Phật như sơ, thành Phật hữu dư”. Một người dù học Phật bao nhiêu năm cũng như tâm ban đầu của mình, thì nhất định sẽ dư sức thành Phật. Người xuất gia nên “Xuất gia như sơ, thành Phật hữu dư”. Người cư sĩ tại gia nên “Tu tâm như sơ, thành Phật hữu dư”. Nghĩa là, dù bao nhiêu năm đi nữa, chúng ta cũng phải chân thành như lần đầu tụng kinh, cảm động như lần đầu lễ Phật, nếu có tâm này thì quý vị đã sớm tu thành rồi. Sự quyết tâm chân thành không thể diễn tả bằng lời. Nhiều người tu tâm tu càng về sau, họ thành tâm quỳ trước Bồ Tát, đó là một trái tim trí tuệ vô thượng Bồ Đề. Không cần phải nói nhiều với Bồ Tát. Chỉ khi trong lòng quý vị tràn đầy sự biết ơn thì quý vị mới có thể “Thành Phật hữu dư”.
73. Sơ chánh tắc chung chánh
Tập 73
SƠ CHÁNH TẮC CHUNG CHÁNH
(20/05/2020)
Trong rất nhiều kinh văn có nói, Bồ Tát lúc mới phát tâm liền thành Chánh đẳng Chánh giác. Nói cách khác, khi quý vị phát nguyện này và chuẩn bị học Phật, thì loại năng lượng này vô cùng mạnh mẽ. Nói theo cách hiện tại, chính là khi mới bắt đầu, lòng quyết tâm của quý vị là không thể ngăn cản. Nhưng khi quý vị làm sai điều gì đó, có thể quý vị sẽ nghĩ: “Không dễ như vậy. Có thể do suy nghĩ ban đầu của tôi có sai sót và tôi đã phát nguyện quá mức rồi. Bây giờ tôi có thể phát lại được không?” Đây chính là sự lười biếng của nhiều người. Nhiều người không có nguyện lực để tiến về phía trước, đó là lý do tại sao một số người tu tập ngày càng kém đi. Bởi vì quý vị chưa thể khống chế được những phiền não, những thất bại và tất cả những sai lầm trên nhân gian, cũng như quý vị chưa sử dụng tâm ban đầu của mình để vượt qua những tâm phiền não và khó khăn này. Có rất nhiều người ở thế gian khi làm việc, thì làm một nửa bỏ một nửa, nói một đằng làm một nẻo, dần dần đánh mất đi bổn tánh của bản thân.
Học Phật không chỉ là qua loa sơ sài, người học Phật là phải chuyên tâm đi sâu vào đó, người học Phật phải kiên nhẫn, bởi vì Phật có thể thông tất cả trí huệ, triệt vạn pháp nguyên {thấu suốt mọi nguồn pháp}, Bồ Tát có thể thông suốt tất cả trí tuệ. Nếu quý vị nghĩ không thông, vẫn còn đau khổ, vẫn còn phiền não, vẫn còn vướng mắc, là quý vị đã rời khỏi tất cả trí tuệ rồi. Bồ Tát có trí tuệ ở khắp mọi nơi, mọi phiền não trên thế gian đối với Bồ Tát mà nói, đều có trí tuệ để giải quyết nó. Nếu hôm nay quý vị không giải quyết được phiền não này thì phiền não của quý vị sẽ càng tăng lên, quý vị sẽ không thể “thông đạt nhất thiết trí, triệt vạn pháp nguyên”. Thế nào là “triệt vạn pháp nguyên”? Hoàn toàn hiểu rõ nguồn gốc của tất cả các pháp đều từ đâu đến. Học Phật phải dựa vào trí tuệ mới có thể hiểu rõ căn nguyên vạn pháp, chúng ta học Pháp, học Phật đều có căn nguyên. Làm sao quý vị lại học Phật? Mỗi người đều có căn nguyên. Một số người nói rằng họ học Phật vì cha hoặc mẹ họ sức khỏe kém, hoặc là bản thân đã từng bị tổn thương về mặt tình cảm v.v.. Khi đó, họ hạ quyết tâm: “Tôi muốn
thay đổi bản thân mình thật tốt, tôi không thể suy đồi nữa, không thể buông lơi nữa, không thể lãng phí cuộc đời nữa, tôi phải tìm một phương pháp giải thoát.” Nếu quý vị nhớ “vạn pháp chi nguyên”{nguồn gốc của vạn pháp} này và tại sao quý vị học Phật, thì quý vị sẽ có được khởi đầu và kết thúc.
Người học phật không thể có bắt đầu mà không có kết thúc. Một người học càng về sau không thể quay về cội nguyên, thì không thể thông suốt. Học càng về sau phải hiểu được Bồ Tát bảo chúng ta làm cái gì, phải học được cái gì gọi là thông suốt. Thời điểm khó khăn nhất để học Phật thực ra là lúc mới bắt đầu, cảnh giới lúc bắt đầu nhất định là cảnh giới cao nhất, sau đó mới từ từ tụt dốc. Bởi vì khi quý vị bắt đầu phát đại nguyện, bản chất xấu xa của quý vị sẽ lộ diện, những phiền não, tâm thù hận của quý vị sẽ tự nhiên lộ ra, tiếp đó quý vị sẽ gặp khó khăn và bỏ cuộc. Cũng giống như hôn nhân của con người: người chưa lập gia đình rất muốn có gia đình và kết hôn, nhưng sau khi kết hôn, nghiệp chướng đến, phiền não không ngừng, và sự ích kỷ khiến hôn nhân tan vỡ. Trong Phật giáo có một câu nói gọi là “Sơ chính tắc chung tu”, chúng ta phải hiểu được sơ tâm {tâm ban đầu} học Phật vô cùng quan trọng, sơ tâm rất chính (tức là phát tâm của quý vị rất chính), tắc chung tu (cuối cùng quý vị sẽ tu thành Phật đạo), tức là phải dựa vào sự kiên trì. Ý nghĩa của câu “Sơ chính tắc chung tu” là: bởi vì tâm ban đầu của quý vị rất chính, thì cuối cùng quý vị nhất định sẽ tu thành. Như vậy tu thành dựa vào cái gì? Chính là dựa vào sự kiên trì của quý vị, với sự kiên trì quý vị có thể tiếp tục giữ vững tâm ban đầu của mình đến cùng, sẽ không lùi bước hay lười biếng.
Học Phật tu tâm, chúng ta làm người cần nói đến đạo đức, nói đến phẩm hạnh, đây chính là điều Phật pháp đề xướng: “chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” {Không làm các việc ác, nên làm các điều lành}. Những người có phẩm đức tốt họ không làm các việc ác, những người có đạo đức tốt họ làm các điều lành. Vì vậy, một người học Phật tốt thì nhất định có nền tảng tốt. Một người học Phật không tốt thì nhất định có nền tảng kém và thiếu nền tảng thiện lương.
Trong cuộc sống hàng ngày, nếu người này luôn rất thiện lương, thì một ngày nào đó họ sẽ thông suốt, sẽ học Phật và sẽ nhập môn. Một người bình thường rất tinh ranh và sắc sảo thì làm sao có thể học tốt Phật pháp? Ngay cả lòng từ bi và thiện lương tối thiểu của họ cũng không đủ.
Phật giáo có rất nhiều pháp môn, có Thiên Thai Tông, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông… Có Mật Tông, có Hiển Giáo, không phải tông phái nào, giáo phái nào cũng cần phải nghiên cứu, hiểu rõ và quen thuộc. Trên thực tế, nhiều người cái gì cũng biết một chút nhưng cuối cùng họ sẽ chẳng đạt được gì, cả đời không thành được chuyên gia, hơn nữa còn có khả năng đi rất nhiều con đường oan uổng. Cái gì cũng cảm thấy tốt, cái gì cũng muốn học, cuối cùng người khác đã học thành rồi, mà họ vẫn còn học. Mỗi người đều có duyên phận học Phật của họ, mỗi người đều có đạo lý thành Phật của họ, nếu đem hoàn cảnh và điều kiện của mỗi người toàn bộ dùng tâm niệm của chính mình để tiếp nhận, thì dần dần theo thời gian, quý vị vẫn còn học, còn người khác đã sớm thành Phật rồi.
Thật sự hiểu được Phật pháp, “Tu tuyệt tha nhật vọng tưởng”, nghĩa là nhất định phải đoạn tuyệt vọng tưởng của quá khứ. Chính là nói cho chúng ta biết, những ảo tưởng trước đây, những mê hoặc trước kia, những hiểu biết khác nhau về Phật pháp trong quá khứ, khiến cho chúng ta có rất nhiều nghĩ không thông, học được rất nhiều, và cuối cùng trong mê hoặc điên đảo, ngay cả bổn tánh và tu dưỡng cơ bản của con người cũng không thể sửa được. Nhiều người tu tập cả ngày, nhưng tu đến về sau, họ dần dần mất đi sự quan tâm và từ bi đối với người khác.
Phật pháp nói “Cần tu thanh tịnh Ba-la-mật”, nói cách khác, người tu tâm phải tinh tấn mà tu hành, thì trong tâm mới có thể thanh tịnh, đây chính là trí huệ sinh khởi. Người có trí huệ sẽ không bị mất đi Bồ-đề tâm – “Hằng bất vong thất Bồ-đề tâm”, người có Bồ-đề tâm chỉ muốn đi giúp đỡ người khác. Tu càng về sau, xuất hiện nhiều người có tâm muốn đi giúp đỡ người khác, tức là họ đang
trong quá trình chứng ngộ. “Diệt trừ chướng cấu vô dư”, chúng ta phải tiêu diệt nghiệp chướng và dơ bẩn trong nội tâm mình. Tu tâm thì có tu nội và tu ngoại đều đáng được chú ý, tuy nhiên nếu tu ngoại mà không tu nội thì không có cách nào tiêu trừ được nghiệp chướng và dơ bẩn trong tâm, sẽ không có cách nào đạt được thiện quả. “Tất cả diệu hạnh giai thành tựu”, phàm là hết thảy diệu pháp – tức là diệu pháp đi cứu độ người khác – đều sẽ sinh ra quả báo thiện lương. “Cần tu thanh tịnh Ba-la-mật, hằng bất vong thất Bồ-đề tâm, diệt trừ chướng cấu với hữu dư, hết thảy diệu hành giai thành tựu”. Điều này có nghĩa là để chúng ta biết cách tu hành tinh tấn, và chỉ tinh tấn để tu tâm thanh tịnh của chính mình, thì mới có thể đạt tới trí huệ viên mãn của tâm Bát-nhã. Làm sao con người có thể có được trí tuệ? Có được nhờ siêng năng tu hành. Nhìn chỗ này ngó chỗ kia, tâm tán, tâm loạn, cái gì cũng hiểu được một chút, nhưng rốt cuộc chẳng hiểu gì cả.
Dùng sự kiên trì, đừng quên tâm ban đầu, trong tâm ban đầu phát khởi có tâm Bồ-đề ở trong đó. Khi mọi người bắt đầu cầu xin Bồ Tát, “Con muốn tìm Phật pháp, con muốn cứu cha con”, “con muốn cứu mẹ con”, “Cứu em gái con”, “Cứu em trai con”, tất cả đều là khởi nguyên của Bồ-đề tâm. Chúng ta không thể quên tâm ban đầu, đó là bảo chúng ta đừng quên Bồ-đề tâm của mình. Khi tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình, chúng ta không được chừa một chỗ nào, không được chừa một chỗ nào trong tâm mà bụi bẩn và chướng ngại tà ác có thể ẩn náu. Nhiều người nói: “Tôi nói chuyện rất thẳng thắn”, họ rất vui vẻ, nghe lời họ nói như một bát nước nhìn thấy tận đáy. Còn có một số người thích đem nghiệp chướng, phiền não của mình giấu sâu trong lòng, để rồi làm tổn thương chính mình, làm cho bản thân không thoải mái sẽ khiến họ không thể quên được và khiến họ xa rời Bồ-đề tâm. Vì vậy, “Hết thảy diệu hành giai thành tựu” chính là Bồ-đề tâm và Bồ-đề tâm chính là một trái tim phổ độ chúng sinh. Tu tâm tu càng về sau, nếu không có phát rộng Bồ-đề tâm, không có tâm niệm cứu độ chúng sinh, thì quý vị sẽ mất đi Bồ-đề tâm và quý vị chỉ là một hành giả tự tu
hành cho chính mình. Bởi vì chỉ có nghĩ đến việc cứu độ chúng sinh thì chúng ta mới có thể tìm kiếm chứng thực được nguồn gốc sinh diệt bổn nguyên của vũ trụ và mới có thể biết được không gian vũ trụ này rốt cuộc là duyên phận gì. Tu đến về sau sẽ biết được, chúng sinh đều là người thân, ngay cả cá phóng sinh cũng có thể từng là người thân của mình. Tất cả sinh linh dưới đao mà quý vị cứu, tất cả đều có thể là cội nguồn của quý vị, đều có quan hệ thân thích với quý vị, chỉ là quý vị không biết điều đó.
Hãy chăm sóc tốt lòng từ bi của chính mình. Quý vị có lòng từ bi không? Thấy người ta khổ rồi, quý vị có cảm thấy buồn không? Thấy người khác khóc rồi, quý vị có rơi lệ không? Con người thời nay nhìn thấy người khác khóc thì họ cười. Thấy người khác đau khổ, thì “đáng đời”. Nhìn thấy nhà người ta bị cháy, thì “tốt nhất là cháy hết đi” và vô cùng vui mừng. Đây là tâm của con người bây giờ – rời xa bi tâm – Tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi, nhân thương ngã thống, vô duyên đại bi? Quán Thế Âm Bồ Tát không có duyên phận với chúng ta, nhưng lại có túc duyên, cho nên Quán Thế Âm Bồ Tát có thể sinh ra nghìn tay nghìn mắt và tâm bi mẫn cứu độ tất cả chúng sinh. Kỳ thật mỗi một mắt, mỗi một tay, chính là tâm từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, chính là tác thành cho trái tim đại bi cứu độ chúng sinh này của chúng ta.
Người học Phật nên thường khởi tâm hổ thẹn và tâm sám hối, bởi vì tâm sám hối và tâm hổ thẹn có thể giúp quý vị sinh ra trí tuệ Bát Nhã. Người thường có thể rơi nước mắt là một người từ bi, họ còn khóc được, chứng tỏ họ còn có tâm từ bi. Quý vị đi xem rất nhiều tội phạm giết người, đem họ đi xử bắn, họ cũng không rơi nước mắt, cho dù gặp mặt mẫu thân lần cuối, họ cũng không rơi nước mắt, họ không có bi tâm. Mà chúng ta phải hiểu được, từ bi là cảnh giới của Bồ Tát, là tâm ban đầu của chúng ta. Trách nhiệm của chúng ta là bảo vệ bản tâm vốn có thể phát khởi tâm Bát Nhã mỗi ngày. Trì tụng Tâm Kinh mỗi ngày sẽ làm cho tâm của quý vị ngày càng trở nên bi mẫn hơn.
Một người luôn cảm thấy công việc của mình không làm tốt, luôn cảm thấy có lỗi với người khác, luôn cảm thấy đã từng tổn thương người khác trong quá khứ, nếu có loại tâm này, thì người này sẽ không lười biếng. Nếu cống cao ngã mạn, luôn cảm thấy người khác không bằng mình, sẽ không có quá nhiều tâm bi mẫn. Hãy luôn biết ơn và luôn sám hối, đó là báu vật. Bởi vì quý vị thường sinh khởi sám hối, người khác sẽ từ bi, cảm thông cho quý vị. Người hay làm điều ác và hay bắt nạt người khác, nhất định là một người cống cao ngã mạn. Trong Phật pháp nói, nếu có thể luôn giữ được tâm sám hối cùng tâm hổ thẹn, thì nhất định có thể tinh tấn tu hành, đạt được tinh tấn Ba-la-mật, đạo tâm của quý vị không quên Ba-la-mật, tức là trong quá trình tu tâm, sẽ không quên bổn nguyên của mình.
Tâm của một người thanh tịnh, chính là tư lương thông tới tâm đại Bồ-đề. Sư phụ muốn các vị trở nên càng ngày càng sạch sẽ, không nên lưu lại bất kì tạp niệm nào trong nội tâm của mình, thì mới có thể siêu thoát khỏi ngũ dục lục trần này. Thanh tịnh sẽ làm cho quý vị sinh khởi sơ phát tâm, sơ phát tâm chính là tâm Chánh đẳng Chánh giác. Nếu như một người có được tâm Chánh đẳng Chánh giác và có được sơ phát tâm, thì họ mới có thể hiểu được làm thế nào ở nhân gian tự độ độ tha, làm thế nào để cho mình siêu thoát khỏi cảnh giới phàm nhân và nhập vào cảnh giới Chánh đẳng Chánh giác của Bồ Tát .
74. Diệt tận phiền não của tam giới
Tập 74
DIỆT TẬN PHIỀN NÃO CỦA TAM GIỚI
(20/05/2020)
Hôm nay Đài trưởng sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện. Cuộc đời một con người thực ra được giải thích bằng rất nhiều câu chuyện.
Đời người của chúng ta là một sự đan xen giữa ưu và khuyết điểm (công quá tương tạp), bởi vì chúng ta vừa làm rất nhiều việc thiện, nhưng cũng lại làm rất nhiều việc ác. Tại sao trong mỗi người chúng ta lại có bi hoan ly hợp và khổ lạc? Trên thực tế chính là bởi vì sự đan xen giữa ưu và khuyết này. Nói cách khác, kiếp trước, kiếp này của quý vị đã làm rất nhiều chuyện thiện và cũng đã làm rất nhiều chuyện ác, cho nên kiếp này quý vị sẽ nhận được rất nhiều ác báo và cũng sẽ nhận được rất nhiều hạnh phúc, ưu khuyết điểm này không thể triệt tiêu lẫn nhau bởi đó đều là quả báo của các ác nghiệp và thiện nghiệp do chính bản thân quý vị tạo ra. Đó hoàn toàn không phải chỉ là một loại nhân duyên, mà là các loại nghiệp duyên tụ tập – bao gồm thiện duyên, ác duyên, đố kỵ duyên v.v.. Có một số người thì thích đố kỵ với người khác, vậy thì đó là đố kỵ duyên. Có người thì thích hận người khác, sinh ra liền hận, hận đến lúc lâm chung cũng hận, cho nên loại người này gọi là hận duyên, đủ các loại nghiệp duyên tụ tập.
Sau đây có một câu chuyện. Lúc bấy giờ Đức Phật đang ở thành Xá Vệ, lúc ấy thành Xá Vệ do quốc vương Thắng Quang cai trị, Lộc Dã Uyển do quốc vương Phạm Thí chấp chính. Do một số mâu thuẫn, hai nước bắt đầu giao tranh, hai bên đều chịu thương vong nặng nề, khiến cho thiện duyên của 2 quốc gia nghèo này ngày càng ít đi.
Có một lần, quốc vương Phạm Thí chỉ huy xe, ngựa, voi và còn có bộ (tức là quân đội) tiến binh đến thành Xá Vệ, dựng trại bên bờ sông Khang Đan. Sau khi dựng trại không lâu, quốc vương Thắng Quang liền nghe được tin, biết bọn họ sắp đến đánh nhau, nên lập tức dẫn đội quân tinh nhuệ của mình ra đón giặc. Hai bên thực lực ngang nhau, nên giằng co quyết liệt để chia rẽ nhau và vẫn trong thế bế tắc.
Lúc này, vương phi của quốc vương Phạm Thí đã hạ sinh một cô con gái rất đoan trang, cả cung điện tràn ngập tiếng trống và âm nhạc để chào mừng sự ra đời của cô công chúa này. Quốc vương Thắng Quang sau khi biết được việc này, thầm nghĩ: “Chúng ta cùng nước Phạm giao chiến lâu như vậy, tiền đồ cũng không lạc quan, hai bên đều lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan, chi cho bằng mượn cô con gái này để hòa thân {hòa hiếu kết giao}, làm dịu mối quan hệ giữa hai nước”. Sau khi quyết định như thế, bọn họ liền phái sứ giả đến nước Phạm Thí để cầu hôn, cầu xin quốc vương Phạm Thí gả công chúa vừa hạ sinh của họ cho quốc vương Thắng Quang làm vương phi. Thời xưa, chỉ cần sinh con ra, là có thể hứa gả cho người khác. Ngày xưa còn có một thứ gọi là “chỉ phúc vi hôn”, khi chưa sinh ra là đã nói: “Nếu đứa trẻ này sinh ra là nam, thì cưới con gái tôi; nếu là nữ, thì gả con trai tôi”.
Quốc vương Phạm Thí sau khi biết được ý đồ của quốc vương Thắng Quang, vừa đúng lúc muốn tìm đường thoái lui, thầm nghĩ: “Hai nước giao chiến cho đến nay, cả địch và ta đều tổn thất nặng nề, vì hắn đã đề xuất đến mối quan hệ hôn nhân, không chiến mà hòa, điều đó hoàn toàn phù hợp với ý của ta, mọi người coi như bỏ qua”. Sau đó ông liền nói với sứ giả, ông rất sẵn lòng hòa thân với quốc vương Thắng Quang. Từ đó hai bên biến chiến tranh thành tơ lụa, trở thành các nước láng giềng thân thiện.
Quốc vương Phạm Thí cử hành nghi thức ra đời long trọng cho cô công chúa, khi đặt tên cho cô, vì sự ra đời của cô khiến chiến tranh lắng dịu, cả nước được thái bình nên ông đặt tên cho cô là “An Ninh Mẫu”, và nuôi lớn cô bằng sữa bò, sữa chua, bánh rán. Không lâu sau, vương phi của quốc vương Phạm Thí lại sinh ra một cậu bé khác, tướng mạo của cậu bé cũng vô cùng trang nghiêm, họ liền đặt tên cho cậu bé này là “An Ninh”, cũng dùng sữa bò, sữa chua, bánh rán nuôi nấng cậu bé. Vị hoàng tử này lớn nhanh như hoa sen. Không ngờ hai anh em lại thân nhau đến mức tưởng chừng như không muốn rời xa dù chỉ một giây.
An Ninh Mẫu đã trưởng thành, lúc này quốc vương Thắng Quang chuẩn bị cưới nàng về nước, ông đặc biệt phái người đến để thỉnh cầu quốc vương Phạm Thí. Quốc vương Phạm Thí nói: “Nếu quốc vương Thắng Quang đã có tâm ý này, chúng ta hãy chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức hôn lễ”. Sau đó dựa theo ngày đã chọn, quốc vương Thắng Quang tự mình đến Lộc Dã Uyển nghênh đón An Ninh Mẫu, sau khi trở lại thành Xá Vệ, hôn lễ long trọng được tổ chức theo phong tục nước nhà.
Người em trai An Ninh vì tìm không thấy chị gái của mình, liền hỏi cha mẹ: “Chị gái đi đâu rồi?” quốc vương Phạm Thí nói: “Chị gái đã đi đến chỗ quốc vương Thắng Quang rồi”. Người em trai liền làm ầm lên: “Không, con cũng muốn đi”.
Cha mẹ nói với cậu ta: “Chị con đã lập gia đình rồi, chị ấy kết hôn, con đi theo làm gì? Con là hoàng tử của cha, sau này phải kế thừa kế ngai vàng, lo liệu quốc chính, con không thể đi được”. Mặc dù khuyên can nhiều lần, nhưng cậu bé này ngày nào cũng làm ầm lên, nhất định phải đến chỗ chị gái.
Sau đó quốc vương Thắng Quang liền nói với quốc vương Phạm Thí: “Để An Ninh đến đây đi, ta có thể đối đãi với hai chị em cô ấy như nhau”. Quốc vương Phạm Thí bất đắc dĩ, đành phải đưa con trai của mình đến thành Xá Vệ, cùng chị gái đoàn tụ.
Quốc vương Thắng Quang liền dạy An Ninh cách thành thạo nhiều kỹ năng khác nhau như cưỡi ngựa và bắn cung. Nhưng rồi không ngờ cậu bé An Ninh lại trở nên xấu tính và làm hơn trăm việc phi pháp, chẳng hạn như thường xuyên vào nhà chứa. Lúc này, An Ninh Mẫu và quốc vương Thắng Quang đã nhiều lần cố gắng thuyết phục người em đừng làm như vậy, nhưng đều vô ích. Không còn cách nào khác, họ đành phải phái người nói cho quốc vương Phạm Thí về hành vi xấu của An Ninh.
Quốc vương Phạm Thí năm lần bảy lượt gọi đứa con trai này trở về và nói với con rằng: “Con đừng buông thả bản thân như vậy. Là một hoàng tử, con sẽ kế vị ngai vàng và lo liệu quốc chính”. Nhưng An Ninh phàm không muốn hồi cung, cũng không nghe phụ vương dạy bảo, vẫn khư khư cố chấp. Sau đó quốc vương Phạm Thí đành phải tuyên bố từ bỏ mối quan hệ cha con với cậu ta. Tiếp đó, cậu ta đã bị quốc vương Thắng Quang đuổi ra khỏi cung điện vì hành vi cực kỳ trái pháp luật của mình. Thân vô y xứ (nghĩa là không có nơi nào để đi), cậu ta sống lăn lộn ở chợ, thực tế là lang thang khắp nơi.
Một ngày nọ, cậu ta trở lại hoàng cung, muốn tiến cung thăm chị gái của mình, nhưng bất luận như thế nào vệ sĩ cũng không cho vào cung. Cậu ta sinh khởi lòng căm hận tột cùng, nhìn vào trong cung mà không nói một lời nào, thấy chị gái đang cùng quốc vương Thắng Quang chơi tỳ bà trên ban công. Lúc này, An Ninh nổi lên sát tâm, hắn cầm lấy cung tên, giương cung bắn về phía quốc vương Thắng Quang. Nhưng vì quá xa, nên hắn chỉ bắn đứt dây đàn, chiếc đàn tỳ bà rơi xuống đất, và quốc vương hoảng sợ quay người bỏ chạy.
Quốc vương Thắng Quang phẫn nộ tột độ, thầm nghĩ: “Tên An Ninh này, hắn lại muốn giết ta? Ta phải giết hắn ngay lập tức! Nhưng dù sao hắn cũng là hoàng tử của quốc vương Phạm Thí, giết hắn e rằng quốc vương Phạm Thí không vui”. Ông suy đi nghĩ lại và nảy sinh ý định: “Phải kết tội hắn trước tòa và xử tử hắn”.
Trong nước Thắng Quang có hội nghị biện luận, thực ra là triệu tập mọi người đến họp, có một quy định: đối với những cuộc biện luận nhỏ, thổi hai con ốc biển để tập hợp đám đông (quốc gia trước đây rất nhỏ, nói như bây giờ thì nó là một tiểu bang). Đại biện luận chẳng những phải thổi ốc biển, còn phải đánh trống lớn. Lúc bấy giờ, quốc vương liền sai người của mình thổi ốc biển, đánh trống lớn, tập trung các đại thần và tất cả quan viên của thành Xá Vệ, đem An Ninh đến biện luận với quốc vương. Nói theo thời bây giờ, kỳ thực là để hắn có
câu bào chữa trước khi bị tuyên án. Rất nhiều người dân đã đến. An Ninh cuối cùng thua cuộc vì vi phạm hơn trăm điều luật. Theo lệ của đất nước lúc bấy giờ, hắn phải đeo một vòng hoa quanh cổ, chỉ cần hắn đeo vòng hoa này quanh cổ có nghĩa là hắn đã bị phán cực hình (tử hình), sau đó được giao cho đao phủ và sẽ bị dẫn đi diễu hành trên đường phố.
Lúc này, An Ninh mới cảm thấy hành vi của mình không đúng, và cảm thấy vô cùng hối hận. Hắn một mình kêu rên: “Trên đời này ai có thể đến cứu tôi!” Khi đó hắn mới biết mình sắp chết và vô cùng đau khổ.
Thích Ca Như Lai có đầy đủ vô lượng công đức cùng đại bi tâm, thời thời khắc khắc quan sát nhân duyên khổ lạc của tất cả chúng sinh. Bởi vì Đức Phật có thể quan sát thế giới và Ngài thường xuyên ngồi ở đó thiền định nên Ngài thực sự thấy được mọi sự việc đang diễn ra, Ngài có thể nhìn thấy nhân duyên khổ lạc. Tại sao lại như vậy? Lòng bi mẫn của Phật đối với chúng sinh, là trong phút chốc cũng sẽ không rời đi. Cho nên người học Phật phải biết, chỉ cần cầu Phật, cầu Bồ Tát, cầu Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu Đức Phật vĩ đại, cầu tất cả Bồ Tát, tâm đại từ đại bi của Bồ Tát trong phút chốc đều không rời khỏi chúng ta, cho nên mọi người phải học cách cầu Bồ Tát. Đức Thế Tôn (Thích Ca Mâu Ni Phật) lúc đó liền quan sát và biết được, cơ duyên điều hóa An Ninh đã chín muồi, liền nói với các đệ tử: “Các đệ tử, chúng ta đắp y cầm bát vào trong thành hóa duyên thôi”. Đức Phật biết chuyện này đã xảy ra, Ngài liền bảo các đệ tử theo cùng đi hóa duyên với Ngài.
Đức Phật đang đi về phía trước, An Ninh đang diễu hành trên đường phố đã nhìn thấy Đức Phật từ xa. Vừa nhìn thấy Đức Phật liền sinh lòng hoan hỷ rất lớn (vậy nên chúng ta thấy pháp sư phải sinh khởi tâm hoan hỷ, bởi vì nơi nào có pháp sư v.v.. cũng giống như khi nhìn thấy Sư phụ vậy, nơi nào có Sư phụ đến sẽ có hỉ sự, sẽ có năng lượng tích cực tốt đến, vui vẻ vô cùng), sau đó lập tức tiến lên cung kính đảnh lễ, hắn quỳ ở đó và khẩn cầu Thế Tôn: “Bạch Đức Phật
từ bi, Ngài có thể cho con thêm một lần sinh mệnh nữa được không? Xin hãy cứu lấy con, cũng là do con nhất thời nông nổi”.
Đức Thế Tôn rất từ bi, Ngài nói với bọn đao phủ: “Các ngươi đừng giết hắn, hãy để hắn đi”. Bọn đao phủ bối rối nói với Thế Tôn rằng: “Thưa Đức Phật, xin hãy suy nghĩ về điều đó, chúng tôi không có hai cái đầu, nếu có hai cái đầu, chúng tôi có thể thả hắn ta, bây giờ chúng tôi thả hắn ta, đầu của chúng tôi sẽ không còn”.
Đức Thế Tôn nói với bọn đạo phủ: “Ta đi gặp quốc vương. Trước khi gặp quốc vương, xin đừng giết hắn ta”. “Được, được, được, vậy chúng tôi đợi Ngài”.
Đức Thế Tôn đến gặp quốc vương Thắng Quang và nói: “Thưa Đại quốc vương, xin hãy thả tên tội phạm đó ra, đừng giết hắn”.
Các vị quốc vương thời đó đặc biệt kính trọng Đức Phật, quốc vương Thắng Quang tự tin nói: “Bạch Thế Tôn, hắn đã phạm nhiều tội ác và đáng bị xử tử. Nhưng nếu Ngài chấp nhận hắn và hắn cũng nguyện ý xuất gia”, vậy thì chúng tôi sẽ thả hắn đi”.
Đức Thế Tôn đồng ý với quốc vương và nói rằng: “Được, vậy thì tôi sẽ thu nhận hắn ta”. Ngày xưa, ở Ấn Độ cổ đại, người ta rất tôn trọng Phật và Pháp. Xưa người ta nói rằng “xuất gia có thể tránh được án tử hình”. Chính là cái đạo lý này. Bởi vì đã xuất gia, sẽ không còn sinh hoạt như ở nhân gian nữa.
Sau đó, Đức Thế Tôn đem An Ninh về kinh đường, cạo đầu và thụ giới truyền pháp cho cậu ta. Không ngờ bản thân An Ninh lại tinh tấn tu trì, vì duyên phận chín muồi, hơn nữa rất nhanh diệt hết phiền não tam giới luân hồi (nghĩa là đã nghĩ thông suốt, nghĩ minh bạch, chỉ cần làm thập thiện nghiệp, vĩnh viễn không làm điều ác nữa, thì sẽ miễn trừ tam giới luân hồi), chứng đắc được quả vị A La Hán.
Lúc này, có nhiều đệ tử Tỳ-kheo bên cạnh Đức Phật liền hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, Thái tử An Ninh đã làm đủ mọi hành vi không đúng pháp, trong lúc hành hình thì Thế Tôn, Ngài đã cứu cậu ta, độ cậu ta xuất gia, và làm cho cậu ta chứng đắc quả La Hán. Xin Ngài vì chúng con mà giảng nhân duyên trước sau đi”. “Đúng đó Đức Phật, hãy nói về nhân duyên trước sau đi”.
Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: “Này các vị Tỳ-kheo, không những đời này ta đã cứu cậu ấy, độ cậu ấy xuất gia chứng được quả vị La Hán, mà kiếp trước ta cũng đã từng cứu cậu ấy, khiến cậu ấy có được tứ thiền ngũ thông”.
“Đức Phật, xin hãy nhanh nói cho chúng con biết”.
“Cách đây rất lâu, Lộc Dã Uyển ở Ấn Độ có một vị quốc vương Thương Kỳ. Ở đất nước của ông ta có một kẻ độc ác đã làm nhiều hành vi không đúng pháp.
Sau đó hắn sắp bị kết án cực hình. Lúc hung thủ (đao phủ, người thi hành pháp) đang chuẩn bị giết hắn, thì hắn sinh lòng sợ hãi, thỉnh cầu và kêu cứu. Lúc đó, ở gần Lộc Dã Uyển có một vị tiên nhân, có đầy đủ năm loại thần thông, nhìn thấy hắn ta cảm thấy rất đáng thương và muốn cứu hắn. Khi ác nhân nhìn thấy đại tiên nhân, hắn cung kính đảnh lễ và cầu xin cứu mạng: “Thưa tiên nhân, xin hãy cứu tôi”. Tiên nhân liền để đao phủ thả hắn ta đi và không giết hắn. Các hung thủ (đao phủ, người thi hành pháp) liền nói: “Thưa đại tiên nhân, chúng tôi không có hai đầu. Bây giờ nếu không giết hắn, chúng tôi không thể làm được. Tiên nhân muốn bàn bạc chuyện đó với quốc vương nên liền dặn dò đao phủ: “Trước khi ta tìm được quốc vương Thương Kỳ, các ngươi đừng giết hắn”. Các đao phủ đồng ý. Tiên nhân đến gặp quốc vương để cầu xin, và quốc vương nói: “Nếu không giết hắn, thì Ngài nhất định phải dẫn hắn xuất gia”. Tiên nhân đã đồng ý, liền dẫn ác nhân này vào trong rừng, truyền thụ giáo ngôn cho hắn, hắn y giáo tu hành, chứng được tứ thiền ngũ thông.
Ở đây xin giải thích với mọi người: Nhiều người ở kiếp trước có thần thông nhưng kiếp này không nhất định có bởi vì chướng thai che đậy (tức là sau khi đầu thai chuyển thế bị che đậy rồi). An Ninh kiếp trước tuy rằng chứng được tứ thiền ngũ thông, nhưng kiếp này khi hắn bị trói đi diễu hành, hoàn toàn không thể hiển thị ra tứ thiền ngũ thông ở kiếp trước.
Đức Thế Tôn bảo các vị Tỳ-kheo rằng: “Này các vị Tỳ-kheo, bậc tiên nhân lúc bấy giờ chính là ta đã chứng ngộ Bồ Đề. Kẻ ác tức là thái tử An Ninh ngày nay, quốc vương Thương Kỳ chính là quốc vương Thắng Quang ngày nay. Trước kia khi cậu ta sắp bị xử tử ta đã cứu cậu ấy, khiến cậu ấy tu được tứ thiền ngũ thông. Bây giờ cũng là lúc An Ninh sắp bị xử tử, ta đã cứu cậu ấy, khiến cậu ấy chứng được quả vị La Hán Niết-bàn tối thượng.
Có nhiều vị Tỳ-kheo hỏi: “Xin hỏi Đức Thế Tôn, vậy nhân duyên gì mà An Ninh được tái sinh vào nhà của một vị hoàng thân giàu có, thân thể trang nghiêm, được Phật lệnh độ, lại có thể xuất gia và đạt được quả vị La Hán? Bạch Đức Phật, mong Ngài có thể giải thích nhân duyên trước sau”.
Đức Thế Tôn đáp: “Đây là nguyện lực của kiếp trước. Khi Hiền Kiếp thọ hai vạn tuổi, Nhân Thiên Đạo Sư, Như Lai đang chờ Giác Ca Diếp Phật xuất thế, có một vị chấp sự viên của tăng chúng cả đời làm việc cho tăng chúng, vất vả cần cù lao động, lúc lâm chung ông phát nguyện”. Ta cả đời xuất gia làm việc cho tăng chúng, mặc dù ta không có được công đức và cảnh giới gì, nguyện lấy thiện căn này tương lai khi Thích Ca Phật xuất thế, làm cho Phật vui mừng, xuất gia diệt hết phiền não tam giới, đạt được quả vị A-la-hán. Vị Tỳ-kheo chấp sự này chính là hoàng tử An Ninh hiện tại. Bởi vì nguyện lực của cậu ta đã chín muồi, nên trong đời này dưới sự chỉ dạy của ta làm cho ta hoan hỷ, cậu ấy xuất gia, tiêu trừ phiền não của tam giới, và đạt được quả vị A-la-hán”. Câu chuyện này nói cho chúng ta biết, thành công của mỗi người, duyên phận của mỗi người
với Bồ Tát, đều có gốc rễ, học Phật không phải là duyên phận chỉ xảy ra trong đời này. Đó là duyên phận bắt nguồn từ nhiều kiếp của chúng ta.
Vì vậy, mong rằng mọi người sẽ học Phật và tu tâm cho tốt, đừng vì gặp phải một chút phiền não, ngăn trở trên con đường tu hành mà chấp mê không ngộ. Khi con đường đời bị chặn lại, phải học cách rẽ và chọn cách rẽ. Khi tu tâm đến lúc không vui, phải học cách xem nhẹ nó, không nên nặng nề như vậy, qua rồi là được, thay đổi là ổn. Ở nhân gian, khi tình cảm của quý vị dần phai nhạt, khi chúng đã cách xa, khi chúng đã rời xa quý vị, phải học cách lựa chọn tùy duyên. Ở nhân gian, có một số chuyện gánh vác nhiều một chút, cố gắng một chút, có thể sẽ qua. Có những người từng làm tổn thương quý vị có thể sẽ dần bị lãng quên bằng cách cắn răng chịu đựng. Có những nỗi đau, hãy cứ mỉm cười rồi cũng cười qua, cười qua rồi cũng sẽ qua, khổ qua rồi cũng sẽ qua. Trái tim của người tu tâm, có đôi khi tổn thương, sẽ trở nên càng thêm kiên cường. Trên đường đời gập ghềnh, cứ bình thản trôi theo dòng chảy. Khi đắc ý, người học Phật chúng ta phải học cách xem nhẹ. Khi thất ý, người học Phật chúng ta phải học cách nhìn thoáng. Đừng quá chấp trước vào một quan điểm nào đó của bản thân mà khiến bản thân phải gánh vác gánh nặng và nghiệp chướng nặng nề trên nhân gian. Chúng ta thường nói: “Nghiệp của ai người đó gánh”. Đừng gánh chịu nghiệp chướng. Học cách “cần tu khổ luyện học Phật duyên” – tức là học tập duyên phận Phật cần phải tu khổ luyện, tu thành vô thượng Chánh đẳng tâm. Hy vọng mọi người nhất định phải nghĩ thông suốt, nghĩ minh bạch, một kiếp tu thành mới là nguyện về trời đích thực của chúng ta.
Được rồi, cảm ơn đại chúng. Hôm nay bài giảng《Bạch thoại Phật pháp》xin tạm dừng tại đây, hẹn gặp lại vào lần sau. Cảm ơn đại chúng.
75. Phước huệ song tu thoát lục đạo
Tập 75
PHƯỚC HUỆ SONG TU THOÁT LỤC ĐẠO
(23/05/2020)
Được rồi, hôm nay Sư phụ sẽ tiếp tục giảng cho đại chúng về《Bạch Thoại Phật Pháp》.
Thực ra, học Phật học càng về sau chính là đề cập đến cảnh giới, quý vị không thể nhìn thấy hay chạm vào cảnh giới đó được, nhưng khi quý vị xử lý sự việc, khi quý vị nói điều gì hay nói một lời nào ra thì người khác sẽ biết được cảnh giới của quý vị cao hay thấp. Có người vừa nói ra thì sẽ bị người khác coi thường vì họ ích kỷ, người cảnh giới cao luôn biết nghĩ cho người khác. Cảnh giới cao và sự thăng tiến trong cảnh giới sẽ khiến quý vị phải giữ khẩu nghiệp. Vì vậy, nhiều người biết cảnh giới của mình chưa cao, nên lời họ nói ra cũng rất cẩn thận. Cổ nhân có câu: “Họa từ miệng mà ra, bệnh từ miệng mà vào”. Trên thực tế, điều đó có nghĩa là quý vị nên nghiêm khắc tuân thủ khẩu nghiệp của mình và không được nói lung tung. Nếu quý vị không nói chuyện, người khác sẽ không biết quý vị đang ở cảnh giới nào. Một khi quý vị nói ra, thì cảnh giới của quý vị sẽ lập tức rơi xuống. Vì vậy, nhiều người học Phật, học càng về sau càng ngày càng ngại nói.
Về sau, người học Phật không nên tùy tiện nói những điều mình không chắc chắn, họa từ miệng mà ra, nếu nói năng tùy tiện, người khác sẽ cảm thấy quý vị là người không đáng tin cậy. Tại sao nhiều người phải sống trong đau khổ? Bởi vì không ai tin những gì họ nói, bởi vì họ không đáng để người khác tin tưởng. Khi một người nói ra, nó thể hiện giảo giới (sức ảnh hưởng phá giới hay cảnh giới cao) của người đó. Chỉ nói khi lời nói đó đáng tin cậy và chắc chắn. Đừng nói về những điều không đáng tin cậy hoặc không thể làm được. Hãy cẩn thận và hành động thận trọng, đây chính là giới khẩu mà những người học Phật chúng ta nên giữ. Bởi vì giới khẩu quý vị không giữ được nên nghiệp khẩu của quý vị liền tới. Chúng ta cần tu cả Phước lẫn Huệ, cần giữ gìn nghiệp khẩu, cần có cảnh giới, cần có phúc khí và cần có trí huệ. Nếu quý vị không có phúc khí
thì sẽ không gặp được các vị Cao Tăng Đại Đức và sẽ không gặp được người tốt. Nếu biết quý trọng phước và trân quý phước của mình thì sẽ dần dần có được trí tuệ. Khi có được trí tuệ thì sẽ dần dần nâng cao cảnh giới của bản thân.
Nhiều đệ tử sẽ hỏi Sư phụ: “Thưa Thầy, trí tuệ của chúng con từ đâu đến?” Sư phụ nói cho mọi người biết từ bố thí mà có được. Quý vị có thích bố thí lời nói không? Quý vị có thích bố thí tài, bố thí pháp và bố thí vô úy không? Quý vị có sẵn sàng từ bỏ thời gian quý báu của mình để giúp đỡ người khác không? Nếu sẵn lòng, thì quý vị liền có được trí tuệ và quảng kết thiện duyên. Vì giúp đỡ người khác có thể nâng cao bản thân và vì giúp người khác giải quyết vấn đề nên quý vị sẽ hiểu được vấn đề này. Sư phụ đã từng kể với mọi người rằng, thầy có quen một người bạn học, năm đó đến Úc và cô ấy rất sẵn lòng giúp đỡ người khác. Khi sang Úc, cô chưa lập gia đình, cũng chưa có con, cô thường xuyên giúp đỡ hàng xóm và con cái của đồng nghiệp tìm những nơi có trường học nào ưu tú hay khu vực nào tốt v.v… Kết quả là khi lấy chồng và có con, cô đều biết những điều mà cô đã từng giúp qua cho người khác. Vì vậy giúp người khác sẽ tăng thêm trí tuệ cho bản thân.
Hãy đối xử với mọi chúng sinh như người thân và coi người khác như người thân, khi quý vị trả lời điện thoại, giọng nói của quý vị sẽ trở nên thật tuyệt vời. Hãy nhìn xem bây giờ có biết bao người trả lời điện thoại và nói chuyện một cách lạnh lùng: “Alo, xin chào”, chứ không nói chuyện như đang nói chuyện với người thân của mình. Nhiều người nói chuyện rất cáu gắt với cha mẹ của họ. Nói lời như vậy tượng trưng cho cảnh giới của họ, người có tu dưỡng sao có thể nói như vậy? Nếu quý vị tử tế với người khác, quý vị liền có được phúc khí.
Nếu quý vị đối xử với người khác thiện lương, nhất định sẽ có phúc khí. Nếu quý vị đối xử với người khác tàn ác, sẽ đánh mất đi phúc khí của chính mình.
Trí tuệ đến từ giới. Trí tuệ đến từ đâu? Là do giữ giới mà có được. Nếu một người có trí tuệ và được người khác tôn trọng thì cảnh giới của họ sẽ được coi là
rất cao. Bởi vì họ giữ giới, không nói lung tung, không làm những điều không nên làm, toàn nghĩ đến những điều nên nghĩ, hơn nữa giữ giới và giữ khẩu, vậy thì họ sẽ có được thân tâm không chướng ngại và trí tuệ sẽ đến một cách tự nhiên, không có chướng ngại nào trong tâm họ. Quý vị thử nghĩ xem, quý vị không nói những điều bản thân không hiểu, mà chỉ nói những điều bản thân đã hiểu, thì có phải là quý vị được người khác tin tưởng không? Vậy tại sao lại có nhiều người bị coi thường đến vậy? Chính là họ không hiểu mà giả vờ hiểu. “Khác nghề như cách núi”, nếu quý vị là chuyên ngành này, chẳng hạn chuyên ngành máy tính, người khác không hiểu mà nói “Tôi hiểu”, khi quý vị ở bên cạnh vừa nhìn thấy họ làm thì quý vị sẽ biết ngay họ có chuyên nghiệp hay không. Nếu hôm nay quý vị hát và nói “Tôi hát hay lắm”, khi chạy lên hát, ngũ âm không đầy đủ, người khác sẽ nhận ra ngay. Đây chính là không biết mà giả vờ biết, sau đó quý vị sẽ bị người khác coi thường, và cảnh giới của quý vị sẽ rơi xuống. Vì vậy, đừng bao giờ nói những điều mình không hiểu, phải luôn giữ giới, thì cảnh giới của quý vị sẽ được nâng cao và sẽ nảy sinh trí tuệ. Đài trưởng đã nghe nhiều bậc trí tuệ nói từ khi thầy còn nhỏ: Khi nói chuyện với người khác, hãy luôn nói những gì mình hiểu. Nếu không hiểu thì đừng nói về chủ đề đó với người ta. Sau đó có người hỏi: “Vậy thì tôi ở bên cạnh như một kẻ ngốc và không hiểu được những chủ đề mà người khác nói đến. Vậy thì tôi không thể có được sự gắn kết nhất định giữa các bạn trong lớp thì sao?”. Vâng, quý vị có thể từ từ thay đổi chủ đề, hãy chuyển sang một chủ đề mà quý vị quen thuộc và sau đó phát huy theo chủ đề đó, thì đây vốn đã là một loại trí tuệ. Nếu quý vị không nói về những điều quý vị không hiểu mà lại nói nhiều về những điều quý vị đã biết, thì người khác sẽ nghĩ quý vị đều biết hết rồi. Trên thực tế, đương nhiên là quý vị không hiểu hết mọi thứ, nhưng ít ra người khác có thể đánh giá cao quý vị – nghĩa là quý vị không phải là người nói năng lung tung.
Nhiều người trong chúng ta đang sống trên thế gian mà không biết cách cư xử. Chúng ta nói những điều vô nghĩa khi không nên nói, hành động bừa bãi khi
không nên làm và suy nghĩ lung tung khi không nên suy nghĩ, sau đó nhìn người khác đều không thuận mắt, và điều này dần dần dẫn đến vô cớ sinh sự. Mọi người hãy thử nghĩ xem, sự giao tiếp giữa người với người, trong lòng quý vị nghĩ gì, có thể được nhìn thấy từ trong ánh mắt của quý vị: Nếu quý vị cảm thấy mọi người đều tử tế với mình, trong mắt quý vị sẽ tràn ngập niềm vui và cảm động. Nếu hôm nay quý vị cảm thấy mọi người đang chế giễu mình hay đối xử với quý vị không tốt, nhìn quý vị bằng con mắt khác, trong lòng quý vị lập tức sẽ cảm thấy phiền não, chán nản và khó chịu. Cho dù không có chuyện gì xảy ra thì ánh mắt của quý vị cũng sẽ sinh ra rất nhiều cảm xúc khác thường, khiến người khác cảm thấy quý vị không tốt với họ. Kỳ thật họ không có ý nghĩ này, ai cũng bận việc của riêng mình, thì ai mà đặc biệt quan tâm đến quý vị? Trừ khi họ đặc biệt tốt với quý vị, còn không thì bây giờ mọi người đều như vậy.
Cho nên Sư phụ bảo mọi người, ở đời đừng tùy tiện suy đoán, suy đoán nghĩa là luôn luôn nghi ngờ, “Có phải bạn như vậy không? Bạn đang trêu chọc sau lưng tôi phải không?” Hoặc là đối với tôi như thế nào … là bạn đang bịa đặt những điều không có thật về tôi, trong trường hợp này, quý vị sẽ tự chuốc lấy phiền phức, đồng tu sẽ cho rằng quý vị rất đa nghi và người khác không muốn nói thật lòng với quý vị. Ngược lại, nếu quý vị không suy đoán người khác và nói thật, thì họ sẽ cảm thấy quý vị là người rất chững chạc và có tu dưỡng, những gì quý vị nói rõ ràng, hợp lý, nói nhiều hơn về những điều quý vị biết. Trên thực tế thì họ không thể hiểu hết mọi thứ.
Nếu một người tu hành thoát ly khỏi những thú vui thấp kém của thế gian, nói cách khác không nên suốt ngày nhìn hoàn cảnh chung quanh mà sống, không nên suốt ngày sống theo tâm tình của người khác, đó chính là thoát ly thú vui thấp kém của thế gian. Tại sao quý vị luôn cảm thấy người khác đang nghĩ quý vị không tốt, nói xấu và làm những hành động không tốt với quý vị? Trước đây có người từng nói đùa rằng trong một nhà hàng, nếu nhân viên làm vỡ chậu hoặc thìa, người quản lý sẽ lập tức cảm thấy: “Hôm nay anh ấy bất đồng quan
điểm với tôi, có ý kiến và có ý tưởng riêng của mình”. Bởi vì loại người làm lãnh đạo này họ rất nhạy cảm, luôn cảm thấy người khác có ý kiến về mình, vì những việc anh ta làm không như lý như pháp nên anh ta sẽ cảm thấy người khác đối xử không tốt với mình, đây chính là suy nghĩ thấp kém trong lòng anh ta không thoát ly được. Kỳ thực, thú vui thấp kém chính là tư tưởng thấp kém, là phàm nhân, ngược lại nếu quý vị tu tâm và học Phật tốt thì sẽ thành Thánh.
Hôm nay Sư phụ sẽ giảng cho mọi người về phúc báo. Chúng ta thường nói: “Bạn là người có phúc báo”. Phúc báo thực sự khi sống ở thế gian này là gì? Trong giới Phật giáo, phúc báo được gọi là thanh tịnh vô vi. Nghĩa là khi một người đã thanh tịnh, thì tâm phải tịnh, tâm trí phải trong sáng, và tiếp đó trong tâm vừa không phiền não cũng chẳng bi thương, vừa không vui cũng chẳng buồn, thanh tịnh vô vi, rất trong sạch và không có suy nghĩ gì, điều này không phải là “vô đắc diệc vô thất” sao? Không có gì để có được và cũng không có gì để mất đi, “vô đắc diệc vô thất”. “Tôi không có vui và tôi cũng chẳng có buồn. Bởi vì niềm vui đến tôi không có cảm giác, nên tôi không cần phải chịu đựng nỗi đau buồn khi mất đi”. Nếu người ta đối xử tốt với quý vị, thì quý vị cảm ơn mọi người, cảm ơn người ta. Nếu người ta rời bỏ quý vị mà đi hay phớt lờ quý vị, thì quý vị cũng sẽ không buồn lắm. Vậy nên, ở thế gian này, người học Phật thực sự thì sẽ không có bi thương, không có phiền não, không có u buồn, không có hạnh phúc, tức là vô đắc diệc vô thất. Không bị người khác xúc phạm, khó chịu và không sống trong đau khổ. Không có cảm giác vinh quang gì lớn lao, chẳng hạn như: “Bạn thấy đấy, mọi người đều nhìn tôi như vậy. Bạn thấy đấy, cảm xúc biết bao”. Quý vị không có cảm giác này. Tâm quý vị luôn bình tĩnh, bình tĩnh vô cùng.
Có một thí nghiệm về tâm lý học, là nói với một người rằng: “Lát nữa bạn sẽ đến công ty tham gia buổi tiệc. Bạn nhìn thấy tất cả mọi người đang phớt lờ bạn, đều rất kỳ lạ. Bởi vì hôm nay trong công ty bị mất một món đồ, mọi người đều nói rằng bạn đã lấy trộm nó”. Thực sự thì đây là là một thí nghiệm tâm lý
học, đây vốn dĩ là chuyện ăn không nói có. Sau khi anh ta nghe được những lời này và bước vào buổi tiệc, lúc anh ta nhìn người khác, bởi vì chính anh ta cảm thấy mình kì quái, nên người khác nhìn anh ta cũng kỳ quái, vậy nên anh ta nhìn thấy tất cả mọi người đều đối với mình kỳ lạ, thực ra do anh ta không biết rằng đó là bởi vì trong lòng anh ta đã thấp thỏm không yên.
Trong lòng anh ta có ác cảm nên khiến người khác có ác cảm, cuối cùng anh ta cảm thấy người khác thực sự có thành kiến như vậy với mình. Đây là một bài trắc nghiệm tâm lý. Con người là thế đó: nhìn núi là núi, nhìn nước là nước; đôi khi nhìn núi không phải là núi, nhìn nước không phải là nước. Cuối cùng người ta nói với anh ta “hoàn toàn không có chuyện đó, chỉ đang trắc nghiệm tâm lý của anh mà thôi”, anh ta vẫn nhìn núi là núi, vẫn nhìn nước là nước. Đó là do tâm lý con người đang thay đổi, họ cảm thấy như “có ai coi thường mình” hay “có ai chê bai mình”, nên tâm anh ta không thể như như bất động. Tâm thật sự như như bất động có nghĩa là chúng ta đang được hưởng những phúc báo mà trời ban cho – sống hạnh phúc mỗi ngày, không có phiền não, không có ưu thương, không có vinh dự, cũng không có sỉ nhục, đó chẳng phải là phúc báo sao? Bình an không phải là phúc sao? Tại sao bình an chính là phúc báo, chính là cái đạo lý này.
Nói cho mọi người biết thanh tịnh vô vi là thế nào. Phúc báo của thanh tịnh vô vi, thanh tịnh vô vi là thanh phúc, hưởng thanh phúc {phúc khí thanh tịnh}. Nhiều người sống trên thế gian này nói rằng: “Bạn cần được hưởng thanh phúc rồi, bạn có phúc khí, được hưởng thanh phúc rồi”. Vậy thì Sư phụ nói cho mọi người biết, quý vị có phúc khí nhưng phúc khí còn cần phải thanh tịnh. Nhiều người có phúc khí nhưng rồi lại gặp rắc rối, đúng không? Có một số người nói: “Tôi muốn có thật nhiều phúc khí”. Tài, sắc, danh, thực, thuỵ {Tiền bạc, sắc dục, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ}, đều là phúc khí, sau khi có được liền vui vẻ. Nhưng người thật sự có phúc khí chính là hưởng thanh phúc và họ mong có được thanh phúc. Lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị đã trở thành người
đứng đầu của một bộ phận nào đó trong cơ quan, quý vị có vui không? Khi về nhà và nói: “Này, tôi đã lên chức giám đốc rồi” và tiếp theo đó quý vị sẽ gặp rất nhiều phiền não, đúng không? “Tôi mừng lắm, cuối cùng tôi đã đạt được ước nguyện của mình, tôi đã đạt được vị trí đầu tiên”. Sau đó mọi người đều đến tìm quý vị, nào là ký tên, rồi đến tìm quý vị để tài trợ, tìm quý vị đi v.v… Loại phúc khí này không phải là thanh phúc.
Vậy hôm nay sẽ nói với mọi người cái gì gọi là thanh phúc. Thanh phúc là người có trí tuệ mới có thể hưởng thụ, người không có trí tuệ không thể hưởng được thanh phúc. Khi một người thanh nhàn, tâm tĩnh lại, không có trở ngại, phiền não, không có sự ràng buộc về tình cảm, không có áp lực cho vay, có thể ngồi một mình ở nhà, thanh thanh đạm đạm, không ai đến tìm, không phiền não, không ưu thương, uống một tách trà, niệm niệm kinh, và nghĩ rằng không ai gây rối với mình, không ai ghen tị với mình, trên đời này không ai phỉ báng mình, lúc này chính là lúc quý vị hưởng thụ phúc khí thanh tịnh. Thanh phúc là gì? Một số người nói rằng bình an là phúc. Quý vị còn muốn có thêm phúc khí nào nữa? Quý vị tưởng rằng có được rồi là niềm vui sao? Sư phụ đưa ra một ví dụ đơn giản. Có một người trúng xổ số hàng chục triệu đồng. Sau đó, con của họ bị người ta bắt cóc và cuối cùng chính họ cũng bị bắt cóc, quý vị nói họ có phúc khí không? Có đó. Có thanh phúc không? Không có. Nếu quý vị có thể ngồi đó an an định định, không ai nói về mình, không ai quấy rầy quý vị, tự bản thân biết “Tôi không làm gì sai”, niệm niệm kinh, ngồi một mình, “Thế giới này là của tôi, tôi thanh tịnh rồi, và thế giới đều đã tĩnh lặng.” Đây không phải là “nhất hoa nhất thế giới” sao? Đây là nơi quý vị tận hưởng một môi trường thanh tịnh mà không bị ai quấy rầy. Khi một người ngồi thiền không phải là thanh phúc sao? Hoàn toàn không có điện thoại, không có ai đến nói chuyện với mình, không có ai đến làm phiền mình, phúc báo này lớn vô cùng.
76. Tam tâm bất khả đắc
Tập 76
TAM TÂM BẤT KHẢ ĐẮC
(23/05/2020)
Nhiều người trong chúng ta tuy có thời gian rảnh rỗi nhưng lại không muốn tận hưởng thanh phúc và không thể ngồi yên. Có người hỏi: “Bạn muốn thanh tịnh một chút đúng không? Không dễ gì mới đến ngày nghỉ.” Nếu tâm hồn quý vị bất tịnh, thì quý vị cũng không thể yên tĩnh trong ngày nghỉ của mình, nào là “Tôi muốn gọi điện thoại, tôi muốn làm cái này, tôi muốn làm cái kia.” Ngay cả khi quý vị trong hoàn cảnh yên tĩnh, hôm nay không có ai làm phiền quý vị, rất yên tĩnh, quý vị có thể làm gì đó ở nhà và làm bất cứ điều gì quý vị muốn, nhưng luôn cảm thấy mình sẽ bị mọi người trong xã hội lãng quên, sau đó quý vị phải lấy điện thoại ra để gọi điện, “Xin chào, bạn khỏe không?” Hoặc gửi tin nhắn, “Bạn đang làm gì vậy?” Như thể có rất nhiều bạn bè, rồi những cuộc điện thoại không ngừng nghỉ, những tin nhắn trên điện thoại di động liên tục được gửi đi, sau đó còn muốn cho hàng xóm biết “Tôi là ai ai ai…?” Trên thực tế, theo cách nói ngày nay, điều đó có nghĩa là đang cố gắng hết sức để bản thân có được cảm giác đang tồn tại. Sống thanh tịnh chẳng phải tốt hơn sao? Khi thanh tịnh thì thời gian sẽ trôi qua rất nhanh. Ngồi đó tụng kinh một lát chớp mắt đã một tiếng đồng hồ trôi qua; vừa rồi niệm kinh một tiếng đồng hồ, cộng thêm ngủ, cũng đã hai tiếng đồng hồ; vừa tụng kinh vừa ngủ, đã năm tiếng đồng hồ trôi qua, chẳng phải rất thanh tịnh sao? Rất thanh tịnh, không ai làm phiền. Nhưng con người ngày nay nếu quý vị bảo họ phải thanh tịnh thì họ có đồng ý không? Quý vị bảo họ cất điện thoại di động đi, quý vị đem máy tính của họ cất đi, họ sẽ liều mạng với quý vị. Họ làm điều này là để có được cảm giác tồn tại và cảm thấy rằng “Tôi nhất định không được để xã hội lãng quên, tôi nhất định không được để người khác coi thường”. Rất nhiều người cũng như vậy, nếu không được mời đi dự tiệc vào buổi tối, họ sẽ cảm thấy khó chịu, họ vĩnh viễn không bao giờ được tận hưởng niềm thanh phúc này. Bị người khác mời quý vị có cảm thấy khổ sở lắm không? Quý vị có đang lãng phí thời gian của mình bằng cách lao vào giao lưu với những người nói “Xin chào, xin chào…” không? Quý vị nghĩ xem người
học Phật sao lại cần những thứ này? Họ cần thanh phúc, phúc khí phải thuần khiết. Có người phúc khí không thuần khiết, điều này sẽ dẫn đến những rắc rối trong tương lai. Vì vậy, Sư phụ nói với mọi người rằng con người chúng ta không nên sợ bị người khác coi thường.
Nếu quý vị không học Phật thì sống ở đời không có phúc khí thật sự, vì sau phúc lại đến ưu phiền, sau phúc là họa, sau họa lại là phúc. Đôi khi, nỗi buồn của con người chúng ta trên thế gian này chính là chúng ta không thể tận hưởng được thanh phúc. Một người bạn Phật tử có lần nói với thầy rằng: “Thưa Sư phụ, khi con trai tôi trưởng thành tốt nghiệp rồi, thì tôi sẽ không lo lắng gì nữa cả. Tôi chỉ lo cho đứa con trai này của tôi thôi. Sau khi nó ra trường là ổn rồi”. Vài năm sau gặp lại vị này thì: “Con trai tôi đã tốt nghiệp và đã có bạn gái. Nó cãi vã suốt. Tôi phải làm sao đây?” Rồi một năm sau chúng tôi lại gặp nhau: “Tốt rồi, bạn gái cũ của nó trước đây đã chia tay, bây giờ nó đã tìm được bạn gái mới và rất yêu nó.
Thanh phúc thuần khiết thực sự là tận hưởng sự yên lặng của thế giới nội tâm. Quý vị nói xem một mình yên tĩnh, không ai làm phiền quý vị tốt biết bao, đúng không? Không ngừng kiếm việc, không ngừng tìm chuyện để nói, tìm việc để làm, như thể vô cùng bận rộn, từng phút từng giây trôi qua, không học được gì cả. Quý vị đã học được gì? Học được sự dối trá của thế gian, sự cống cao ngã mạn, danh lợi, tham, sân, si của xã hội loài người. Vậy nên, thực ra Đức Phật đã sớm biết được tâm lý của tất cả mọi người trên thế gian. Con người là như vậy, làm sao mà Phật không biết được con người? Bởi vì con người coi vật chất trong thế giới huyễn ảo là thực tại. “Tôi bận quá, bận vô cùng”. Thực ra những việc bận rộn của quá khứ cũng giống như mộng, huyễn bào, ảnh, như lộ diệc như điện, đâu còn nữa? Bồ Tát nói với chúng ta rằng, khi quý vị đang sở hữu sự thanh tịnh thật sự, quý vị lại đem những vật chất và tình cảm không có thật để phá huỷ đi thanh phúc của chính mình. Những phiền não viển vông đó có ý nghĩa gì? Trước đây, những người nổi tiếng đến thăm một nhà máy nào đó, có
một số nhân viên trong nhà máy sẽ tìm mọi cách để thể hiện bản thân ngay khi nhìn thấy người nổi tiếng đến, như thể họ rất quan trọng ở nơi làm việc, có một số nhân viên quản lý chỉ muốn bộc lộ trách nhiệm và năng lực của họ trong công ty, nên khi người nổi tiếng đi ngang qua, anh ấy sẽ chỉ huy trong lúc làm việc: “Cậu đi qua kia, cậu đừng tới đây, cậu làm việc lại không nghiêm túc rồi đấy”. Người quản lý liền ra lệnh cho nhân viên để thể hiện mình là cấp bậc quản lý. Anh ta có nghĩ rằng khi người nổi tiếng đó đi ngang qua có nhớ đến anh ta không? Anh ta có cảm thấy kiểu hành vi này hơi lố bịch không? Nếu quý vị bị người ta kích thích ra cái loại vật chất cùng tình cảm sĩ diện, hư ảo không chân thật này, thực chất là quý vị đang hủy hoại phúc phận yên tĩnh của chính mình. Bởi vì sau khi người nổi tiếng đó đi rồi, nhân viên bị người quản lý mắng sẽ có ác cảm với anh ta, và sau đó lại tiếp tục gây rối với người quản lý này. Có phải là anh ta đang hủy hoại đi phúc khí thanh tịnh của chính mình không? Vốn dĩ nhân viên đối với vị quản lý này rất tốt.
Vậy nên thanh phúc cũng là phúc và thanh phúc chính là phúc khí thanh tịnh. Sau khi học Phật học được Tánh không, bổn tánh của quý vị thanh tịnh vô vi, đó chính là thanh phúc của quý vị, và quý vị sẽ được hưởng thanh phúc của mình.
Vô vi nhi vô bất vi, chính là thành tựu của đại trí tuệ. Dường như chúng ta không làm điều đó, trên thực tế quý vị đã làm rồi. Người khác hỏi quý vị: “Chuyện này bạn phát biểu chút ý kiến?” “Tôi không có ý kiến gì, tôi lắng nghe ý kiến của mọi người là được rồi.” Quý vị không có làm gì, đúng không? Vô vi đúng không? Một ngôn ngữ, hành động khiêm tốn như vậy, tuy rằng quý vị không biểu đạt, nhưng trên thực tế quý vị đã biểu đạt rồi, thuận theo ý kiến của mọi người “mọi người nói được là được” – vô vi nhi vô bất vi {không làm nhưng không gì không làm}, thực ra quý vị có làm. Nhưng vô vi này được xây dựng trên một cảnh giới nội tâm cao quý, đó là cảnh giới mà Sư phụ bắt đầu giảng cho mọi người. Cũng giống như ngồi thiền, quý vị ngồi ở đó giống như không ngồi, quý vị không có cảm giác (tức là ngồi thiền ngồi đến về sau, thân
thể sẽ không có cảm giác, không cảm thấy mình ngồi ở đó), kỳ thật cái mà quý vị đạt được chính là có thể tiếp nhận được trường khí của Bồ Tát, làm cho toàn bộ khí mạch của quý vị được lưu thông, có thể giúp quý vị tu luyện tinh-khí-thần của mình. Vậy ngồi thiền, có thực hành chưa? Chưa thực hành. Đúng vậy, thực hành đến về sau giống như chưa thực hành. Nhưng quý vị có thực hành chưa? Có thực hành rồi, ngồi ở đấy không có cảm giác nữa. Rốt cuộc là quý vị có tạo tác hay không có tạo tác? Vô vi nhi vô bất vi, vô vi nhi hữu vi
{Không làm gì mà không gì là không làm, không làm gì mà có làm}. Rốt cuộc là hữu vi hay vô vi? Kỳ thật “vô vi nhi vô bất vi”, đây chính là Phật pháp nói với chúng ta chuyện dường như không làm, nhưng thực ra quý vị đang làm. Người ta nói: “Cảm ơn anh, đã làm rất nhiều.””Tôi không làm gì cả.””Anh đã làm rất tốt.””Tôi không làm gì cả.” Lấy một ví dụ đơn giản: khi quý vị nộp một bản báo cáo lên cấp trên, trong quá trình đợi kết quả thì quý vị sẽ không còn có gì để làm, đúng không? Có vẻ như không có gì để làm, nhưng thực ra quý vị đang chờ đợi sự xuất hiện của phước báu này, bởi vì sau khi nộp báo cáo, quý vị hy vọng nhận được phần thưởng và phước báu. Trong khi chờ đợi phước báu đến, có một số người sẽ cảm thấy phiền não, cảm thấy thời gian sao trôi qua quá lâu và lãng phí thời gian. Có một số người trong quá trình chờ đợi “vô vi nhi vô bất vi”, nghĩa là dường như “Tôi không có làm việc gì khi đang chờ báo cáo, kỳ thực mỗi ngày tôi niệm kinh, phát nguyện, phóng sinh, tôi vẫn đang làm – trong lòng tôi đang làm, tôi hy vọng báo cáo này có thể nhanh chóng được phê duyệt”. Quý vị nói xem họ có tạo tác hay không có tạo tác? Nó giống như cầu cho báo cáo đã nộp được phê duyệt nhanh chóng. Tôi dùng tâm niệm của mình để cầu xin nhận được báo cáo này càng sớm càng tốt.
Bồ Tát dạy chúng ta rằng một khi con người thực sự có thời gian thanh tịnh và có thể ngưng phiền não, là họ đã có được thanh tịnh rồi, thật không dễ dàng khi con cái đã trưởng thành và rời xa quý vị, thật không dễ dàng khi bản thân có được chút yên tĩnh, nhưng quý vị lại không buông xuống được. “Ôi! Con của tôi
rời khỏi tôi rồi, nó đi đến một nơi xa như vậy, liệu nó có bị lạnh bị đói không? Liệu nó có bị người khác bắt nạt không?” Quý vị không buông điều này, không nỡ điều kia, toàn bộ tự tìm phiền não, thì làm sao mà có được thanh phúc đây? Người ta nói: “Bạn đừng phiền não nữa, có lẽ bạn cần hưởng thụ thanh phúc rồi, phải không?” Quý vị vẫn khó mà thanh tịnh được.
Dù là 《Tâm Kinh》 hay 《Kinh Kim Cang》, đều bảo chúng ta phải hiểu rằng: “Tam tâm bất khả đắc” và quý vị phải có được cảnh giới mà ba tâm không thể có được này. Hãy thử nghĩ xem, quý vị biết quá khứ sẽ qua đi, nhưng tâm quý vị không thể kiểm soát được và vẫn còn ở trong quá khứ. Vậy thì liệu cái tâm này của quý vị có được thanh tịnh hay không? Quý vị lấy đâu ra thanh phúc đây? Khi ai đó nói với quý vị và quý vị sẽ nói: “Trước đây tôi như thế nào v.v..” rồi lại khóc, thì quý vị lấy đâu ra thanh phúc đây? Quý vị phải có cái cảnh giới này
– đã là quá khứ rồi, không còn nữa và đã kết thúc. Nhiều người sẽ không bao giờ quên được quá khứ của mình, và họ không bao giờ cảm thấy mình đang ở trong quá khứ, bởi vì họ chưa vượt qua được, họ không thể vượt qua được, họ tự nhủ: “Tôi không vượt qua được, bức rào cản này, tôi không thể vượt qua được”. Đó chính là bản thân quý vị không muốn vượt qua, quý vị mãi giữ nó trong lòng, và quý vị để những phiền não đó kích thích bản thân, làm tổn thương chính tâm hồn của mình.
“Hiện tại bất khả đắc.” Nhiều người nghĩ: “Tại sao hiện tại lại không thể có được? Nếu hiện tại không thể có được thì đợi đến khi nào? Khi nào mới có được đây? Thực tế thì hiện tại quý vị có thể có được gì? Những gì quý vị vừa có được sẽ biến mất trong chốc lát và trở thành quá khứ. Ví dụ: quý vị vừa có một bữa ăn rất vui vẻ và rất thích nó. Hiện tại, sau khi ngồi đây vài giờ, quý vị có còn cảm thấy vui như vậy nữa không? Quý vị nghĩ xem có thể có được không? Đã trôi qua rồi, quý vị sẽ chuẩn bị để ăn sáng vào ngày mai. Từ tối nay chúng ta phải đợi đến sáng mai mới có thể ăn được bữa sáng, đó lại là một khoảng thời gian dài nữa đối với một người thích ăn uống. Không có gì trong cuộc sống là
có thể đạt được. Phải đợi đến sáng mai, phải mất thời gian dài như vậy mới có thể được ăn món ngon mỹ vị đó, vì vậy mà “Tương lai bất khả đắc”.
Biết bao người đã cầu xin tương lai này nhưng thực tế nó vẫn chưa đến. Để đưa ra một ví dụ đơn giản, tất cả mọi người đều đã từng ở trong khách sạn và trong khách sạn có bữa sáng buffet miễn phí. Mọi người đều nghĩ: “Bữa sáng kết thúc lúc 10 giờ. Tôi nhất định phải gượng dậy lúc 9 giờ hơn để xuống ăn một bữa ngon lành.” Mọi người hãy nghĩ xem, có bao nhiêu người có cái tương lai này – tức là sáng mai có thể ăn bữa sáng? Khi trời vừa sáng họ có dậy nổi không? Có thể họ sẽ ngủ một giấc đến mười giờ rưỡi rồi, khi tỉnh dậy và nói: “Ồ, một bữa sáng ngon như vậy đã không còn nữa”. Vậy thì tương lai có thể có được không? Thời gian đã trôi qua lâu rồi. Vì vậy, tam tâm bất khả đắc (ba tâm không thể có được), quý vị cần phải có cảnh giới của ba tâm. Quý vị phải hiểu rằng đây là những phước báu trong quá khứ, đã đi rồi, qua rồi. Hôm nay nói với mọi người về phước báu và thanh phước, trước hết mọi người phải hiểu rõ ba tâm trong 《Kinh Kim Cang》 là không thể có được và quý vị phải có được cái cảnh giới này.
Nguyên tắc cơ bản của việc học Phật là cần phải tu tập đến mức hiểu được thân người khó được và Phật pháp khó nghe đến mức nào. Tâm thanh tịnh đối với người học Phật là khỏe mạnh, nếu con người có thể tĩnh lặng thì đó chẳng phải là khỏe mạnh hay sao? “Quả dục” chính là sự hưởng thụ của linh hồn. Nếu một người không có dục vọng thì sẽ thưởng thụ được nhiều, nhưng nếu có dục vọng thì sẽ đau khổ rất nhiều, chẳng hạn: “Tôi muốn có được cái này, tôi muốn có được cái kia, nhưng tôi không có được nó, nên tôi đau khổ biết dường nào”. Đôi khi mọi người mong muốn có được “ai đó hồi âm cho tôi”, nếu lúc đó tạm thời không nhận được sự hồi âm thì họ sẽ cảm thấy rất đau khổ. Cần phải “quả dục”, tức là thân thể khỏe mạnh và linh hồn vô dục, chính là có được tâm thanh tịnh – tâm thanh nhàn. Nhưng con người chúng ta khi được thanh nhàn, thì chúng ta ra sức muốn có nhiều hơn. Đó là vì mọi người không muốn được thanh nhàn. Vì vậy, khi chúng ta ở trong dục vọng, chúng ta sẽ từ từ tiêu hao hết
Tinh-Khí-Thần thực sự của mình. “Tôi muốn cái này vào ngày mai, tôi muốn cái này vào ngày mốt.” Tinh-Khí-Thần sẽ dần biến mất, và quý vị sẽ không thể có được sự thanh nhàn hạ mãn, cũng có nghĩa là quý vị không thể yên tĩnh, quý vị không thể đạt được sự thỏa mãn nhiều hơn. Chỉ bằng cách yên tĩnh và không có tham muốn, thì quý vị mới có thể thỏa mãn được. Những điều quý vị không có khả năng làm được sẽ khiến quý vị buồn. Đức Phật nói đến “điên đảo, đảo nhân sinh”, nghĩa là tất cả chúng sinh đều điên đảo, cho rằng bận rộn vô cùng là hạnh phúc, nhưng thực ra được thanh nhàn mới là hạnh phúc. Vì vậy, Bồ Tát nói chúng ta là “điên đảo chúng sinh” nghĩa là chúng ta rời xa phước báo, rời xa thanh phúc, nên liền rời xa trí tuệ. Điều Sư phụ nói với mọi người chính là muốn mọi người hiểu được những đạo lý này.
Lần trước nói với mọi người về nghiệp chướng, cần phải “diệt trừ chướng cấu vô hữu dư”, xin nhắc mọi người thêm một chút, hãy học cách “diệt trừ chướng cấu vô hữu dư”, tức là khi quý vị muốn tiêu trừ nghiệp chướng và bụi bẩn trong tâm thì phải “Vô dư” – không để cho nó chừa lại một chút không gian nào, toàn bộ tiêu diệt sạch, thì tâm thanh tịnh và tâm hổ thẹn của quý vị mới sinh khởi. Một sự việc cần phải sám hối triệt để. Tại sao Sư phụ lại yêu cầu mọi người phải sám hối triệt để? “Tại sao tôi lại làm điều xấu như vậy? Tôi thực sự rất xấu hổ.” Tốt rồi, sau khi quý vị đã sám hối, quý vị cảm thấy có lỗi và tâm quý vị liền trong sạch. Bởi vì quý vị đã sám hối sự bẩn thỉu của mình nên nghiệp chướng của quý vị đã bị quý vị nhìn thấu. Tại sao nhiều người lại có cảm giác về nghiệp chướng này trong tâm? Bởi vì họ không cảm thấy mình đã làm gì sai cả. “Tôi hận anh ta, anh ta hại tôi”, bởi vì quý vị không cảm thấy mình đã làm gì sai. Tại sao anh ta lại làm hại quý vị? Quý vị không có trách nhiệm gì sao? Chẳng lẽ quý vị chưa bao giờ làm tổn thương người khác sao? Hết thảy mọi chuyện, chỉ khi quý vị nhìn thấu được những nghiệp xấu này trên thân, thì quý vị mới có thể làm cho nghiệp chướng của mình không bị hình thành trên cơ thể của quý vị. Chỉ khi nhận thức được bản thân “Lẽ ra tôi không nên làm chuyện
này, lúc đó tôi đã sai” thì quý vị mới có thể thay đổi và mới có thể có được tâm thanh tịnh. Mọi hành động tu dưỡng tâm thức cuối cùng sẽ mang lại thiện quả. Đài trưởng hỏi mọi người, nếu mọi chuyện đều là lỗi của quý vị, thì quý vị có còn oán hận không? Nếu mọi chuyện đều là chính quý vị làm sai thì quý vị trách ai? Không trách ai nữa thì có phải trong tâm không có oán khí rồi sao? Không có nghiệp chướng nữa đúng không? Khi quý vị hận người khác và cảm thấy đều là họ không tốt, thì có phải quý vị đang cản trở trí tuệ của mình không? Điều đó cũng giống như lời Sư phụ đã nói với mọi người lần trước: “Bất vong sơ tâm, phương đắc thủy chung”, trên thực tế Phật pháp đã nói, không nên quên những việc tốt và việc xấu mình đã từng làm. Chuyện xấu này là để quý vị ghi nhớ không nên tái phạm, thì quý vị mới nhận được diệu hành thiện quả. Nếu là một cái tâm khởi đầu tốt, hãy vun trồng và tưới nước cho nó thật tốt, là quý vị đã giúp nó có được thiện quả cuối cùng. Theo thuật ngữ hiện đại, cái đầu tiên là cái cuối cùng. Việc kết bạn cũng vậy. Ví dụ, tại sao một số người có thể làm bạn với nhau hàng chục năm, trong khi những người khác chỉ có thể làm bạn trong vài tháng? Bởi vì khi mới kết bạn, cảm thấy “bạn thật tốt” như hình với bóng. Nhưng càng về sau mọi tật xấu đều lộ ra, phiền não liền ập đến, cuối cùng quý vị muốn rời xa người bạn ấy thật nhanh, nên hai người không thể làm bạn đến cuối cùng. Nếu quý vị nghĩ đến việc, vào thời điểm đó có được người bạn ấy khó khăn như thế nào, thì quý vị sẽ không tùy tiện buông tay người bạn này mà phải “phương đắc thủy chung”. Đối với việc học Phật cũng vậy, và đối với việc làm người cũng vậy đôi khi những điều bình thường nhất lại là điều sâu sắc nhất. Sự hiểu biết của chúng ta về Phật pháp có vẻ rất bình thường, nhưng thực ra, vài lời này chính là những “đại đạo lý” mà Sư phụ đã nói với mọi người. Nguyên tắc này không cần phải giải thích một cách phức tạp. Nó có thể được giải thích rõ ràng chỉ trong vài câu. “Bạn có làm những việc thiện không? Bạn có làm những việc ác không?” Một vài lời có thể làm cho đại đạo lý trở nên đơn giản, những đạo lý rất đơn giản sẽ giúp quý vị hiểu được những nguyên lý sâu sắc của Phật giáo.
77. Suy tính thiệt hơn là chướng ngại
Tập 77
SUY TÍNH THIỆT HƠN LÀ CHƯỚNG NGẠI
(23/05/2020)
“Bỏ đao đồ tể, thì sẽ thành Phật” Bỏ con dao đồ tể xuống không hẳn sẽ thành Phật ngay lập tức, nhưng nếu quý vị đặt con dao đồ tể xuống, quý vị sẽ có cơ hội thành Phật. Lão Tử từng nói: “Thận chung như thủy”.
Nghĩa là nói quý vị hãy giữ cẩn thận từ đầu đến cuối. “Thận chung như thủy” là nói với các đệ tử chúng ta rằng, quý vị coi mọi thứ quý vị vừa bắt đầu là nền tảng của cuộc sống và quý vị có thể tiếp tục như vậy cho đến cuối cùng. Con người có lòng quyết tâm, có tâm Kim Cang, có tâm Bồ đề, thì sẽ trước sau như một. Đây là điều Lão Tử đã từng nói: “Thận chung như thủy”- nghĩa là hãy giữ tâm thái cẩn thận giống như lúc đầu – Sư phụ đưa ra một ví dụ: nếu một người từ nhân viên trở thành người quản lý trong một công ty, anh ta khiêm nhường luôn coi mình là nhân viên như ban đầu, thì người quản lý này cuối cùng chắc chắn sẽ thành công, vì anh ta vẫn giữ được phong cách và thái độ ban đầu của mình, anh ấy vẫn giữ nguyên diện mạo vốn có của một nhân viên mà anh ấy đã từng làm trước đây, cho dù hiện tại anh ấy đang đảm nhận một vị trí CEO quan trọng, bởi vì trong lòng anh ta có những nền tảng bình thường này, nên anh ta hiểu được nguyên nhân và hậu quả, sẽ không để mình bị choáng ngợp bởi niềm kiêu hãnh và sự hài lòng chỉ vì thành công nhất thời của mình trên cương vị CEO. Đây chính là “Bất vong sơ tâm, phương đắc thủy chung” – nghĩa là không quên đi tâm nguyện ban đầu, mới có thể có phương hướng đi từ đầu đến cuối – Bất kể một người đang ở đâu trong cuộc sống, nên luôn giữ nguyên ý định như khi bắt đầu, thì điều đang chờ đợi họ chính là thành công. Bởi vì quý vị không tự mãn, không kiêu hãnh và cảm thấy bản thân rất tầm thường, quý vị chính là “Thận chung như thủy, tắc vô bại sự” – tức là quý vị thận trọng và kiên định thì sẽ không có gì thất bại. Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản mà chúng ta phải học từ lời dạy của Bồ Tát “Bất vong sơ tâm, phương đắc thủy chung”.
Bây giờ Đài trưởng sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện được ghi chép lại trong 《Tạp Thí Dụ Kinh》. Câu chuyện này không dài nhưng rất ý nghĩa.
Ngày xửa ngày xưa, có một người đồ tể giết cừu đã cầu xin với vua A-xà-thế rằng: “Thưa Đại Vương! Khi cần giết mổ bàng sinh (tức là cừu, trâu bò) trong các dịp lễ hội (chẳng hạn như có một dịp lễ hoặc một đại hội), xin Đại Vương giao phó cho tôi.
Quốc vương cảm thấy rất kỳ lạ và hỏi: “Hầu hết mọi người đều không muốn giết mổ, tại sao ngươi lại có nguyện vọng làm việc giết mổ này?”
Người đồ tể đáp: “Thưa Đại Vương, kiếp trước tôi là một người nghèo làm nghề giết cừu để kiếm sống. Nhờ quả báo giết cừu này, khi chết đi tôi được lên cõi trời Tứ Thiên Vương để hưởng phúc. Sau khi hết tuổi thọ ở cõi trời, tôi được đầu thai làm người, và tôi lại làm công việc đồ dương (vẫn làm nghề giết cừu). Ở nhân gian sau khi mạng sống kết thúc tôi lại được đầu thai đến cõi trời Đao Lợi… cứ như thế, tôi đã lên xuống hai cõi, trời và người đã được sáu lần rồi. Tôi rất hạnh phúc, cho nên bây giờ tôi vẫn có nguyện vọng làm đồ tể.
Người đồ tể nói rằng ông ta có một đời giết cừu, sau đó ông ta được tái sinh vào cõi Tứ Thiên Vương, tức là thiên giới, được hưởng thụ, sau đó thọ mệnh ở thiên giới kết thúc ông ta đầu thai vào cõi người, và ông ta lại làm nghề giết cừu. Sau khi giết cừu, thọ mạng kết thúc ở cõi người ông ta được đầu thai vào cõi trời Đao Lợi. Người này dù giết cừu nhưng cũng có thể lên được thiên giới, nên chính ông cảm thấy ông giết cừu có công đức, sáu lần lên xuống, vui vẻ vô tận, nên ông vẫn có nguyện vọng làm nghề như vậy.
Quốc vương hỏi: “Vậy làm sao ông biết được những nhân duyên này?” Người đồ tể liền đáp: “Tôi có túc mệnh thông”.
Sau đó, quốc vương đối với chuyện này canh cánh trong lòng, nên ông nhất định phải đến gặp Đức Phật để xin được chỉ giáo.
Đức Phật nói với quốc vương: “Quả thật ông ấy có túc mệnh thông. Trong quá khứ, ông ấy đã từng gặp một vị Bích Chi Phật, lúc bấy giờ ông sinh tâm hoan hỉ đối với Bích Chi Phật, chí tâm đế quan, ngưỡng thị kỳ thủ, phủ sát kỳ túc.” Đức Phật nói với quốc vương rằng: Người này quả thực có thể nhìn thấy quá khứ của mình. Trước đây ông ấy đã từng gặp một vị Phật Bích Chi, và ông sinh tâm hoan hỉ đối với vị Phật này, thực ra chính là cung kính bái lạy, sinh tâm hoan hỉ, nghĩa là “Tôi bái vị Phật này”, bái Ngài làm thầy. “Chí tâm đế quan” có nghĩa là theo Ngài rất dụng tâm học tập. “Ngưỡng thị kỳ thủ” có nghĩa là rất sùng bái; “Ngưỡng thị” nghĩa là ngước lên nhìn Phật ở trên, rất sùng bái. Tiếp đó, “phủ sát kỳ túc” có nghĩa là cúi đầu cung kính lễ lạy trước Bích Chi Phật, khi cúi đầu xuống như thể nhìn thấy bàn chân của mình vậy.
“Nhờ công đức này mà ông du hành đến Lục Dục Thiên, từ thiên giới tái sinh xuống nhân gian và còn có khả năng biết túc mệnh của mình (từ thiên giới đầu thai xuống nhân gian, vậy mà túc mệnh thông của ông vẫn còn). Nhưng sau khi kiếp này kết thúc, ông ta sẽ bị đọa vào địa ngục và chịu quả báo vì tội giết cừu. Sau khi ra khỏi địa ngục, ông ta sẽ đầu thai thành một con cừu để trả quả báo (tức là ông ta sẽ trở thành một con cừu ở kiếp cuối cùng, hơn nữa trước tiên ông ta phải xuống địa ngục để chịu quả báo). Vì túc mệnh thông của ông ta có hạn, nên ông chỉ có thể nhìn thấy những kiếp trước tái sinh lên Lục Dục Thiên của mình, mà không biết chuyện trước đó ông đã gặp Bích Chi Phật, nên ông đã ngộ nhận rằng việc giết cừu là nguyên nhân khiến ông được thăng thiên.”
Nói cách khác, trong quá khứ ông đã trải qua giai đoạn bái Phật bái sư, học Phật còn quá sớm, chuyện rất lâu trước đó ông không nhìn thấy được (vì túc mệnh thông có dài và ngắn, cũng giống như nhiều người trong chúng ta có năng lực, năng lượng lớn nhỏ). Ông chỉ thấy được chuyện quá khứ tái sinh ở Lục Dục
Thiên, mà không thấy được chuyện đã từng gặp Bích Chi Phật học Phật, ông chỉ có thể nhìn thấy ông ở trên trời, rồi đến nhân gian, ở nhân gian giết cừu, rồi lại trở về thiên giới… Trên thực tế phúc báo của ông vẫn chưa báo hết, và điều này có nghĩa là ông không biết nguyên nhân. Đây là điều Đức Phật đã nói.
Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng, nếu dùng thần thông thông thường để hiểu nhân quả thì chúng ta chỉ có thể hiểu được một phần, thậm chí có thể còn đáng sợ hơn những người hoàn toàn không hiểu nhân quả. Có nhiều người không hiểu nhân quả và chỉ hiểu được một phần về nó. Nhiều người nói: “Ồ, tôi đã từng nhìn thấy bạn có một kiếp là Bồ Tát trên thượng thiên.” Quý vị liền nghĩ mình là Bồ Tát, rồi cống cao ngã mạn. Thậm chí quý vị cũng không biết bao nhiêu kiếp trước mình là Bồ Tát, có thể đã có bao nhiêu kiếp luân hồi và bây giờ quý vị phải nhìn lại chính mình. Đây chính là kiến thức nửa vời nên còn đáng sợ hơn một người hoàn toàn không hiểu nhân quả. Bởi vì quý vị biết một chút về nhân quả… Cũng giống như người đồ tể này, luật nhân quả mà ông ta biết là hoàn toàn rối loạn, vậy nên ông ta mới ngộ nhận rằng nhờ giết cừu mà có thể lên trời hưởng phúc. Nếu nhờ giết cừu mà ông ta có thể tái sinh lên cõi trời, vậy chẳng phải nhiều người giết mổ liền dễ dàng đạt được hạnh phúc và lên cõi trời hơn những người tu hành thiện pháp hay sao? Sự thật không phải là như vậy, ông ta không nhìn thấy thiện Nhân mà ông ta đã trồng trước đó. Sư phụ đưa ra một ví dụ ở nhân gian cho mọi người hiểu: Người này làm việc ở cấp cao nhất của một công ty lớn hoặc một tập đoàn. Anh ta được yêu cầu đến một bộ phận khác để làm việc, nhưng anh ta đã phạm tội – anh ta không làm việc tốt trong bộ phận này, kết quả trong bộ phận này vẫn giao cho anh ta một vị trí lãnh đạo, hoặc giao cho anh ta một vị trí quản lý nhỏ. Nhiều người nói: “Tại sao? Tại sao sau khi phạm sai lầm, anh ấy vẫn là lãnh đạo?” Vì họ không biết thân phận trước đây của anh ta là tổng giám đốc của một tập đoàn lớn, nên dù làm việc ở một công xưởng nhỏ (tức là đã nhận quả báo), nhưng vẫn cao hơn những người chưa tu hành.
Đây là điều mà Sư phụ đang nói với mọi người. Hầu hết người bình thường không thể nhìn thấy nhân quả toàn diện, nhiều nhất thì họ chỉ có thể nhìn thấy một mặt nào đó mà thôi. Chẳng hạn như thế gian có người nói: “Người bất hiếu sẽ bị trời đánh.” vậy thì rất nhiều người bất hiếu đến bây giờ chưa bị sét đánh, cũng chưa bị trời đánh, vậy quý vị cho rằng họ là hiếu thuận sao? Vậy có ai bị sét đánh không? Có, người bị sét đánh là có. Nhưng có nhiều người bị chuột rút, bị ung thư và các loại bệnh ung thư lạ không thể chữa khỏi, chẳng phải báo ứng mà họ bị kéo xuống giống như bị sét đánh rồi sao? Không thể nói một cách phiến diện rằng bởi vì bất hiếu thì sẽ bị trời đánh. Đây là điều mà Bồ Tát nói với chúng ta về nhân quả. Những gì quý vị biết chỉ là một phần nhỏ mà thôi.
Chúng ta thời thời khắc khắc phải luôn hiểu rằng, đôi khi nhiều người thích cầu thần bói toán, hỏi chuyện tương lai và hỏi hiện tại nên làm như thế nào. Nếu người mà quý vị hỏi có quả vị hoặc trình độ ngoại cảm hạn chế, họ sẽ nói cho quý vị biết một phần nào đó mà họ nhìn thấy, nếu quý vị tin một phần nào đó là sự thật, thì quý vị sẽ coi cái giới hạn có hạn này là sự thật. Cuối cùng, chính họ cũng bị lừa dối, và quý vị cũng bị lừa dối. Đây là câu chuyện của ngày hôm nay vì người đồ tể này có túc mệnh thông nên có thể nhìn thấy quá khứ của mình và cho rằng mình có thể thăng thiên bằng cách giết cừu. Quý vị nói ông ấy có phải ngu muội hay không? Ông ấy không hề thấy quá khứ của mình đã từng thờ phụng tôn kính lễ lạy dưới chân Phật.
Trong câu chuyện này, Đức Phật nhắc nhở chúng ta rằng, là người Phật tử không nên tùy tiện tin vào nhân quả mà người thường vọng ngôn. Chúng ta không nên tự mình phán xét nhân quả, và chúng ta cũng không nên nói: “Điều này chắc chắn là đúng, điều kia chắc chắn là sai” “Làm như thế này sẽ như thế nào, làm như thế kia sẽ ra sao?” – nghĩa là quý vị quá độc đoán. Như sư phụ vừa mới nói với mọi người: “Bất hiếu sẽ bị trời đánh.” Thật sự bị sét đánh chết có mấy người? Nhiều người đối xử rất tệ với cha mẹ, giết cha giết mẹ, loại đại tội ngũ nghịch này, nhiều người trực tiếp bị tử vong – bị ô tô cán hoặc bị tai nạn ô
tô – không thể nói một cách phiến diện rằng họ sẽ bị sét đánh. Vì vậy, người có thần thông cũng không thể hoàn toàn coi thường nhân quả, cũng không thể nói nhân quả một cách tùy tiện. Nhiều người biết được một chút kiếp quá khứ của mình, họ nói chuyện, đùa giỡn một cách tùy tiện, như vậy là không được. Người bình thường nên chú ý và cẩn thận hơn.
Là người học Phật, chúng ta phải biết Nhân hiểu Quả và giữ gìn giới luật cho tốt. Quý vị hiểu rõ kiếp quá khứ của mình, thì càng phải có tu hành cho tương lai của mình. Vì quý vị rõ nhân quả, nên càng phải biết Nhân hiểu Quả, càng phải sợ Nhân sợ Quả, phải sợ thì mới không lạc lối. Mong rằng mọi người nhất định phải học Phật thật tốt, tu tâm thật tốt, nhất định phải biết nhân quả không sai chút nào. Nghiệp của chúng ta giống như cá mập, suốt ngày cắn xé chúng ta, có bơi cũng không thoát được. Vì vậy, nếu quý vị không tạo Nhân, thì sẽ không nhận Quả.
Thế nên, hy vọng mọi người nên buông thì phải buông. Ở nhân gian, càng không thể buông bỏ, lại càng dễ dàng mất đi. Hãy nhớ rằng, quý vị càng muốn nắm bắt, thì nó sẽ biến mất càng nhanh. Quý vị càng muốn có nó thì thường nó không phải là của quý vị. Càng muốn nắm chắc thì nó lại càng thường xuyên bị mất đi, quý vị muốn nắm chắc chuyện này, thì chuyện này cũng không phải của quý vị. Càng coi trọng, càng không có được (mọi người hãy nghĩ xem, trong cơ quan có rất nhiều người như vậy, “Tôi chỉ muốn làm trưởng khoa này, làm trưởng phòng này”, dốc sức nói với cấp trên “Tôi muốn làm, tôi muốn làm”, nhưng cuối cùng lại không giao vị trí này cho họ); càng quan tâm đến mọi thứ trên đời này, đôi khi càng khó nắm bắt, đó là điều chúng ta thường nói: “Vô tình cắm liễu liễu mọc xanh. Có lòng trồng hoa hoa chẳng nở.”
Trong cuộc sống, chúng ta luôn cho rằng thỏa mãn những tham muốn vô tận là đúng. Thực ra, chúng ta không thể mãi mãi có những tham muốn vô tận “tôi muốn cái này, tôi muốn cái kia”, rồi theo đuổi nó, lo được lo mất, nhất thời
không có được thì khóc lóc thảm thiết. Nhất thời có được lại vui vẻ vô cùng, cái này gọi là lo được lo mất. Chỉ khi biết buông bỏ chúng ta mới có thể nắm bắt được thời điểm hiện tại.
Vì vậy, Sư phụ hy vọng rằng thay vì phàn nàn về bóng tối, tốt hơn hết hãy thắp lên ngọn đèn trong tâm để soi sáng bóng tối. Làm người không nên vội vàng xao động, không nên phàn nàn, đừng để bản thân động một chút là không thể nhẫn nhục, không thể tinh tấn, như thế trí tuệ sẽ rời xa quý vị mà đi. Nhất định phải để cho tâm của mình tĩnh lại, mới có thể nghe được từng chuyển động của trái tim mình. Hãy quản lý tốt tâm trí và suy nghĩ của mình, quý vị liền thanh tịnh vô vi, và quý vị sẽ dần thoát khỏi những phiền não trên thế gian. Tu tâm như vậy mới được gọi là tu hành tinh tấn.
Được rồi, bài giảng dành cho đại chúng hôm nay xin tạm dừng tại đây, chúng ta hẹn gặp lại vào tiết mục lần sau, cảm ơn đại chúng.
78. Rộng lượng khoan dung chính là từ bi
Tập 78
RỘNG LƯỢNG KHOAN DUNG CHÍNH LÀ TỪ BI
(27/05/2020)
Được rồi, hôm nay chúng ta tiếp tục nói về “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Học Phật độ chúng, nếu quý vị muốn độ hóa người khác thì thực ra đó không phải là một việc dễ dàng, bởi vì khi quý vị đi độ hóa đối phương, đôi khi quý vị không hiểu họ, sẽ không biết được nói những lời nào họ muốn nghe và những lời nào họ không muốn nghe. Vậy nên Phật giáo dạy chúng ta phải “diệu” – tức là phải khéo léo, phương tiện thiện xảo, phải dùng phương pháp thuận tiện thiện xảo để độ chúng sinh. Trên thực tế, nói theo thuật ngữ hiện đại, chính là đừng để đối phương cảm thấy hoài nghi quý vị – nghĩa là đừng để họ nghi ngờ “bạn có mục đích gì, bạn có suy nghĩ gì, bạn cố tình muốn làm gì v.v..” Nếu quý vị không để đối phương có bất kỳ nghi ngờ nào, thì họ sẽ cảm thấy rằng quý vị đang chân thành giúp đỡ họ và họ sẽ dễ dàng tiếp nhận quan điểm của quý vị hơn. Vì vậy việc hóa giải những nghi hoặc của người khác là rất quan trọng. Khi họ hỏi quý vị một vấn đề gì đó, quý vị nhất định phải cẩn thận trả lời. Sau vài câu nói đầu tiên khiến họ cảm thấy quý vị đã hóa giải được những nghi ngờ của họ, thì họ sẽ sẵn sàng lắng nghe những câu tiếp theo của quý vị. Chẳng hạn như quý vị đi độ hóa một người và nói với người đó rất nhiều, nào là: “Học Phật rất tốt v.v..” Rồi họ hỏi: “Vậy tại sao bạn lại tìm đến tôi?” Quý vị trả lời: “Đó là do tôi với bạn có duyên với nhau, vì tôi cảm thấy thật tốt nên tình cờ gặp bạn và chia sẻ cho bạn nghe, xem xem bạn có duyên này không”. Nếu quý vị nói thật với họ, họ sẽ cảm thấy rất thân thiện. Nếu quý vị nói những lời giả dối rằng: “Thật là sự trùng hợp lạ kì và đúng lúc v.v..” Khi quý vị nói đến điều này, họ sẽ cảm thấy rằng quý vị đang nói dối. Khi đó họ sinh tâm nghi ngờ và Phật tánh của họ sẽ không hiển hiện. Vì vậy, những người thực sự muốn giúp đỡ người khác, những người muốn cứu người khác, để Phật tánh của đối phương hiển hiện, thì trước tiên quý vị phải để họ hóa giải đi những nghi ngờ trong lòng mình.
Phật giáo có mặt để cứu độ chúng sinh trên thế gian này và Phật giáo có mặt để giúp chúng sinh phá mê khai ngộ. Đừng để chúng sinh si mê bởi một điều gì đó, đó là quý vị đã và đang cứu độ họ. Nhiều khuyết điểm và tật xấu của con người chúng ta là do chấp trước mà ra, “Hôm nay tôi đã làm việc này, tôi phải hoàn thành nó cho bằng được, tôi nhất định phải làm như thế nào”, “Tôi nhất định phải mua cho được thứ này, phải mua được nhà”, Khi quý vị cố chấp vào tất cả mọi thứ, nó sẽ khiến cho quý vị si mê. Có rất nhiều người, khi quý vị khuyên bảo họ, nhưng họ vẫn không tỉnh ngộ, tại sao? Bởi vì họ đã mê mẩn rồi, mê đắm rồi.
Người mà hút thuốc, quý vị không cho họ hút có được không? Người mà uống rượu quý vị không cho họ uống có được không? Người đánh mạt chược quý vị có thể không cho họ chơi sao? Người cờ bạc quý vị không để họ chơi được sao? Tất cả những thứ này đều gọi là si mê.
Nếu rời khỏi thế gian để đi cứu độ chúng sinh thì sẽ không có được giác ngộ gì, vì sao? Đó là bởi vì trên thế gian còn rất nhiều người chưa giác ngộ, nên hôm nay tôi đã giác ngộ rồi, tôi giúp đỡ người khác để làm cho họ giác ngộ, và tôi cũng sẽ khiến mình giác ngộ hơn. Vậy nên, Phật pháp chính là làm cho mọi người ở thế gian giác ngộ, chỉ khi ở thế gian đã giác ngộ rồi, mới có thể tìm được ý nghĩa thực sự của Bồ Đề. Nhiều người nói: “Sau này tôi ra đi, khi được thăng thiên rồi, tôi nhất định sẽ minh tâm kiến tánh” – không thể nào, mọi người hãy ghi nhớ, quý vị ở nhân gian không giác ngộ, thì quý vị không thể thăng thiên được. Dù quý vị ở nhân gian có làm tốt đến đâu đi chăng nữa, nếu quý vị không giác ngộ, thì khi thăng thiên quý vị cũng không có phẩm vị gì. Muốn giác ngộ thì phải giác ngộ ngay từ bây giờ. Muốn “giác” thì phải cảm nhận ngay từ bây giờ, và phải giác ngộ ngay từ bây giờ chứ không phải đợi sau này. Cũng giống như nhiều người nói: “Bây giờ tôi khổ quá, mai sau tôi sẽ hưởng được
phúc ở thượng thiên”. Bởi vì quý vị chưa tận hưởng được Pháp hỷ mà ý nghĩa đích thực của Phật pháp mang lại cho nhân gian, thì làm sao quý vị có thể lên thiên để hưởng Pháp hỷ? Ở nhân gian, khi quý vị vẫn chưa thể nghĩ thông suốt và vẫn đang đau khổ về mặt tinh thần mỗi ngày, thì làm sao quý vị có thể hiểu được ý nghĩa thực sự của Bồ Đề? Quý vị sẽ không bao giờ giác ngộ được? Vậy nên Đức Phật được sinh ra ở thế gian, bởi vì ở thế gian có rất nhiều người cần chúng ta cứu độ, nên ở thế gian tu hành khiến chúng ta học tập được rất nhiều. Trong Phật giáo có câu “Phật pháp không thể tách rời khỏi thế gian”. Muốn tìm được Chánh đẳng Chánh giác chỉ có thể tìm được ở thế gian con người (tìm được Chánh giác là phải tìm được giác ngộ đúng đắn). Mọi người hãy nghĩ xem, trên thiên thượng mỗi vị Bồ Tát đều đã giác ngộ, đã thoát khỏi lục đạo và mỗi vị đều có tu vi. Chỉ có ở nhân gian quý vị mới có thể tìm được Chánh giác và mới có thể tìm cách để giúp đỡ người khác, bằng không thì rất khó tìm được.
Phật là vô hình, Phật không có hình tướng. Phật là gì? Ngài không có hình, không có tướng, cho nên nói không có hình tướng tức là không có hành tung
{Tung tích hành động}, không có tướng tức là ở trong tâm của quý vị. Rốt cuộc là Phật ở đâu? Phật ở trong tâm quý vị.
Cảnh giới của một người có cao hay không có thể được xác định bằng cách nhìn vào tố chất của người đó. Khi hai người ở cùng nhau, quý vị sẽ biết họ có phải là Phật hay không bằng cách nhìn vào tố chất của họ. Vì vậy, khi học Phật, việc đầu tiên cần làm là làm người lương thiện và biết giúp đỡ người khác. Có những biểu hiện cụ thể nào trong việc học Phật không? Hôm nay Sư phụ sẽ giảng cho mọi người nghe về những biểu hiện cụ thể.
Trước hết, biểu hiện đầu tiên là: quý vị phải học cách làm người thiện, người thiện là người biết giúp đỡ người khác, không phải là người ác, đây là thứ nhất.
Thứ hai, phải biết cách làm việc thiện như thế nào, nhiều người hằng ngày chỉ lo việc riêng ở nhà mà không bao giờ quan tâm đến người khác, chỉ quan tâm
đến cảm xúc của bản thân mà không biết nghĩ cho người khác, thì việc thiện này của họ làm sao mà làm đây? Cho nên làm việc thiện như thế nào là vô cùng quan trọng.
Thứ ba, nếu muốn thay đổi thì trong tâm phải có nền tảng rõ ràng về cách thay đổi tâm tham, sân, si của mình. “Làm sao tôi có thể thay đổi tâm tham của mình? Nếu tôi cho đi nhiều hơn, thì tôi sẽ không còn tham nữa”. Làm sao tôi có thể thay đổi được tâm sân hận của mình? Nếu sân hận quá mức, tôi sẽ ngày càng xa rời trí tuệ, vậy làm thế nào để thay đổi đây? Hãy từ bi hơn. Làm thế nào để tôi không ngu si? Hãy có nhiều trí tuệ hơn. Trí tuệ đến từ đâu? Tịnh, an tĩnh, bình tĩnh, trang trọng, nghiêm túc, yên lặng. Sau khi quý vị an tĩnh như vậy, quý vị có thể chuyển hóa được tham, sân, si trong lòng, và Phật tánh mới từ từ thể hiện trong tâm quý vị. Sự khéo léo của việc học Phật nằm ở chỗ, quý vị có thể thể hiện được Phật tánh trong tâm mình, để khi người khác nhìn thấy quý vị, họ sẽ cảm thấy rằng quý vị có Phật tánh trong tâm. Quý vị để cho người khác nhìn thấy quý vị và cảm nhận được quý vị có tố chất, có tu dưỡng và có tố dưỡng, nghĩa là lời nói, hành vi và suy nghĩ của quý vị khiến người khác cảm nhận được quý vị là người học Phật.
Vì vậy, hãy nhớ rằng: Hành Bồ Tát đạo, Bồ Tát đạo chính là tự lợi lợi tha, luôn luôn tự mình nhận được lợi lạc, sau đó làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, tiếp đó dùng phương tiện thiện xảo, khéo kéo dùng bất cứ phương pháp nào mà quý vị có thể làm được để giúp đỡ người khác khai ngộ. Ví dụ, nếu người này rất thích ăn đồ quý vị nấu, thì quý vị cứ nấu một ít đồ cho họ, cũng giống như giữa những người hàng xóm với nhau, trong nhà quý vị nấu món gì thì mang cho họ món đó, sau khi ăn, họ sẽ trở nên thân thiết gần gũi với quý vị hơn. Khi đó quý vị đi độ họ thì đấy chính là thiện xảo. Quý vị cho họ một phương tiện để cuối cùng họ có thể ngộ đạo và thành Phật: “Thì ra Bồ Tát là giúp đỡ người khác, đúng vậy, nên tôi cũng muốn giúp đỡ người khác”. Vì vậy, người học Phật không thể rời khỏi thế gian để tìm Bồ Đề. Trí tuệ Bồ Đề chính là bắt đầu thực
hành từ bây giờ, bắt đầu tìm từ bây giờ. Nếu quý vị rời khỏi thế giới này, quý vị sẽ không thể tìm thấy nó. Quý vị có thể tìm thấy một người lương thiện trong cõi ngạ quỷ không? Nếu họ là một người lương thiện, thì họ sẽ không bị đọa đến cõi ngạ quỷ. Chính là cái đạo lý này.
Tu hành phải ở thế gian. Tại sao tu hành phải ở thế gian? Ngộ đạo cũng ở nhân gian, vì sao? Vì ở nhân gian có khổ có sướng, hơn nữa khổ còn nhiều hơn sướng. Nếu quý vị quá sướng, quý vị sẽ không muốn tu tâm chút nào. Ở cõi trời, quý vị quá hạnh phúc nên rất khó tu tập. Vậy thì ở cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ và cõi súc sinh đều rất khổ, khổ quá cũng không nghe được Phật pháp, nên không có cách nào để tu. Ở cõi người là tốt nhất, vì có cả đau khổ và hạnh phúc. Tuy rằng lúc vui vẻ không nghĩ đến tu tâm, nhưng khi quý vị đau khổ, quý vị sẽ nghĩ “làm sao để tôi được giải thoát?” Thì đây chính là con đường giải thoát của quý vị.
Trong cuộc sống, quý vị cần dùng diệu pháp để tu hành, nghĩa là có thể hiểu được người khác và giúp đỡ người khác. Cần phải vượt qua các loại ác niệm trong thân tâm – bởi vì con người có liệt căn tính (bản chất xấu), như ích kỷ, hại người lợi mình, hại người khác, luôn nghĩ đến bản thân nhiều hơn nghĩ đến người khác, thực ra người như vậy nói theo quan niệm của Phật giáo, thì gọi là ác niệm. Người ích kỷ, loại ích kỷ đó sẽ làm tổn thương người khác, ích kỷ giống như cái gai trên người, nó sẽ đâm tổn thương người khác. Nếu quý vị bảo vệ bản thân quá độ, thì sẽ làm tổn thương người khác. Phải hiểu rằng không được có tham sân si, muốn chứng kiến được Phật tánh, thì nhất định phải khắc phục ác niệm, ác hành, ác ý trên thân mình. Có người thường nói: “Việc này tôi không có ác ý”, nhưng có đôi khi có ác ý làm tổn thương người khác và đôi khi không có ác ý làm tổn thương người khác. Nếu quý vị quá ích kỷ và nói rằng: “Tôi không làm tổn thương bạn, nhưng tôi ích kỷ, tôi không muốn nói với bạn”, liệu người ta có nổi giận không? Không phải Sư phụ đã từng kể qua câu chuyện, có một người tự tìm bên phía đại diện di dân để làm giấy tờ, khi họ đã có được
giấy định cư, người ta hỏi họ là nhờ bên phía đại diện di dân nào làm, nhưng họ không nói và không muốn nói cho ai biết về cách làm này, mặc dù họ đã lấy được giấy định cư.
Hôm nay quý vị làm xong rồi mới nói cho người khác biết, thì quý vị đã thuộc về loại người ích kỷ rồi, có nhiều người tuy chưa làm xong nhưng họ đã nói cho người khác biết. Huống chi người làm xong rồi mà vẫn không nguyện ý nói cho người khác biết. Thành thật mà nói, hôm nay quý vị nấu một món ăn, nếu mọi người cũng nấu ngon như quý vị, có phải tốt hơn không! Tại sao ngay cả nấu một món ăn, nấu như thế nào để ngon hơn, cũng không muốn nói cho người khác biết? Vậy nên, con người cần phải thay đổi. Cũng giống như tính cách của một đứa trẻ, tính cách của nó thời thơ ấu tương đối tốt bụng, tại sao nó có thể ngày càng trở nên xấu đi? Vì nó đã thay đổi rồi, nó đã thay đổi và trở nên xấu xa. Mặc khác, có đứa khi còn nhỏ rất ích kỷ, nhưng khi lớn lên và hiểu được cách làm thế nào để trở thành một người có phẩm chất cao quý, bản thân nó dần dần cũng đang thay đổi.
Khi nói đến “Bạch Thoại Phật Pháp”, chúng ta làm người cũng vậy. Ở góc độ công việc mà nói, đôi khi chúng ta phải gác lại những thành tựu đã đạt được và không cảm thấy rằng mình đã đạt được rất nhiều thành tích, phải luôn ghi nhớ những khuyết điểm và thiếu sót của bản thân, như vậy mới có thể tiến bộ. Trong cuộc sống, không nên tham muốn tiền bạc và danh tiếng quá mạnh mẽ, vì nếu tham muốn quá mạnh sẽ làm tổn thương quý vị và khơi dậy lòng tự trọng của quý vị. Kích hoạt lòng tự trọng thực ra là một loại tham muốn, nghĩ rằng mọi thứ trên đời này – tiền bạc, danh tiếng v.v.. đều có thể có được, đó là một loại suy nghĩ thấp hèn và yếu kém, bởi vì tất cả đều không thể có được. Vì vậy, hãy biết cần kiệm và giản dị, đồng thời hãy buông bỏ sự oán hận và đố kỵ về mặt cảm xúc. Người mà lúc nào cũng ghen tị với người khác, họ có thể trở thành
người cao thượng được không? Người mà lúc nào cũng ghen tị với người khác, lúc nào cũng oán hận người khác, hễ mở miệng ra không phải cái này không tốt thì cái kia không tốt, người như vậy có thể làm được điều tốt không?
Chúng ta phải học cách rộng lượng khoan dung giúp mọi người làm điều tốt. Trong đối nhân xử thế, quý vị nên quên đi những ân huệ mà mình đã từng làm cho người khác – nghĩa là đã từng đối xử tốt với người khác thì không cần ghi nhớ. Có người từng nói với Sư phụ rằng sau khi giúp đỡ người khác, nếu người này thường nhắc: “Tôi đã giúp cái này, giúp cái kia” trong lúc nói chuyện, thì họ không phải là người học Phật hay người khoan dung khoan hậu. Một người hay giúp đỡ người khác, trừ khi họ muốn giáo dục người ta thì mới nói: “Tôi đã từng giúp người này, người kia, người nọ…” trong lúc nói chuyện như vậy. Vì vậy, hy vọng mọi người phải hiểu được, không nên thường xuyên đề cập đến ân huệ đối với người khác. Hãy nhớ sự giúp đỡ mà người khác dành cho quý vị, đó là điều quan trọng nhất. Khi quý vị đã từng giúp đỡ người khác, nếu việc đó từ miệng người khác nói ra, thì quý vị là người cao quý. Nếu việc đó từ chính miệng quý vị nói ra, thì nhân cách của quý vị vẫn còn khiếm khuyết. Trong việc đối nhân xử thế, nếu không thể buông bỏ những gánh nặng, khuyết điểm, oán hận đó, thì nó chỉ khiến bản thân đứng ở đáy vực của cuộc đời mà thôi.
79. Phi sắc phi không, vô trở ngại
Tập 79
PHI SẮC PHI KHÔNG, VÔ TRỞ VÔ NGẠI
(27/05/2020)
Nhiều người cả đời đều đang đứng ở đáy vực của cuộc đời. Tại sao vậy? Vì họ luôn cảm thấy bất mãn, luôn cảm thấy oán hận, luôn cảm thấy cuộc sống của mình có gánh nặng và không vui. Nếu làm như vậy, sẽ không thể nhìn thấy ánh sáng hay hy vọng và sẽ sống trong phiền não. Vì vậy, làm người muốn suy nghĩ thông suốt mọi chuyện, thì phải học cách buông bỏ. Buông bỏ là một thái độ tích cực đối với cuộc sống: không sao cả, mất thì cũng đã mất rồi, thiệt hại thì cũng đã thiệt hại rồi, bị người khác nói thì cũng đã bị nói rồi. Nếu bị người khác la mắng thì quý vị vẫn là quý vị, quý vị có mất mát gì đâu? Cho nên, tại sao người học Phật có thể thành công, trong khi những người ích kỷ thường nhiều lần thất bại? Mấu chốt chính là họ có thể buông xuống hay không mà thôi. Đợi đến khi thật sự trở nên siêu nhiên (đây cũng có nghĩa là một kiểu khái niệm của vượt qua khỏi giới hạn của bản thân, khi vượt qua khỏi giới hạn của bản thân mới có thể vượt qua chướng ngại). Cũng giống như khi ở thế gian, nếu quý vị ở cùng với người khác, sẽ không cảm nhận được họ đang tức giận quý vị, sẽ không cảm nhận được ảnh hưởng của pháp thế gian đối với quý vị. Tại sao lại nói “Ảnh hưởng của pháp thế gian đối với quý vị?” Rất đơn giản, pháp thế gian chính là phải tùy duyên đối mặt với sự thật này, rằng người khác có đối xử tốt với quý vị hay không, và liệu quý vị đã đủ duyên chưa, trên thực tế đều là pháp thế gian. Phải làm thế nào để bản thân khai ngộ minh bạch, để không phiền muộn trong lòng đây? Cần phải biết điều chỉnh bản thân như thế nào để không phiền muộn trong lòng. Thậm chí đến chính mình cũng không có cách nào để làm cho bản thân tránh gặp phiền não, vậy thì làm sao quý vị có thể vượt qua được chướng ngại này và ngăn bản thân khỏi phiền não đây? Sư phụ nói với mọi người chính là cái đạo lý này. Bất kì lúc nào quý vị cũng cần biết Nhân hiểu Quả – nếu hôm nay gieo Nhân, cần biết sẽ có quả báo gì đến. Không phiền não được gọi là giải thoát. Nếu hôm nay quý vị có thể thoát khỏi phiền não, thì quý vị đã được giải thoát rồi.
Linh hồn của chúng ta đang học Phật, sau khi học Phật, chúng ta phải vượt lên chính mình. “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Thế giới đầy màu sắc này chẳng mấy chốc sẽ không còn nữa. Vừa rồi quý vị đã nổi giận, nhưng sau một hồi thì cơn giận của quý vị biến mất. Vừa rồi quý vị mất bình tĩnh, sau một hồi bình tĩnh trở lại. Vừa rồi cảm thấy sự việc này vô cùng nặng nề, qua một lúc sau sự việc này liền trôi qua. Vì lẽ đó mà “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Trước đây trong chùa có rất nhiều cao Tăng, dùng tiếng gõ mõ để ví von với sự rỗng Không. Âm thanh của mõ gỗ này, có phải được tạo ra bằng cách đục rỗng bên trong lõi gỗ để tạo ra tiếng vang không? Âm thanh này là rỗng không. Nếu gõ vào rỗng Không mà có tiếng vang thì đó chính là “không tức là sắc”. Và bởi vì rỗng Không này đến từ gỗ, nên lại là “sắc tức thị không”. Nếu gõ vào gỗ cứng sẽ không phát ra âm thanh, bởi vì nó không được đục rỗng, không được khoét rỗng. Tuy biết rằng một miếng gỗ có thể được đục rỗng, nhưng nếu nó không đục rỗng thì gõ vào gỗ sẽ không phát ra âm thanh nào. Chỉ bằng cách đem nó khoét rỗng thì khi gõ mới phát ra âm thanh này. Chính là cho chúng ta biết rằng nếu quý vị nhìn nhận mọi thứ đến cùng và thay đổi nó, thì quý vị sẽ thay đổi được quan điểm và cách nhìn của mình. Sắc có thể biến nó thành Không, lại cũng có thể biến Không thành Sắc. Quý vị phải đạt được sự chuyển hóa cảnh giới – khi cảnh giới trống rỗng, thì Sắc sẽ được coi là tánh Không. Nếu quý vị không thể ngộ ra trong Không có Sắc, và khi cảm xúc, tưởng niệm, hành vi, ý thức của quý vị do dự giữa Không và Sắc, thì lúc đó đều không phải là trống rỗng. Bởi vì quý vị không thể thấy được rằng gỗ có thể đục rỗng và phát ra âm thanh, nhưng không thể tạo ra âm thanh khi gõ trực tiếp vào gỗ nguyên khối. Vì thế khi nhìn vào vấn đề, phải thấy được sự chuyển hóa của nó. Thụ, tưởng, hành, thức của quý vị, sự tiếp nhận tư duy, ý thức, hành vi và những hành vi trong suy nghĩ của quý vị, thực chất đều trống rỗng, bởi vì quý vị đã nói và đã nghĩ về nó rồi thì tất cả đều là rỗng không. Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Cũng có nghĩa là những thứ rỗng không thực ra được làm từ khúc gỗ thật này, còn khúc gỗ rỗng là do chạm khắc mà có được. Khi quý vị nhìn thấu được
khúc gỗ còn có thể trở thành tánh không, quý vị sẽ không cho rằng khúc gỗ này vĩnh viễn không thể phát ra được tiếng vang, vậy thì quý vị liền có thể nhìn rõ được thế giới này. Như chúng ta thường nói, phải nhìn thấu được ngũ uẩn giai không. Cũng như khi nói đến tính cách của một người, “Người này sẽ không thay đổi, người này không thể thay đổi được nữa”. Đúng vậy, rất khó để thay đổi, nhưng cuối cùng người đó đã có thể thay đổi, điều này còn tùy thuộc vào mức độ nỗ lực của chính họ.
Vậy nên, đối với hai chữ “Sắc” và “Không”, chúng ta nên hiểu rằng phi sắc phi không {đó không phải là Sắc cũng không phải là Không}. Điều đó không có nghĩa là mọi thứ trên thế giới này không thể thay đổi, cũng không có nghĩa là mọi thứ trên thế giới này đều thay đổi. Thực thực tại tại, nó vừa không phải là Sắc cũng không phải là Không, cũng không phải là không nhìn thấy, cũng không phải là nhìn thấy được. Vậy rốt cuộc là nhìn thấy hay là không nhìn thấy đây? Trường hợp cái mõ mà Sư phụ vừa giảng cho mọi người chính là như vậy. Khúc gỗ này có thể gõ được sao? Khúc gỗ này có thể gõ ra tiếng vang không? Khúc gỗ làm sao có thể gõ ra được tiếng vang? Gõ không ra tiếng vang, nếu khoét rỗng nó và làm thành một cái mõ, thì nó có thể gõ ra tiếng vang được.
Phi tưởng phi vô tưởng. Con người cũng vậy, quý vị nghĩ người này là người tốt hay người xấu? Quý vị nói anh ta là người tốt, nhưng anh ta luôn ích kỷ vô cùng, thì loại người này làm sao được coi là người tốt? Quý vị nói anh ta là người xấu nhưng lại hay giúp đỡ người khác. Rốt cuộc anh ta được coi là người tốt hay người xấu? Vậy thì không phải người tốt, cũng không phải người xấu, chính là như vậy. Cho nên phi tưởng phi vô tưởng, chúng ta nói cái mõ được làm từ gỗ, cái mõ nhất định không thể tách rời khỏi khúc gỗ, dùng sự bình đẳng không phân biệt này để nhìn thế giới một cách chân chính, thì quý vị sẽ hiểu được vì sao đạo Phật nói thế giới này mọi người đều bình đẳng, mọi người đều có thể thay đổi, mọi người đều có Bát nhã, và tại sao tất cả chúng sinh đều có
Phật tánh. Dần dần khi quý vị ngẫm lại, sẽ hiểu được câu nói chân đế này của Đức Phật.
Những Cao Tăng Đại Đức có cảnh giới thực sự cao họ đều xem tất cả chúng sinh là Phật tương lai, không coi mọi người là “gõ không vang” như khúc gỗ. Quý vị đều là Phật vị lai. Nếu quý vị tu mà không có tâm phân biệt, quý vị đối xử với người khác như anh chị em của mình, thì tu hành đó chính là tu vi thực sự. Cảnh giới cao của người học Phật được sinh ra từ tâm bình đẳng. Quý vị thử nghĩ xem, nếu một người không có tâm bình đẳng thì làm sao có được tâm Phật? Nếu quý vị nhìn người khác với tâm bình đẳng thì quý vị sẽ hiểu điều mà giới Phật giáo thường nói: “Vạn vật bổn đồng nguyên, chúng sinh như thị”, nghĩa là vạn vật vốn cùng một nguồn gốc, và tất cả chúng sinh cũng vậy” – chúng sinh đồng căn đồng nguyên, chúng ta đều có Phật tánh, chúng ta đều có thể trở thành Phật tương lai. Kinh Phật nói: “Tất cả đàn ông trên thế gian đều là cha tôi, tất cả phụ nữ trên thế gian đều là mẹ tôi”, nếu quý vị có loại tâm thái cảnh giới cao này, sẽ không bao giờ sinh ra tâm đố kỵ hay tâm phân biệt trên thế gian. Tại sao con người chúng ta lại tranh đấu với nhau? Nếu không có cái cảnh giới này, chúng ta sẽ nhìn mọi người qua cặp kính màu. Nhiều người coi quý vị như một khúc gỗ. Họ nói đầu óc quý vị giống như một khúc gỗ, gõ cũng gõ không vang, nhưng có nhiều người đầu óc rất linh hoạt.
Hãy lấy tâm bình đẳng làm gương, thường xuyên nhìn lại hành vi của mình để xem mình có coi thường người khác không! Là một con người, quý vị đã nhận thấy hết những khuyết điểm của mình chưa! Tất cả những tham, sân, si, mạn, nghi không nên có trong tâm mình đều phải được thấy rõ. Quý vị nên nhìn ra góc độ tư duy về Không quán, tức là quý vị có cảm giác về một tương lai rộng lớn và quý vị có thể nhìn thấy tương lai không? Quý vị có tư duy về Không quán không? Điều đó có nghĩa là quý vị có thể làm trống rỗng tâm thái của mình và không bị vướng mắc vào những phiền não, lời nói hay sự việc nhỏ nhặt trong đó, thì tư duy của quý vị chính là Không quán rồi. Nếu quý vị quan sát
toàn bộ thế giới đều trống rỗng, nó sẽ không gây hại hay gây phiền não cho quý vị. Chỉ là quý vị đã nhìn thấy được những phiền não và buồn phiền thực thực tại tại của nó, nên quý vị đã rời xa cái loại thực tướng nhìn thấu hồng trần này, quý vị không thể phản chiếu được chính mình, cũng như không thể quán chiếu được tâm tham, sân, si, mạn, nghi trong thân mình, và quý vị sẽ để cho thói hư tật xấu của mình ẩn náu. Tại sao thói hư tật xấu của nhiều người lại nặng như vậy? Bởi vì họ không thể thấy được tật xấu ở họ. Khi một người thường bị quấy rầy bởi những phiền não và thường sân hận nghiệp chướng của mình sâu nặng, đây là lúc họ đang bị thử thách, là đang giải thoát bản thân khỏi sự ràng buộc và cũng là đang bước đi trong quá trình được giải thoát khỏi sự ràng buộc đó. Vì vậy, đôi khi thấy những phiền não của mình ập đến, liền cảm thấy rất vui vẻ: “Phiền não của nhân gian ập đến rồi, tôi có cách, tôi phải dùng trí tuệ để vượt qua nó”. Hôm nay tôi đã nghĩ thông suốt, tôi đã cười được rồi, không phiền não nữa, tôi lại tự chiến thắng được 1 kiếp (nạn) của mình”. Mọi người hãy nhớ rằng, bất kỳ tai kiếp nào cũng sẽ gây ra tai nạn, nên được gọi là “kiếp nạn”. Có kiếp thì chắc chắn sẽ có nạn, cho nên “kiếp” “nạn” là liên kết với nhau.
Sư phụ bảo mọi người hãy giải thoát xiềng xích cho tất cả chúng sinh, nghĩa là ngoài việc giải thoát cho chính mình, quý vị còn phải giúp đỡ người khác giải thoát. Muốn giải thoát xiềng xích cho tất cả chúng sinh, thì trước tiên quý vị phải giải thoát chính mình, trước khi có thể giúp tất cả chúng sinh tự giải thoát khỏi sự trói buộc của họ. Giống như Sư phụ đã dạy cho mọi người, làm sao quý vị có thể giúp đỡ người khác nếu quý vị chưa tu sửa bản thân tốt? Có người đi khuyên người khác, người khác ở trước mặt họ khóc sướt mướt và nói rất nhiều điều không tốt, họ chẳng những không có cách nào đi giúp đỡ người này, mà cuối cùng còn cùng bị phiền não theo họ. Đối với cảnh giới của chúng sinh phải “bất sinh pháp nhẫn”, nghĩa là đối với cảnh giới của người khác phải học cách bao dung, đừng sinh ra quá nhiều tâm phiền não. Nếu quý vị không phiền não và dùng tâm bình đẳng, thì nhiều chuyện sẽ trôi qua với quý vị như chưa từng
xảy ra. Làm người không nên vướng mắc, người học Phật tinh tấn không nên thoái lùi, tức là không lười biếng mà luôn tiến về phía trước.
Phải tu pháp xuất thế. Sư Phụ nói với mọi người rằng việc tu pháp xuất thế là rất quan trọng. Ví dụ, quý vị đang ở thế gian, sự việc này khiến quý vị đang vô cùng đau khổ, quý vị hãy nghĩ: “Tôi đâu muốn ở nhân gian để làm gì, tôi không việc gì phải tranh giành? Tôi cố gắng tu tâm mình cho tốt. Chớp mắt mấy mươi năm đã trôi qua. Sau này sẽ đi về đâu? Chúng ta mỗi người đi một ngã, không ai biết được”. Mọi sĩ diện, mọi ý tưởng đều sẽ biến thành tro bụi. Cũng giống như hồi còn trẻ chúng ta có quá nhiều ý tưởng, sống mấy chục năm cũng có quá nhiều ý tưởng, và bây giờ thì không thể nhớ bất cứ điều gì.
Hãy học cách tu tự tại thanh nhàn. Tự tại thanh nhàn nghĩa là gì? Yên tĩnh, “thanh” nghĩa là trong sạch. Chỉ khi nào quý vị tự tại và thanh nhàn rồi thì mới có thể tu tịnh độ trong tâm quý vị, bằng không cả đời cũng tu không được tịnh độ. Chúng ta không những phải tu cõi tịnh độ trong tâm mà còn phải học tướng hảo trang nghiêm của Phật. Đôi khi quý vị nói những điều kỳ quặc hoặc pha trò, quý vị không thể nhìn thấy được khuôn mặt của mình trông rất kỳ lạ. Khi quý vị kể một câu chuyện cười, diện mạo quý vị cười rất phù phiếm và quý vị cảm thấy rất vui vẻ, khi đó tâm và khuôn mặt của quý vị không hề trang nghiêm chút nào, điều này khiến người khác coi thường quý vị. Vậy nên Phật thổ thanh tịnh trong lòng từ đâu mà có? Chỉ cần nói một câu và suy nghĩ xem, mình có giống Bồ Tát không? Động niệm một chút, nghĩ xem mình có giống Bồ Tát không? Làm một việc, nghĩ xem mình có giống Bồ Tát không? Hôm nay la mắng có đúng không? Có thể cãi nhau với người ta không? Nếu muốn ở nhân gian có được tướng hảo trang nghiêm thì phải hiểu rằng không chỉ khác biệt với người khác về ngoại hình – quý vị nhìn xem có một số người trang điểm rất đẹp, nhưng tướng mạo thì khác, dường như họ có vẻ xinh đẹp hơn những người khác, nhưng họ có trang nghiêm không? Trong khi đó, một số người già có đầy nếp nhăn trên khuôn mặt, khi họ bước ra, mọi người đều rất tôn kính họ. Tại sao vậy? Không
phải do họ đẹp hay bởi đã làm phẫu thuật thẩm mỹ, mà đó là cảnh giới thiền tu của pháp xuất thế được tu từ trong nội tâm mà ra, ánh mắt của họ không chỉ khiến quý vị cung kính nể phục, mà còn đạt tới tướng hảo trang nghiêm.
80. Nhẫn nhục là một loại sức mạnh
Tập 80
NHẪN NHỤC LÀ MỘT LOẠI SỨC MẠNH
(27/05/2020)
Đôi khi nếu quý vị nhìn vào tướng mạo của Bồ Tát thường xuyên hơn, thì quý vị sẽ biết được tướng hảo trang nghiêm là như thế nào. Chúng ta tu tâm tu càng về sau, từ trong tâm phải thực sự toát ra được một loại tướng mạo khác với người thường, loại tướng mạo này vô cùng thanh tịnh và đặc biệt không tham (theo cách nói ngày nay), nghĩa là trong ánh mắt của quý vị không có tham, không có sân, không có si. Quý vị nhìn thấy rất nhiều kẻ ngốc hay người bệnh nhân tâm thần, từ ánh mắt của họ có thể thấy được sự ngốc nghếch của họ. Quý vị có nhìn ra được điều đó khi họ nhắm mắt ngủ không? Khi họ vừa mở mắt ra, quý vị nhìn vào mắt họ, liền biết được họ là một người có vấn đề về thần kinh. Vì vậy, ánh mắt của quý vị phải trang nghiêm và trong sáng, để trái tim của quý vị có được sự trong sáng và trang nghiêm. Đừng làm ảnh hưởng đến sự yên tĩnh trong tâm hồn của tất cả chúng sinh. Chỉ khi tất cả chúng sinh có được lợi ích thì bản thân quý vị mới nhận được lợi ích từ Pháp. Quý vị tạo ra một diện mạo trang nghiêm cho người khác, thì quý vị sẽ có được nhiều pháp tướng trang nghiêm hơn cho chính mình. Nếu một cô gái bỏ đi mà không nghe hay nhìn khi mọi người đang kể những câu chuyện hạ lưu, cô nghe cũng không nghe, nhìn cũng không nhìn liền rời đi, thì người khác sẽ khởi tâm trang nghiêm đối với cô ấy.
Làm thế nào để giải thoát chúng sinh? Trước hết, để giải thoát chúng sinh khỏi phiền não, chúng ta phải nói đến thiện niệm. Nếu quý vị muốn giúp đỡ người khác, trước tiên quý vị phải nói về thiện niệm và chánh niệm với họ. Phàm là những thứ đúng đắn thì nói, phàm là những thứ bất thiện thì không nói, thì quý vị mới có thể tiếp cận được cõi thanh tịnh Phật Tịnh Thổ. Muốn cho chúng sinh trong thiên hạ đều đạt được lợi ích lớn, để cho tất cả mọi người đều có thể nhận được lợi ích lớn nhất, thực ra chính quý vị mới là người được hưởng lợi ích lớn nhất. Lấy một ví dụ đơn giản. Một số công ty, người lãnh đạo rất quan tâm đến cấp dưới và nhân viên của mình, vô cùng quan tâm đến phúc lợi của nhân viên.
Cuối cùng, nhân viên làm việc rất chăm chỉ và giúp công ty ngày càng lớn mạnh hơn. Mọi người hãy nói xem, cuối cùng thì ai là người được hưởng lợi nhiều nhất? Chính là người lãnh đạo. Vì thế Sư phụ dạy mọi người hãy buông bỏ chính mình mà thiền tu cho tốt. Phải hiểu được tầm quan trọng của việc bố thí Pháp, quý vị bố thí trang nghiêm, quý vị sẽ có được trang nghiêm Phật Tịnh Thổ. Phải nỗ lực thay đổi tốt và có khả năng chuyển hóa tốt suy nghĩ của mình.
Được rồi, sau đây Đài trưởng sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện.
Vào thời Đức Phật, có một vị Tỳ-kheo tên là Y-cô-đạt-na sống trong một khu vườn cây ăn trái ở ngoại ô thành Xá Vệ. Vị Tỳ-kheo Y-cô-đạt-na này chỉ có thể thuộc lòng một bài kệ tụng (tức là một bài kệ ngữ) do Đức Phật dạy, nhưng vị ấy hoàn toàn hiểu được đạo lý của bài kệ này. Mỗi lần đọc xong bài kệ này, dù trong vườn không có ai, nhưng những vị thần cây ở đó lại nhiệt liệt vỗ tay và khen ngợi (điều này mọi người không nhìn thấy, không nghe thấy, nhưng thời xưa rất nhiều người đều có thần thông, người có công năng đều có thể nghe thấy).
Một lần nọ, có hai vị Tỳ-kheo thông thái thường giảng pháp đi ngang qua vườn cây ăn trái này cùng với một nhóm đệ tử và hỏi: “Này Tỳ-kheo Y-cô-đạt-na, nếu ngài thuyết pháp ở một nơi hẻo lánh như vậy, liệu có ai đến nghe pháp không?”
Vị Tỳ-kheo Y-cô-đạt-na này rất thành thật, liền nói: “Thần cây trong vườn nghe tôi giảng, họ đều vỗ tay khen ngợi”.
Hai vị Tỳ-kheo này nghĩ thầm: “Ông đang nói gì vậy?” Họ còn đang ở trong vườn, bèn nói: “Nếu ông nói có hội thần cây, vậy thì chúng tôi cũng giảng thử xem”. Hai vị ở trong vườn này thuyết pháp. Hai người này bình thường rất giỏi thuyết pháp, họ đi khắp nơi hoằng pháp, lưỡi đẹp tựa hoa sen (miệng lưỡi họ khéo léo như hoa sen). Họ nói rất nhiều rất nhiều, thao thao bất tuyệt, như sông Trường Giang (trước đây vì sao người ta nói người này giảng pháp rất hay và
dùng “thao thao bất tuyệt”. Hãy nhìn nước sông Trường Giang, hoặc là giống như Giang Hà hải thủy, sóng tiếp sóng và nó sẽ không dừng lại), thuyết pháp rất tốt. Sau khi thuyết pháp xong, không ngờ vườn cây lại yên tĩnh, không có một chút âm thanh nào, ngay cả tiếng lá rơi xuống đất cũng không có.
Họ nghĩ: “Không phải ông nói rằng hội thần cây vỗ tay sao? Tại sao không có?” “Nào, nào, nào! Pháp sư Y-cô-đạt-na, xin mời ông đến đây thuyết pháp”.
Vị pháp sư Y-cô-đạt-na này chỉ biết một bài kệ tụng và ông lại bắt đầu giảng. Sau khi ông vừa giảng xong, trong vườn vang lên tiếng vỗ tay và tiếng reo hò vang dội như thường lệ. Lúc này các đệ tử của hai vị Tỳ-kheo này cũng nghe thấy (bởi vì các Tỳ-kheo trước đây đều có một chút thần thông), họ cảm thấy mấy vị thần cây này có chút thiên vị, và nói: “Nhìn xem sao các vị đối xử với Y-cô-đạt-na tốt như vậy? Ông ấy chỉ giảng có một chút, trong khi chúng tôi đã giảng rất nhiều …” Họ cảm thấy bài giảng của Y-cô-đạt-na quá bình thường và không hay lắm. Tại sao hội thần cây không vỗ tay cho hai vị Tỳ-kheo này? Tại sao lại vỗ tay với pháp sư Y-cô-đạt-na?
Sau khi Đức Phật nghe được chuyện này, Ngài đã nói với các đệ tử: “Này các Tỳ-kheo! Ta không nghĩ rằng những người đã nghe nhiều kinh điển và thường thuyết giảng Phật pháp thì nhất định tinh thông Phật pháp”. Điều Đức Phật nói có nghĩa là không phải ngày nay quý vị thường xuyên thuyết pháp thì nhất định quý vị sẽ tinh thông Phật pháp. “Ngược lại, những người tuy không nghe nhiều nhưng có thể thể ngộ được chân lý (tức là hiểu được) và luôn giữ chánh niệm thì đó mới là những người thực sự thông thạo Phật giáo”.
Vì vậy, từ khai thị của Đức Phật, liền cho chúng ta biết cốt lõi của Phật pháp nằm ở chỗ phải đích thân thể chứng. Sư phụ đã giảng cho quý vị nhiều như vậy, quý vị phải tự mình hiểu rõ. Sư phụ bảo quý vị niệm kinh, quý vị đã niệm kinh chưa? Sau khi niệm kinh rồi có tốt không? Có hiệu quả không? Có. Đây được gọi là thể chứng. Mọi người thấy đấy, tại mỗi buổi Pháp hội, có nhiều Phật hữu
đến chia sẻ kinh nghiệm, đó đều là thể chứng của chính họ. Quý vị thấy họ nói rất hay về việc người thân ở nhà họ khá hơn như thế nào, mặc dù Sư phụ cũng không biết về những điều này. Vì vậy, những gì họ thể chứng đã có thể khiến cho rất nhiều khán giả vỗ tay và cảm ơn đồng tu ấy đã chia sẻ. Đó là để cho chúng ta biết rằng người học Phật phải duy trì giác tánh và sống trong hiện tại, hay nói cách khác là phải thực sự hiểu đạo Phật, tức là thực sự hành theo đạo Phật. Dù quý vị có tụng kinh bao nhiêu đi nữa, mà vẫn không hiểu gì cả thì quý vị vẫn chưa được lợi lạc từ Pháp. Vậy nên nhiều người thường gọi điện đến nói với Sư phụ: “Thưa Thầy, con đã tụng hàng nghìn tờ Ngôi Nhà Nhỏ rồi!” Vậy con đã dùng tâm chưa? Con đã có tấm lòng biết ơn chưa? Con có tâm thể ngộ chưa? Đừng đuổi theo thời gian, đuổi theo số lượng, mà phải dùng tâm trì niệm, hơn nữa phải hộ trì Phật pháp, dùng tâm để niệm thì mới có thể thành công.
Câu chuyện này dạy chúng ta rằng dù làm gì thì chúng ta cũng phải tự mình làm, không nên hoàn toàn nghe theo những lời người khác nói, phải kiểm chứng, phải thể chứng và thể ngộ. Trong cuộc sống con người chúng ta luôn gặp phiền não, nên khi học Phật chúng ta cũng cần tụng kinh để thay đổi, phải thể ngộ: “Có phải sau khi tôi niệm kinh này rồi, thì tình hình của tôi đã thay đổi rồi không?”
Con người không thể rời khỏi quần thể xã hội này, vậy nên nếu muốn thay đổi thì phải tử tế với người khác. Nhiều người ngay cả thiện cũng không làm được, quý vị nói xem làm sao họ học Phật được đây? Hãy đối nhân xử thế một cách bao dung và rộng lượng, dùng diệu pháp cố gắng hết sức để hóa giải phiền não của người khác một cách chân thành và từ bi mà không làm tổn thương lòng tự trọng của họ, khuyến khích họ thay đổi. Vì vậy, đạo lý mà Sư Phụ khuyên mọi người là: Hãy cố gắng đừng làm tổn thương lòng tự trọng của người khác. Tuy rằng lòng tự tôn là điều không cần thiết, nhưng quý vị vẫn phải cho người ta thể diện vì người ta mới tu. Đây là lý do tại sao Sư phụ rất nghiêm khắc với những
đứa con ở bên cạnh thầy, nhưng lại đặc biệt quan tâm đến những đứa con ở xa Sư phụ, mà không phải vừa gặp đã khiến chúng cảm thấy mất mặt.
Phải hiểu được cứu người cần phải học chịu thiệt, cho dù bị lừa, quý vị chỉ cần dùng diệu pháp để cứu họ, cho dù đối phương lặp lại thủ đoạn cũ – bởi vì con người ngày nay làm sai chuyện, họ vẫn lập lại điều đó và họ sẽ không tiếp nhận thay đổi. Đây là sự lặp lại, và đó cũng là sự luân hồi. Sư phụ yêu cầu mọi người hãy ghi nhớ, để cứu họ, quý vị không nên mang ác cảm sâu sắc với họ đến cùng mà hãy cho họ một cơ hội ăn năn. Ngay cả khi người này đã làm tổn thương quý vị, trong cuộc sống, trong gia đình hay tại nơi làm việc, họ đã từng làm tổn thương quý vị, thì quý vị cũng phải cho họ một cơ hội để ăn năn, đồng nghĩa với việc hãy để lại một lối thoát cho chính mình. Nếu ai đó xúc phạm quý vị, quý vị không quan tâm hay trả thù mà hãy tha thứ bỏ qua cho họ. Khi họ gặp khó khăn, quý vị vẫn nghĩ đến việc giúp đỡ họ, người kia nhất định sẽ bị quý vị làm cho cảm động, đây chính là học tấm lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát.
Trên thế giới này “Chỉ cần công phu thâm hậu, chày sắt mài thành kim”. Phải dựa vào chính mình, từ từ mà làm. Trên đời này không có việc gì là không thể làm thành công, trừ khi quý vị không muốn làm hoặc bỏ cuộc giữa chừng. Chỉ cần quý vị chịu làm thì nhất định quý vị sẽ thành công. Vì vậy, người học Phật phải tinh tấn thì bờ bên kia đã ở ngay trước mặt quý vị. Cuộc sống của chúng ta là đang học Phật và đang làm Bồ Tát. Phật không ở chân trời mà ở ngay trước mắt chúng ta. Chúng ta phải nỗ lực tu tâm, hành thiện và tích đức thì sẽ thành Bồ Tát ở thế gian. Chúng ta phải quảng độ hữu duyên, từ bi hỷ xả thì chúng ta chính là Phật ở thế gian. Vì vậy, Sư Phụ mong rằng mọi người học Phật và tu tâm thật tốt, tạo cho mình thêm một trái tim thanh tịnh và thêm một cơ hội để tạo dựng lòng từ bi. Hãy sống trong tinh tấn mỗi ngày, sửa đổi bản chất xấu của mình từng chút mỗi ngày, quý vị sẽ dũng cảm tiến về phía trước. Quý vị sẽ thấy được ánh sáng của Bồ Tát đang chỉ dẫn quý vị, đang nắm tay quý vị và vĩnh viễn đi về hướng Phật Đạo. Cảm ơn đại chúng!
Được rồi, bài giảng hôm nay xin tạm dừng tại đây, chúng ta sẽ tiếp tục “Bạch Thoại Phật Pháp” vào lần sau. Cảm ơn đại chúng!
81. Thập niệm pháp (1)
Tập 81
THẬP NIỆM PHÁP (1)
(06/06/2020)
Được rồi, hôm nay Đài trưởng sẽ giảng cho đại chúng nghe về thập niệm Pháp (10 niệm Pháp).
Trước đây, khi Đức Phật hoằng hóa Phật giáo tại Kỳ Thụ Cấp Cô Độ Viên nước Xá Vệ (khi Ngài hoằng dương Phật pháp), Đức Phật có lần khai thị cho các Tỳ kheo: Nếu có người tu thập thiện pháp thì tương lai sẽ được vãng sinh lên thiên thượng. Nếu người phạm vào thập ác pháp thì sẽ đọa vào ác thú (tức là bị đọa vào ba đường ác ở dưới). Nếu thiện tu thập niệm pháp thì có thể chứng nhập được cảnh giới Niết-bàn. Hãy ghi nhớ, nói về ba điểm: nếu quý vị phụng hành Thập thiện pháp, quý vị có thể được tái sinh lên thiên thượng. Nếu tạo tác Thập ác pháp, quý vị sẽ rơi vào ba đường ác. Nếu quý vị tu Thập niệm pháp, quý vị có thể chứng nhập cảnh giới Niết-bàn. Đây là cảnh giới cao.
Tạo tác mười loại ác pháp nào sẽ bị đọa lạc đến ác thú? Nói đơn giản với mọi người một chút, mười ác pháp trên thực tế chính là: sát sinh, trộm cắp tài vật của người khác, tà dâm phóng đãng, nói vọng ngữ, khởi ngữ, ác khẩu (ngôn ngữ thô bạo mắng chửi người), hai lưỡi (đâm thọc ly gián), trong lòng thường sinh khởi đố kỵ với người khác, sân não (hận người khác), hưng khởi tà kiến (thường xuyên có tà kiến, thường xuyên nhìn không thuận mắt với người này, nói sai với người kia, có ý nghĩ sai lầm về người khác), sau đó tạo ra mười loại ác hạnh trên, vậy tương lai nhất định sẽ bị đọa lạc trong ba đường ác đạo: súc sinh đạo, ngạ quỷ đạo và địa ngục đạo.
Vậy làm thế nào tu Thập thiện pháp để được lên thiên? Thực ra, nó hoàn toàn trái ngược với các ác pháp.
Thân nghiệp phải thanh tịnh, thân không được tạo nghiệt, không tạo ác nghiệp, chẳng hạn, nếu nghề nghiệp không phải là nghề hạ lưu hay nghề sát, trộm, dâm, vọng và không làm hại người khác như: không sát sinh, không trộm cắp, không
tà dâm. Đây đều là thân nghiệp, phải sạch sẽ. Nếu một người phạm tội tà dâm thì trên thân thể liền tạo ra tà ác, nghĩa là thân đã không trong sạch.
Khẩu nghiệp phải thanh tịnh. Chúng ta thường nói: “Bạn nói chuyện miệng sạch sẽ một chút”, thực ra chính là: không vọng ngữ, không khởi ngữ, không ác khẩu, không hai lưỡi. Nói hai lưỡi nghĩa là gieo rắc bất hòa, làm người khác không vui, có ý kiến chống lại họ, hoặc quý vị khiêu khích đối phương để họ có ý kiến chống lại mình. Nói vọng ngữ là nói dối. Không nên chửi mắng. Đây đều là các vấn đề thanh tịnh của khẩu nghiệp.
Bất luận làm việc gì, “tam nghiệp” cũng phải trong sạch. Một điều nữa là ý nghiệp phải thanh tịnh. Ý nghiệp là đối phương không nhìn thấy được, bởi vì rất nhiều ý niệm của quý vị đối phương không nhìn thấy được, vậy thì quý vị phải giữ tốt tâm của mình. Thứ nhất, tuy người khác không nhìn thấy, nhưng trong tâm quý vị không được có đố kỵ, không được có oán hận. Hận thì người khác không nhìn thấy được, vì ngoài mặt quý vị có thể cười nhưng thực ra trong lòng quý vị hận vô cùng. Và còn đố kỵ người khác, người ta không thể nhìn thấy được, nhưng trong lòng quý vị thật khổ sở, thật thống khổ. Còn có một điều nữa là hãy tránh xa tà kiến. Tránh xa tà kiến là gì? Quý vị không thể làm theo nó với quan điểm sai lầm. Ví dụ, nếu ai đó nói rằng mọi người đều làm việc này, “Tại sao tôi không thể làm được?”, thì quý vị phải tránh xa tà kiến, bởi vì việc mà mọi người đều làm không nhất định là việc tốt, hiện nay mỗi người trên thế giới này đều tham sân si, nếu quý vị không tham, thì quý vị sẽ không rơi vào tà kiến, vì quý vị biết điều này là không tốt. Nếu quý vị có thể tu được mười thiện pháp này ngay bây giờ, thì quý vị sẽ được tái sinh lên thiên vào cuối đời.
Tiếp theo, Đài trưởng muốn tập trung vào việc giảng với mọi người về tu hành Thập pháp – tức là Thập niệm pháp, tương lai có thể chứng nhập Niết-bàn. Đây là một cảnh giới cao hơn, và nó không phải là nghiệp vọng ngữ, trộm cắp hay sát nghiệp thông thường nữa – những nghiệp này chúng ta đều nghe hiểu được,
nhưng làm sao chúng ta có thể “thập niệm” để chứng nhập Niết-bàn đây? Đây là điều quan trọng mà Sư phụ muốn nói với mọi người ngày hôm nay.
Trước hết tìm hiểu một chút về thập niệm là mười niệm nào: Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tỳ Kheo Tăng, Niệm Thiên, Niệm Giới, Niệm Thí, Niệm Xử Tịch Tĩnh, Niệm Xuất Nhập Tức, Niệm Thân, Niệm Tử. Chúng ta nên hiểu rằng khi nghĩ đến điều đó, lúc nào cũng suy nghĩ đến phải thoát ly và sanh ra ở cõi Trời, nói cách khác những ý niệm bình thường của chúng ta, hết ý niệm này đến ý niệm khác, chính là phải thoát ra khỏi Hồng Trần, thoát ra khỏi các loại ý niệm xấu của mình trên thế gian này, thì quý vị có thể được sinh ra ở cõi Trời. Nếu như quý vị còn giữ những ý niệm không tốt này, thì có thể sẽ tạo ra Nhân đọa vào ba đường ác, cho nên chúng ta phải phụng hành thiện tu. Mọi người biết, tu tâm cũng có ác tu, ác tu là gì? Tu lệch rồi, sau khi học được niệm kinh và tu tâm thì đi nguyền rủa người khác, dùng các loại phương pháp không tốt để đố kỵ người ta, bỏ bùa ngải người ta, những điều này khiến chúng ta không thể có được giải thoát. Cho nên chứng Niết-bàn phải có Thập niệm pháp.
Thứ nhất là niệm Phật. Luôn luôn ghi nhớ trong tâm Đức Phật thật vĩ đại, để lại cho nhân gian chúng ta biết bao thiện niệm, thiện đức, để chúng ta nổ lực thật nhiều, nỗ lực này chính là Công, và dùng phẩm chất đạo đức của bản thân chính là Đức, như vậy quý vị thường xuyên nghĩ đến “Tôi phải cố gắng để tinh tấn (tức là “Công”), dùng đạo đức trong bổn tánh của mình để làm nhiều việc, bởi vì đây chính là Phật”, nên quý vị liền có công đức, nếu có công đức thì quý vị chính là học tập ở Phật. Tấm gương của Phật chính là để cho chúng ta hiểu được nên dùng tâm ban đầu như thế nào để hoàn thiện nhân cách cao quý của mình, sau đó mới có thể xuất ly lục đạo, tiến nhập Niết-bàn. Chúng ta coi việc thành Phật làm mục tiêu của cuộc đời, khi chúng ta tu hành ở nhân gian, đầu tiên phải nghĩ đến “Tôi sẽ tu tâm để thành Phật trong đời này, và tôi nhất định phải thành Phật”. Rốt cuộc quý vị muốn gì khi tu Phật học Phật? Là để thành Phật. Nếu như không thể thành Phật, thì quý vị tu tâm gì? Niệm Phật mà chúng ta thường
nói đến, thực chất là nhớ về đạo lý của Phật, chính là mỗi một ý niệm đều phải nghĩ đến: Đạo lý của Phật thật sâu rộng, đạo lý của Phật thật vĩ đại, đạo lý của Phật chính là ngọn đèn chỉ đường giúp chúng ta thoát ly sáu cõi. Chúng ta cần phải học lý của Phật, còn phải học tướng của Phật. Tướng là gì? Quý vị hãy nhìn các vị Bồ Tát và chư Phật đứng đó, có trang nghiêm không? “Tướng hảo quang minh dĩ tự nghiêm”, đúng không? Quý vị hãy nhìn xem con người chúng ta, khuôn mặt của chúng ta khi tức giận, hung dữ như thế nào khi tràn đầy hận thù, chúng ta nhìn người khác với vẻ ghê tởm như thế nào. Đố kỵ người khác với dáng vẻ của ngũ quan nhăn nhúm lại, những điều này không thể trở thành Phật tướng. Vậy nên học Phật niệm Phật, phải niệm đạo lý của Phật, niệm tướng của Phật, thì quý vị sẽ không làm hành động “nháy mắt ra hiệu” rồi. Có một số người khi nói chuyện thích nháy mắt ra hiệu với người khác, có người nói chuyện hay có bộ dáng là lạ (trong cuộc sống đều có), có người thích nhìn trái nhìn phải, loại này đều thuộc về Tướng. Đây chính là điều thứ nhất của cảnh giới niệm Phật. Nếu như vậy, thì đạo lý, tướng và cảnh giới chính là cảnh giới Thể – Giai – Dùng mà Phật pháp giới nói đến và được dùng trong cuộc sống của chúng ta. Một người nhiễm Hồng Trần, một người phàm phu, khi họ niệm Phật, trong đầu một bên nghĩ đến Phật, một bên tạp niệm tán loạn, hoàn toàn không dừng lại được, dù có quỳ trước Phật nhưng trong đầu họ đều có tạp niệm tứ tung. Nếu quý vị có thể làm được tịnh tâm niệm Phật, tâm trong sạch, tâm thuần khiết, vậy thì quý vị chính là đang trong nhất niệm, một ý niệm nghĩ đến Phật thôi, thì tướng mạo cũng đoan trang rồi và lời quý vị nói ra câu nào cũng là đạo. Tiếp theo đó chứng đến Thánh vị, cũng có nghĩa là cảnh giới của quý vị đã đến vị trí của Phật rồi, đó chính là quả vị của quý vị. Đây là điều thứ nhất, niệm Phật.
Thứ hai là niệm Pháp. Pháp là gì? Pháp chính là đạo lý của Phật pháp, ví dụ như Phật pháp Đại Thừa, Phật pháp Tiểu Thừa đều có kinh văn, những kinh văn này đều là đạo lý, chính là Phật lý. Cho nên quý vị cần phải niệm Pháp, chính là
trong đầu thường xuyên phải nghĩ đến Pháp của Phật. Cái gì gọi là niệm Pháp? Nghĩa là đem tất cả các Pháp theo như lời Phật dạy nhớ mãi ở trong tâm. Sư phụ đưa ra một ví dụ đơn giản, Phật nói với chúng ta “Như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện”. Rất nhiều người ra ngoài diễn thuyết, vắt cạn óc cũng không nói ra được gì, thực ra, chỉ cần quý vị học thuộc những câu ngắn gọn, rất hữu ích và vi diệu của Đức Phật thì điều quý vị đang giảng chính là Pháp. “Như lộ diệc như điện. Ưng tác như thị quán”, “Chúng thiện phụng hành, chư ác mạc tác”, “Bỏ đao đồ tể, thì sẽ thành Phật”… Tất cả mọi thứ, trong ý niệm của quý vị đã có loại pháp này (pháp của kinh Phật), nghĩa là đem tất cả pháp của Phật niệm ở trong tâm, luôn luôn nghĩ về nó trong tâm, “Vật chất là trống không, không gian vũ trụ đều là vô thường, Phật nói với chúng ta là vô thường, đừng đau khổ hay buồn phiền, nó sẽ thay đổi trong chốc lát và sẽ qua đi”, lúc nào cũng niệm Pháp, quý vị hãy ghi nhớ những câu pháp cùng pháp ngữ này trong lòng, và trong việc “hành” hàng ngày, quý vị đang làm theo Phật pháp, vậy thì quý vị chính là đang niệm Pháp.
Thứ ba là niệm Tăng. Niệm Tăng nghĩa là lúc nào cũng phải nhớ đến phạm hạnh thanh tịnh của hiền thánh tăng, “Hiền” tức là nhân sĩ hiền đạt, có trí tuệ, có văn hóa; “Thánh” là thánh nhân; “Tăng” chính là hòa thượng, pháp sư. Thường xuyên phải nhớ, tưởng nhớ đến họ, phải hoài niệm họ, phải biết ơn họ, trong quá khứ họ để lại cho chúng ta rất nhiều phạm hạnh thanh tịnh. Phạm hạnh gì? Nghĩa là hành hạnh Bồ Tát ở nhân gian, gọi là phạm hạnh. Bằng cách này có thể trau dồi tâm niệm xuất thế cho riêng mình: “Đời này tôi không nhất thiết phải ở nhân gian, tôi muốn tu xuất thế gian”. Tâm thái phải tốt, phải tôn kính hiền thánh tăng. Ví dụ như quý vị thường nghĩ đến câu chuyện năm xưa của Đức Phật, chuyện cứu người của Đức Phật, Bồ Tát, Tăng nhân. Kỳ thật mọi người đến chùa, vừa bước vào có năm trăm vị La Hán, vậy năm trăm vị La Hán làm sao có thể đắc được thánh quả? Mỗi vị Bồ Tát La Hán đều có câu chuyện riêng của mình, vô cùng kinh điển, và họ đều có những câu chuyện về việc họ đạt
được thánh quả. Vậy nên chúng ta phải biết ơn các vị, phải luôn nghĩ đến các vị Thánh đó, bắt đầu từ Đức Phật, kể cả tất cả các vị Hộ Pháp Bồ Tát đã cứu độ chúng ta. Lấy một ví dụ đơn giản, câu chuyện Tế Công Hoạt Phật mà mọi người đều biết, đúng không? Đạo Tế thiền sư. Quý vị xem Tế Công Hoạt Phật cứu thế cứu người như thế nào? Còn có Mục Kiền Liên Tôn Giả v.v.. Lần trước Sư phụ đã kể cho quý vị nghe một số câu chuyện, phải luôn ghi nhớ những câu chuyện này trong đầu, sẽ sách tấn quý vị tu tâm, sẽ sách tấn quý vị tiến bộ. Nghĩ về câu chuyện của Văn Thù Bồ Tát, câu chuyện của Quán Thế Âm Bồ Tát, câu chuyện của Đức Phật, đều là tấm gương của chúng ta, chúng ta phải kính trọng các Ngài, vững vàng noi gương theo các Ngài trong việc tu tâm và tu hành, thường nghĩ đến cảnh giới vĩ đại vượt qua phàm nhân của các Ngài để giúp đỡ chúng sinh và cứu độ chúng ta, đó gọi là “niệm Tăng”.
82. Thập niệm pháp (2)
Tập 82
THẬP NIỆM PHÁP (2)
(06/06/2020)
Thứ tư là niệm Giới. Khi Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, các đệ tử của Ngài đều quỳ bên cạnh rất đau lòng và khổ sở: “Thưa Đức Phật, Ngài Niết-bàn rồi, vậy chúng con làm sao bây giờ?” Đức Phật liền nói với bọn họ: “Lấy giới làm gốc”. Vì vậy giữ giới chính là phẩm đức của con người, người có thể giữ giới là một người tốt, người có thể giữ giới là người có phẩm chất cao quý, điều đó chứng tỏ người này sẽ không làm điều xấu, sẽ không vọng ngữ, sẽ không tham sân si mạn nghi. Vậy nên hành vi giữ giới, phải được quy phạm nó trong thức thứ tám của mình, phải luôn giữ giới, và đừng quên những giới luật đó.
“Giới nãi vô thượng Bồ-đề chi bổn”, mọi người hãy nghĩ xem, giới chính là nền tảng của vô thượng Bồ-đề, cho nên phải luôn ghi nhớ một số giới luật mà Đức Phật đã đặt ra cho chúng ta. Quý vị xem, Bồ Tát bảo chúng ta đừng tham sân si, đừng sát, trộm, dâm, vọng, tửu, đây đều là những giới luật mà Đức Phật đã đặt ra cho chúng ta, mọi người chúng ta đều phải tuân thủ, phải đối chiếu hành vi của bản thân. Hôm nay quý vị có hành động tham lam không? Hôm nay quý vị có hành động thù hận không? Hôm nay quý vị có làm hành động gì ngu ngốc không? Nói lời không nên nói, gieo rắc mối bất hòa, có ý nghĩa gì? Giống như chúng ta bây giờ nghĩ lại chúng ta đã làm rất nhiều điều ngu ngốc khi còn trẻ. Luôn luôn kiểm tra hành vi và cử chỉ của mình, quan trọng nhất là khởi tâm động niệm. Mọi người đều biết tâm là khó khống chế nhất, người ta thường nói “Tâm viên ý mã”, tâm không thuận duyên, toàn bộ tâm không ngừng lay động. Mọi người thường hay nói “trái tim đập loạn nhịp”. Quý vị xem, có rất nhiều người làm quảng cáo với nội dung “tâm động không bằng hành động”. Khi quý vị vừa động tâm, là đã nghĩ đến hành động rồi, cho nên muốn giữ cho trái tim của quý vị không động, thì tay, chân, miệng của quý vị v.v.. Tất cả đều không được có hành động nào cả. Sư phụ bảo mọi người khởi tâm động niệm phải phù hợp với quy tắc của giới luật, giữ giới nghĩa là những việc không có ý nghĩa thì đừng làm. Ở trước mặt người khác phái cảm thấy mình rất có khả năng, biểu
hiện một chút, thú vị lắm sao? Việc giả vờ tham lam khi rõ ràng biết được thứ mình muốn không đạt được, có thú vị không? Quý vị hận người khác đến mức tức giận vô cùng, nhưng người khác không biết, điều đó có thú vị không? Quý vị hận người khác hận càng về sau, khi quý vị nói xấu họ sau lưng, cuối cùng bị họ phát hiện ra, họ sẽ tấn công quý vị không thương tiếc, cuối cùng quý vị bị thương tổn, có phải điều đó đã trở về bên quý vị rồi không? Có thú vị không? Cho nên niệm Giới này vô cùng quan trọng, lúc nào cũng giữ giới, từng giây từng phút sống trong giới luật, quý vị liền có thể thành công.
Thứ năm là niệm Thí. Niệm Thí là hồi tưởng nhớ lại hành động bố thí, có công đức lớn. Hãy luôn nghĩ “Tôi muốn bố thí, tôi muốn làm chút gì đó cho người ta ăn, tôi muốn đối xử tốt với mọi người”, bởi vì bố thí không đơn thuần là một loại xả bỏ mà quý vị còn nhận được. Quý vị nhận được gì? Khi quý vị cho đi, quý vị sẽ nhận lại được, quý vị đã xả bỏ được “quái tật sở phúc”. Nghĩa là gì? Quý vị từ bỏ tính đố kỵ với người khác và tính keo kiệt. Bởi vì người biết cho đi họ sẽ không keo kiệt, và người keo kiệt thì họ sẽ không biết cho đi. Chỉ có người thường bố thí mới không keo kiệt. Vì thế Sư phụ nói với mọi người rằng, bình thường chúng ta làm người, chúng ta nên luôn nghĩ đến việc đi tiếp tế người khác, giúp đỡ người khác và chăm sóc tất cả chúng sinh. Khi nghĩ đến việc bố thí, điều chúng ta nghĩ trong tâm là “Tôi muốn giúp đỡ người khác. Tôi có thể yêu thương và bảo vệ họ. Tôi muốn cho họ nhiều hơn một chút. Tôi muốn cho họ biết đến Phật pháp nhiều hơn. Bản thân tôi ăn không hết tôi nhường cho họ ăn, và những gì tôi dùng không hết tôi tặng cho họ nhiều hơn”. Vậy nên trong cuộc sống đã hình thành thói quen giúp đỡ người khác bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào. Dù là của cải hay Phật pháp mà chúng ta đã học được, chúng ta phải luôn nghĩ trong tâm rằng: “Chỉ cần người khác cần, là tôi nhất định phải giúp đỡ họ, đây chính là bố thí”. Đây là điều thứ năm, gọi là niệm Thí. Việc bố thí phải thường xuyên suy nghĩ trong tâm trí.
Thứ sáu là niệm Thiên. Thế nào là niệm Thiên? Nghĩa là luôn phải ghi nhớ trong tâm: “Tôi đã từng tu nhiều giới, và tôi cũng đã làm rất nhiều việc bố thí. Đó đều là thiện căn của tôi”. Phải thường xuyên nghĩ: “Có lẽ tôi đã ở trên thiên giới nhiều đời nhiều kiếp trước, hoặc là ở cõi Sắc Giới, hoặc là ở cõi Vô Sắc Giới, vì sự bố thí của tôi, để tôi được hưởng hạnh phúc ở Thiên Giới. Vậy nên cho tới hôm nay, những chuyện tôi làm phải được Thiên Giới ưng thuận”, Nếu có thể thỏa mãn ý trời thì tôi sẽ làm. Nếu không thuận ý trời thì có một số việc không thể làm được. Bởi vì Bồ Tát ở trên thiên bảo chúng ta phải giữ giới, nên tôi giữ giới. Bởi vì Bồ Tát ở trên thiên bảo chúng ta phải bố thí nên tôi sẽ bố thí. Bồ Tát bảo chúng ta phải giúp đỡ người khác, phải luôn quan tâm đến người khác, nên tôi sẽ thường xuyên quan tâm và giúp đỡ người khác, vậy thì cuối cùng quý vị sẽ được về trời. Nếu quý vị thường nghĩ “Tôi từ trên trời xuống” thì quý vị là một người cao quý. Ngày xưa có câu nói là “đập vỡ cái chén mẻ”, nghĩa là quý vị nói với người ta: “Anh tiêu rồi, anh hết thuốc chữa rồi, anh là đồ rác rưởi”. “Tôi là thứ rác rưởi, vậy bạn làm gì được tôi? Tôi là thứ rác rưởi, thì tôi làm chuyện rác rưởi”. Vì thế Sư phụ thường yêu cầu mọi người phải nghĩ đến việc niệm Thiên: “Tôi là con người ở cõi người và đã thoát khỏi ba cõi ác (vì con người thuộc về ba cõi thiện, cõi người xuống cõi tiếp theo là cõi súc sinh), nên hôm nay tôi vẫn được sinh vào cõi người, tức là tôi có một chút phước báo, có thể là phước báo từ kiếp trước của tôi và tôi còn có Thiên báo, nên tôi phải rất biết ơn. Kiếp trước của tôi còn có thể cho tôi đầu thai làm người, kiếp trước của tôi còn có thể cho tôi nghe được Phật pháp, kiếp trước của tôi còn có thể khiến tôi cảm nhận được tương lai tươi đẹp hơn”. Bởi vì thường hay nghĩ đến những việc thiện đã từng làm trên trời – Người ta thường nói: “Quý vị ở trên trời có phước, quý vị đến thế gian sẽ có đức. Quý vị ở trên trời có phước, quý vị đến thế gian sẽ có báo. Quý vị ở trên trời có phước, quý vị sẽ thuận buồm xuôi gió ở nhân gian” – Thường xuyên niệm Thiên, cảm nhận được những thiện lương trong đời trước của mình, quý vị sẽ trở nên càng ngày càng lương thiện.
Thứ bảy là niệm Anapana, dịch ra là niệm Xuất Nhập Tức. Xuất Nhập Tức là gì? Đó là những suy nghĩ của chúng ta. Chúng ta không biết rằng suy nghĩ có liên quan đến hơi thở, mọi người hãy nghĩ xem có phải như vậy không? Mỗi một hơi thở ra là có một suy nghĩ, và mỗi hơi hít vào là có một suy nghĩ. Vì vậy, hãy nhìn xem, hơi thở của nhiều người sẽ trở nên gấp gáp khi họ động não. Khi quý vị lo lắng, hơi thở của quý vị sẽ tăng tốc. Khi quý vị nói dối, hơi thở của quý vị sẽ nhanh hơn. Khi quý vị căng thẳng, quý vị muốn tập trung vào một điều gì đó, nhịp thở của quý vị sẽ đặc biệt nhanh. Niệm Anapana là niệm Xuất Nhập Tức chính là thường xuyên dùng phương pháp hít thở để làm cho tâm mình duy trì thiền định, đừng để nó căng thẳng, đừng để nó thở nhanh, đây là điều Sư phụ thường nói với mọi người, hít một hơi thật sâu rồi từ từ thở ra, làm như vậy huyết áp của quý vị sẽ không cao. Vì vậy, khi nhiều người bị cao huyết áp được khuyên rằng phải hít thở sâu. Khi não thiếu oxy hoặc tim thiếu oxy thì phải hít một hơi thật sâu rồi thở ra từ từ, lúc này quý vị đang ở trong trạng thái thiền định. Khi bắt đầu học thiền quý vị không thể định lại được, có thể dùng phương pháp đếm hơi thở, nghĩa là quý vị có thể chú ý đến hơi thở vào và thở ra của mình rồi từ từ sẽ an tĩnh lại.
Thứ tám là niệm Xử Tịch Tĩnh. Niệm Xử Tịch Tĩnh là gì? Nó có nghĩa là sự chấm dứt của ý niệm, sự tĩnh lặng của ý niệm và sự chấm dứt của ý niệm. Sư phụ nói với mọi người rằng tĩnh lặng và ngừng lại là để ngăn chặn việc truyền tải thông tin từ suy nghĩ của chính mình. Đừng nghĩ về điều đó nữa hãy dừng lại. Khi nghĩ đến sự tĩnh lặng, trong đầu sẽ nghĩ: “Tôi muốn tịnh tịnh tịnh…” Khi tôi tịnh lại, đầu óc tôi không còn nghĩ ngợi gì nữa, giờ đây tất cả đều trống rỗng, an tĩnh rồi đúng không? Tâm quý vị tĩnh lặng thì nó sẽ tĩnh lặng. Nếu trong tâm quý vị nghĩ: “Mình không làm được việc này, mình bị oan rồi, mình phải tranh luận ngay, nếu không chuyện này sẽ không ổn”, trái tim quý vị sẽ bắt đầu dâng trào và đập nhanh, và thế thì quý vị sẽ không thể giữ tĩnh lặng được nữa. Vậy nên, trước tiên là đừng nghĩ về nó thì những suy nghĩ sẽ dừng lại. Thứ
hai, hãy nghĩ về sự tĩnh lặng và trong tâm nghĩ, “Ồ, tôi muốn tịnh lại, tịnh lại” và sau đó đạt đến niệm diệt, sẽ không còn suy nghĩ gì nữa. Hãy kiểm soát hơi thở của quý vị, sau đó nghĩ về sự tĩnh lặng trong tâm trí của quý vị. Những suy nghĩ của quý vị, dù chỉ một ý nghĩ đều là sự diệt độ và tịch diệt, không còn nữa. Tất cả những suy nghĩ và tạp niệm trong tâm trí quý vị, hãy để tất cả chúng dừng lại và chấm dứt, thì đây chính là một cảnh giới thâm sâu trong giới Phật giáo. Quý vị thường nghe một câu nói trong giới Phật giáo gọi là “bước vào trạng thái Tam muội”. Điều mà hôm nay nói với mọi người chính là Tam muội – niệm dừng, niệm yên lặng, niệm diệt. Trạng thái Tam muội mọi người đã hiểu chưa? Là trí tuệ, Tam muội là gì? Thực ra là một trạng thái định, đã an định. Người đang muốn cãi vã bỗng nhiên định lại và nhập vào trạng thái Tam Muội, trạng thái tĩnh lặng. Vì định có thể sinh ra trí tuệ nên trí tuệ sẽ sớm xuất hiện, mọi người phải hiểu điều này.
Thứ chín là niệm Thân. Giới Phật giáo thường nói đến việc tu thân niệm xử nghĩa là gì? Tu thân niệm xử là phải duy trì việc tu thân, hôm nay quý vị đã ngồi yên tĩnh, đã ngồi thiền rồi, trên người quý vị cần phải biết được những suy nghĩ trong cơ thể mình đến từ đâu, tại sao có quá nhiều tạp niệm và tại sao lại có nhiều điều hạnh phúc đến vậy. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị đang ngồi đó rất vui vẻ thì đột nhiên có người khác giới đến, ngay lập tức quý vị có chút phấn khởi, bản thân quý vị cũng không biết điều đó nhưng quý vị đã bắt đầu phấn khởi rồi. Bồ Tát dạy chúng ta niệm Thân là để biết tại sao chúng ta bỗng nhiên phấn khởi, cần phải biết “Bởi vì tôi thấy một người đàn ông” hay “Bởi vì tôi thấy một cô gái rất xinh đẹp” tiếp đó vào lúc này “Tâm tôi đã lay động, bây giờ tôi không thể ngồi yên được và tôi biết tật xấu này của tôi”. Khi đó quý vị hãy nhanh chóng niệm Tam muội – định.
Trước tiên quý vị phải nhận biết thì mới có thể định lại được, nhiều người nhẹ dạ không biết mình đã làm sai điều gì thì làm sao họ có thể định lại được? Vì vậy, trước hết quý vị phải phân biệt được những hoạt động sâu thẳm trong tâm
trí của mình: Sự hưng phấn của tôi hôm nay, thân này từ đâu đến, phiền não của tôi hôm nay, thân này từ đâu đến? Tại sao trong cơ thể quý vị lại có những phản ứng này? Quý vị phải hiểu đất, nước, lửa và gió của bản thân. Tại sao? Vì quý vị đã phân biệt ra “Tôi không muốn phát điên” đó là gió nên quý vị phải kiềm chế bản thân, bình tĩnh và im lặng.
Còn có một loại, phải biết chính cơ thể mình rốt cuộc thiếu cái gì. “Tôi biết hôm nay cơ thể thiếu nước”, vậy trong cuộc sống hiện thực “Tôi uống nhiều nước”. Quý vị đang thiền, “Tôi phải làm gì khi cơ thể thiếu nước? Ở gần nơi có nước và nước là bình tĩnh. “Hôm nay tôi nên ngồi yên tĩnh. Tôi bốc hỏa nổi nóng rồi, ngồi xuống thì không dễ nổi giận, đứng thì dễ nổi giận hơn”. Trước hết, quý vị phải biết mình sắp nổi giận để có thể kiểm soát nó. Nếu quý vị không biết bản thân nổi giận thì quý vị sẽ không biết mình nên đứng hay ngồi là tốt hơn. Nếu quý vị đứng, quý vị sẽ dễ nổi giận. Khi nằm sẽ khó tức giận hơn, khi nằm sẽ bớt giận hơn, khi ngồi cũng sẽ bớt giận hơn và dễ nổi giận nhất là khi đứng. Quý vị đi xem những người cãi nhau, nếu nằm trên giường cãi nhau, thì họ sẽ nhanh chóng ngồi dậy. Nếu một người ngồi và cãi nhau với người khác, họ sẽ nhanh chóng đứng dậy. Vì vậy, quý vị phải hiểu rằng, Bồ Tát yêu cầu chúng ta niệm Thân, là để phân biệt cơ thể của mình đang làm gì. Nhiều người tự thân họ làm ra hành vi mà chính bản thân họ cũng không kiểm soát được. Giống như một tên trộm ăn cắp quen tay, hắn nhìn thấy đồ liền lấy, và đã không còn biết rằng mình đang ăn trộm nữa. Giống như rất nhiều người nhìn thấy người khác giới tính liền động đậy, không dừng lại được và cũng không biết tại sao mình lại như vậy. Vậy thì trường hợp này phải thường Niệm Thân.
Bên trong của Niệm Thân còn có niệm nội Thân, niệm ngoại Thân, niệm nội ngoại Thân. Đây là ý nghĩa gì? Nếu quý vị nhìn bề ngoài “Sao hôm nay cái chân tôi lại đi như thế này? Rất khó coi”. “Sao hôm nay tay tôi không có chỗ để?” Thì đây gọi là niệm ngoại Thân. Còn niệm nội Thân thì sao? “Thật xấu hổ. Chuyện này của tôi thật đáng xấu hổ. Cơ thể của tôi không thể làm được loại
hành động này. Nếu tôi làm loại hành động này, mọi người sẽ coi thường tôi”. – đây là niệm nội Thân. Ngoài ra còn có niệm nội Thân và ngoại Thân, nếu trong tâm lay động thì hãy nghĩ “tâm không được động. Khi tâm động thì tay chân sẽ loạn động, lúc đó quý vị có thể làm những việc không đúng đạo lý. Khi nghĩ đến “không được động, không được động” – thì đó là Niệm Thân bên trong và bên ngoài.
83. Thập niệm pháp (3)
Tập 83
THẬP NIỆM PHÁP (3)
(06/06/2020)
Cuối cùng nói với mọi người, niệm thứ mười là Niệm Tử. Ai cũng biết kết cục cuối cùng của cuộc sống là cái chết nên Niệm Tử được xếp cuối cùng nhưng Niệm Tử cũng là bước quan trọng cuối cùng. Dù quý vị niệm chín niệm trên có tốt đến đâu, nếu niệm cuối cùng niệm không tốt thì chín niệm trước đó cũng không hoàn hảo. Nếu niệm hết chín niệm đầu, thực ra niệm cuối đối với quý vị mà nói mới là niệm xuất ly quan trọng nhất. Niệm Tử, khi mọi người nghe thấy từ “Niệm Tử”, dường như nghĩ rằng đó không phải là một từ dễ nghe lắm. Chẳng ai thường nghĩ “Ôi, tôi sắp chết rồi”? Họ cho rằng điều đó không tốt, thật là xui xẻo. Thực ra, nên thường nghĩ về sự vô thường của cuộc sống. Chẳng phải đó là Niệm Tử sao? Hãy nhìn xem mình bao nhiêu tuổi và đã sống được bao nhiêu năm rồi? Vậy nên, mỗi khi nghĩ về điều đó đều nghĩ về niệm Tử, thường xuyên ngẫm lại, đời người thật đáng thương, chỉ mấy mươi năm ngắn ngủi, có gì để mà tranh, có gì để mà giành, có gì để mà đố kỵ? Tự nghĩ thật đáng thương, sớm muộn cũng sẽ thành đồ cổ. Một cây gỗ lâu năm sau khi được chạm khắc, cây chết đi vẫn có thể trở thành món đồ cổ. Con người sau khi chết đi, chết là chết rồi, không còn lại gì cả. Vì vậy chúng ta thường nghĩ rằng cuộc đời là vô thường và ngắn ngủi. Có người nói: “Bây giờ tôi còn trẻ, không tu tập cũng không sao. Khi về hưu, tôi sẽ rảnh rỗi không có việc gì làm, tôi nhất định sẽ cố gắng tụng kinh và tu Phật”. Khi đó vô thường sẽ không cho quý vị tu, vì thời gian rất ngắn ngủi. Liệu quý vị có sống được đến ngày nghỉ hưu không? Thế nên, các hiền nhân Trung Hoa xưa kia thường nói “Trên sườn núi Hoàng Thổ không có già trẻ”. Điều đó không có nghĩa là người trẻ nhất định còn sống, người già nhất định phải chết, rất nhiều người chết khi còn trẻ, quá nhiều rồi. Vậy nên thường nghĩ về sự vô thường của cuộc sống và sự quý giá của cuộc sống: “Nếu tôi không trân quý nó thì tôi đang lãng phí cuộc đời mình, và tôi càng ngày càng đến gần cái chết”. Vì vậy, hãy tu hành ngay bây giờ, lập tức tu, gác lại mọi ưu phiền, gác lại những việc vặt vãnh và lo âu ở thế gian, rồi làm
những điều có ý nghĩa nhất trong cuộc sống – cứu độ tất cả chúng sinh, tu tâm thành Phật, quảng kết thiện duyên và chúng thiện phụng hành. Xưa kia, có một đại sư Phật giáo đã viết một chữ “Tử” thật to trong thiền thất của mình. Ngài nói: Con người chúng ta không quý trọng là chết, chúng ta quý trọng rồi cũng sẽ chết, kết quả cuối cùng cũng là chết, vì vậy chết không có gì đáng sợ, sợ nhất là sau khi chết quý vị không biết mình sẽ đi về đâu nên phải học cách trân quý nó.
Đức Phật có lần đã nói với các Tỳ kheo: “Bởi vì chúng sinh tạo ra căn nguyên của mười điều ác, cho nên tương lai sẽ phải chịu sự cằn cỗi và suy tàn của môi trường bên ngoài”. Dịch lại lời của Đức Phật lúc bấy giờ là như thế này: Bởi vì chúng sinh có căn nguyên của mười điều ác, cho nên đời sống sẽ cằn cỗi và suy tàn (rất đáng thương, nghèo, suy tàn), huống chi là ác báo của chính cá nhân mình? Cho nên báo ứng như hình với bóng. Đây chính là mười niệm mà Sư phụ hôm nay giảng cho mọi người. Lần sau thầy sẽ tiếp tục kể cho mọi người nghe về mười điều ác, phải xuống địa ngục, không được đầu thai làm người. Hy vọng mọi người cố gắng học Phật tu tâm. Đời người là chú trọng tìm kiếm ý nghĩa thực sự của cuộc sống, tìm kiếm cảnh giới vô ngã và tìm ra bổn tánh chân như.
Tiếp theo, Sư phụ sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện nhỏ. Câu chuyện này rất thú vị, mọi người hãy chú ý lắng nghe, có thể phân biệt nó trong lòng. Có hai anh em từng có ước mơ đi xa để tu Đạo, nhưng tiếc thay cha mẹ đã già, các em còn nhỏ, còn người anh cả ở nhà có vợ ốm đau, con yếu ớt nên không thể đi được.
Có một ngày, có một cao Tăng đi ngang qua nhà bọn họ, hai anh em vừa thấy Cao Tăng Đại Đức đến, bèn mời vào nhà, quỳ lạy trước mặt ông và nói “Con muốn bái Ngài làm thầy”, và kể lại những khó khăn trong nhà. Hai tay cao Tăng chắp trước ngực, khẽ nhắm hai mắt, sau đó tự lẩm bẩm: “Xả đắc xả đắc, không có xả, thì lấy đâu ra đắc? Hai người các ngươi ngộ tính đều không đủ, mười năm sau ta sẽ quay lại”. Sau đó lướt qua và bỏ đi.
Người anh đốn ngộ, và dứt khoát rời đi với cuốn kinh sách trên tay. Anh trai liền bỏ tất cả ở lại và dứt áo ra đi. Còn người em trai nhìn cha mẹ, rồi lại nhìn chị dâu bị bệnh và em gái nhỏ của mình (anh trai đi rồi, còn chị dâu bị bệnh này và đứa em gái nhỏ tuổi của cậu ấy), cuối cùng không thể bỏ được, cậu ta không nỡ.
Thời gian như thoi đưa, mười năm sau người anh quay về, miệng tụng kinh Phật, thao thao bất tuyệt, tiên phong đạo cốt, lược kiến bất ban (dựa vào chuyện nhỏ suy ra chuyện to). Nhìn lại người em, dáng người lom khom, khuôn mặt già nua, đờ đẫn, phản ứng chậm chạp. Vị cao Tăng xưa kia đến như đã hẹn (mười năm rồi, cao Tăng vẫn giữ nguyên lời, ông ta lại quay trở lại), hỏi hai người: “Đã mười năm trôi qua, các ngươi thu nhận được gì?”
Người anh nói: “Thưa Sư phụ, trong vòng mười năm, con đã du hành khắp núi sông, viếng thăm chùa chiền và Đạo giáo, thuộc lòng hàng ngàn quyển kinh, và cảm ngộ được vô số điều”.
Người em nói: “Thưa Sư phụ, trong vòng mười năm con đã tiễn đưa bố mẹ con, sức khỏe chị dâu đã hồi phục, em gái con đã thành gia lập nghiệp. Nhưng vì lao lực nên con không có thời gian đọc tụng kinh điển, con sợ không có duyên được với đại sư”.
Cao Tăng mỉm cười nhẹ, đột nhiên quyết định nhận người em làm đệ tử. Lúc này, anh trai cảm thấy kỳ lạ: “Tại sao không thu nhận con? Em trai ở nhà, tại sao lại thu nhận nó?” Sau đó liền hỏi nguyên do: “Thưa Sư phụ, tại sao lại như vậy?”
Cao Tăng nói: “Phật ở trong tâm, không ở trong danh sơn đại xuyên. Trong lòng có thiện, hơn đọc chân kinh ngàn quyển. Cha mẹ còn không yêu thương, nói gì đến phổ độ chúng sinh? Bỏ gốc lấy ngọn, thì cuối cùng cũng không có duyên với Phật.
Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng con người phải chân tu. Con người không chỉ đơn thuần là học Phật mà còn cần áp dụng những điều sau khi học. Bổn tánh con người là thiện lương, nếu chúng ta xa rời bổn tánh của mình thì chúng ta đặt Phật ở bộ phận nào trên thân mình? Cho nên người thật sự có thể học Phật phải có căn cơ tốt. Cũng giống như người học Phật tu tâm nhập định, sau khi nhập định, trong tâm có nhớ nhung hay không? Nhiều người nói: “Tôi đã nhập định và đầu óc đã trống rỗng rồi”. Sai rồi, quý vị vẫn có chứ ! Tại sao? Mặc dù đã nhập định rồi, cảm thấy mình không còn tưởng niệm, không có ý niệm, trên thực tế quý vị không có ý niệm cũng là một tưởng niệm nên gọi là “tư duy định hậu”. Sau khi không còn chỗ cho trí tưởng tượng, vẫn còn một chút suy nghĩ cuối cùng sau khi định. Trong cách hiểu về nhân tính và Phật tính từ kinh điển Phật giáo có “tư duy định tiền” (suy nghĩ trước khi nhập định). Bởi vì trước khi quý vị nhập định thì đã có suy nghĩ rồi, nên dù cho sau khi nhập định đã loại bỏ được những suy nghĩ lúc khi nhập định, thì việc nhập định của quý vị cũng là một loại suy nghĩ
Thế giới Phật giáo dạy chúng ta rằng nhìn thấu và suy nghĩ, nhìn thấu mà nghĩ, nhìn trúng mà nghĩ, chính là trí tuệ. Nói cách khác, nhìn thấu và buông bỏ ngày hôm nay cũng là một loại tưởng niệm. Đối với việc của ngày hôm nay, hãy nói “Tôi đang suy nghĩ về nó, tôi chưa hoàn toàn buông bỏ, và tôi đang tu tâm” – quý vị cũng đang nghĩ về nó, cho nên sự khác biệt về bản chất chính là trí tuệ. Bởi vì tư duy là dựa theo trí tuệ phát ra âm thanh, nên quý vị có bao nhiêu trí tuệ sẽ dẫn đến mức độ mà suy nghĩ của quý vị có thể đạt tới. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị là người suốt ngày làm những điều tốt cho người khác và giúp người khác làm điều gì đó. Cảnh giới của mọi người đều thấp hơn quý vị: “Cảm ơn bạn, bạn đã làm rất tốt và luôn làm điều tốt cho mọi người”. Và tự bản thân quý vị nghĩ: “Tôi đã làm gì đâu? Đây vốn là điều nên làm. Tôi đã làm từ nhỏ, bố mẹ tôi cũng không nói tôi tốt, bố mẹ tôi cảm thấy tôi nên giúp đỡ người khác làm rất nhiều việc tốt”. Đây là sự khác biệt trong cảnh giới. Tùy ý hết thảy
không ngại, nói cách khác, một chuyện tốt đã ăn sâu trong tâm quý vị, hết thảy không có chướng ngại. Và nếu quý vị muốn làm một điều tốt thì “Tôi muốn làm”, bản thân điều này đã là có sự tưởng niệm, và sẽ tạo ra một rào cản trong tâm quý vị. Vậy nên mang theo tâm để tu tâm, rất khó tu thành chân tâm. Vô tâm để tu tâm, mới có thể tu ra chân tâm.
Một khi quý vị nhìn thấu nó và thấy nó trống rỗng, quý vị sẽ bước vào cảnh giới “như thực tướng”. Có nghĩa là quý vị đã nhìn thấu nó, quý vị đã nhìn nó trống rỗng, thực sự không còn cảm giác gì nữa và quý vị đã bước vào cảnh giới của “Tướng chân thực Như Lai”. Nếu quý vị nắm lấy tính chân thực của giới chân thật, kiên trì quan niệm nhìn rỗng không, nhìn thấu, buông bỏ, sau đó gặp phải tất cả vấn đề của nhân gian, thì quý vị nhất định sẽ có được quan niệm này làm điểm chống đỡ, sẽ không sợ hãi bất cứ chướng ngại nào của nhân gian và quý vị sẽ đạt được đại tự tại. Vì thế có câu nói “Tất cả cảnh giới vô ngại là trí tuệ, vô vi và chuyển hóa của Phật giáo Đại thừa”. Cuối cùng, Sư Phụ muốn nói với mọi người rằng trí tuệ của Phật giáo Đại thừa mang đến cho quý vị vô ngại. Sự vô vi của Phật giáo Đại thừa mang đến cho quý vị sự khai giải và giải thoái. Sự chuyển hóa của Phật giáo Đại thừa mang đến cho quý vị lý ngộ và giác ngộ.
Hy vọng mọi người sẽ học Phật và tu sửa tâm mình thật tốt. Bài giảng hôm nay về《Bạch Thoại Phật Pháp》với đại chúng xin tạm dừng tại đây. Chúng ta hẹn gặp lại vào lần sau.
84. Thập thiện là căn nguyên của huệ mệnh
Tập 84
THẬP THIỆN LÀ CĂN NGUYÊN CỦA HUỆ MỆNH
(10/06/2020)
Được rồi, hôm nay chúng ta tiếp tục nói về “Bạch Thoại Phật Pháp”.
Lần trước chúng ta nói về Thập Thiện, hôm nay chúng ta tiếp tục nói về Thập Ác bao gồm: sát, trộm, dâm, vọng, khởi ngữ, ác khẩu, hai lưỡi, ghen tị, oán hận hại, tâm mang tà kiến. Trên thực tế đây chính là những gì mọi người quen thuộc, sát, trộm, dâm, vọng ngôn (nghĩa là vọng ngữ), khởi ngữ, ác khẩu, hai lưỡi (nghĩa là đâm thọc ly gián, gây chia rẽ), ghen tị, sân oán (nghĩa là hận), tâm mang tà kiến. Đối với người khác có ý nghĩ không tốt, kỳ thực đây cũng là có tội, nếu người ta rất tốt, quý vị nghĩ người ta không tốt, vậy thì nếu có tà kiến này là đã phạm tội rồi. Trước đây mọi người căn bản không biết, cho rằng: “Tôi có ý kiến về anh ấy”. Nếu cái nhìn này đúng thì quý vị sẽ không phạm tà kiến. Nếu hôm nay quý vị có cái nhìn sai về người khác, vậy thì quý vị đang làm tổn thương người khác và quý vị đang phạm tà kiến.
Nghiệp báo của việc sát sinh là mạng sống ngắn ngủi. Có một số người mạng sống rất ngắn, do sát nghiệp đời trước của họ và cộng thêm sát nghiệp đời này, nên thọ mạng của họ đặc biệt ngắn. Sau này quý vị chỉ cần thấy ai đó ra đi khi còn trẻ, vậy thì người đó chắc hẳn đã có nghiệp sát, bởi vì đây là quả nghiệp của thọ mạng cực ngắn chiêu cảm.
Nếu lấy đồ của người khác mà không có sự đồng ý của họ thì đó là chiếm giữ, là trộm cắp. Mọi người có biết quả báo của tội trộm cắp là gì không? Là nghèo hèn và một đời nghèo khổ. Nghèo cả đời, có muốn giàu cũng không phát tài được. Mọi người thấy đấy, một số em học sinh khi còn nhỏ đã thích trộm đồ của người khác, như bút chì, những thứ rất nhỏ phải vậy không? Như lấy một cục tẩy, nhìn xem trong túi của ai đó có gì rồi lấy trộm thước dây. Quý vị phải biết rằng làm như thế khi lớn lên mọi việc sẽ không suôn sẻ và sẽ không kiếm được tiền. Đây chính là quả báo. Vì vậy, không được ăn cắp tài sản của người khác.
Không được làm những việc mà không có sự đồng ý của người khác, rất nhiều người đều không biết điều này.
Dâm dục mãnh liệt là nhân, nếu hôm nay quý vị lăng nhăng và là kẻ háo sắc, ham muốn vô cùng mãnh liệt (dục vọng vô cùng mạnh mẽ), sẽ dẫn đến người mà quý vị thích hoặc là bạn đời, hoặc là bạn bè sẽ không chung thủy với quý vị. Vậy nên hãy nhìn mà xem, một người suốt ngày có ý nghĩ dâm dục thì bạn đời, vợ chồng hay bạn bè sẽ không mấy chung thành với họ. Hơn nữa họ sẽ không có suy nghĩ khiết tịnh, chắc chắn sẽ sai lệch.
Người thích nói dối (người suốt ngày nói dối), ngoài việc người khác căm ghét họ, còn có một loại báo ứng về thân thể. Bồ Tát nói, loại báo ứng này là hôi miệng, khẩu khí thối uế, quanh năm hôi miệng. Chúng ta thường nói hôi miệng đôi khi là do tình trạng đường tiêu hóa không tốt hoặc đánh răng không kỹ, có thể có một số lý do dẫn đến việc này, nhưng nếu như luôn có mùi hôi, thì quý vị phải cẩn thận, đây là có vấn đề rồi.
Thường xuyên nói khởi ngữ, ngôn ngữ không bình thường, nói lung tung, thì vùng đất nơi lớn lên sẽ không bằng phẳng. Nếu đất không bằng phẳng, sẽ làm cho tâm thái của người sống ở nói đó bị ảnh hưởng, loại địa phương này nói chung sẽ không giàu có lắm.
Về nghiệp nhân của hai lưỡi, một người nếu như hai lưỡi – đâm thọc ly gián hai bên, thì dẫn đến họ làm bất cứ chuyện gì cũng sẽ gặp phiền não và “gai nhọn”, nghĩa là sẽ có trở ngại. Lấy một ví dụ đơn giản, người thường xuyên gây xích mích chia rẽ sẽ không có chướng ngại trong công ty sao? Họ không có phiền não sao? Người khác sẽ không nhìn ra sao? Cho nên làm như vậy rất ngu ngốc, gây xích mích chia rẽ đến cuối cùng bị người ta phát hiện, người chịu thiệt vẫn chính là mình. Vậy nên không nên gây chia rẽ.
Ác khẩu, nghĩa là mắng chửi người. Nguyên nhân mắng chửi người chính là giữa hai người với nhau vì ngôn ngữ, khái niệm, tư duy bất đồng, không có giao tiếp thiện lương tốt đẹp. Vậy nên người ác khẩu sẽ không được người khác hiểu họ. Người suốt ngày thích mắng chửi người sẽ không gặp được thầy tốt bạn hiền. Quý vị nghĩ xem có phải như vậy không? Nếu một người suốt ngày mắng chửi người, động một chút là không nói đạo lý, thì làm sao có người tốt kết giao bằng hữu với họ?
Còn có một loại người có lòng đố kỵ nặng nề. Người lòng đố kỵ nặng nề sẽ dẫn đến họ làm chuyện gì cũng không đạt được thành quả viên mãn. Trước đây từ nông thôn mà nói, sẽ không được mùa ngũ cốc, loại tâm tính này sẽ không dẫn đến mùa màng bội thu về mọi mặt. Ví dụ như nhà quý vị vừa trồng ngô, rồi trồng lúa, lại trồng rau, không phải tất cả đều được mùa, luôn luôn có một hai loại không được mùa. Dùng lời hiện tại mà nói, người ghen tị với người khác sẽ không đạt được thành quả viên mãn.
Tâm oán thù, hận người khác, tâm trí sẽ hình thành loại khái niệm giận dữ và ác niệm. Bởi vì quý vị hận rồi, nên sẽ tức giận, sau đó càng ghét, thì môi trường xung quanh càng tồi tệ, càng tệ quý vị càng hận, hận càng về sau, hoàn cảnh xung quanh chính là nguyên nhân khiến quý vị không có một việc nào có thể thuận lợi. Vì vậy, những người thường hay hận người khác, môi trường xung quanh nhất định sẽ không tốt.
Quả báo tà kiến, ngoại trừ tà tri tà kiến, không chính niệm, không chính kiến mà Sư phụ vừa mới nói với mọi người, thật ra người tà tri tà kiến vào những năm cuối đời, sẽ tự nhiên sinh ra trong tám đại địa ngục. Nghĩa là quanh năm suốt tháng tà tri tà kiến, không chính kiến, họ sẽ bị đọa vào địa ngục. Cho nên mọi người hãy nghĩ xem, tà tri tà kiến đáng sợ cỡ nào. Có nghĩa là rõ ràng người này là người tốt thì quý vị coi người đó là người xấu. Rõ ràng người này là người xấu thì quý vị nói đó là người tốt. Sự hiểu biết về Phật Pháp, rõ ràng người khác
nói là đúng, nhưng quý vị bẻ cong lại nói. Sư phụ đưa ra một ví dụ để mọi người có thể hiểu rõ hơn. Quý vị đi thuyết phục người ta ăn chay, đừng sát sinh, họ hỏi: “Cây thực vật có sự sống hay không?” “Có, thực vật cũng có sự sống vậy” “Rau xanh củ cải bạn đừng ăn luôn đi, chúng cũng đau vậy, sao bạn giết chúng, ăn chúng?” Loại này gọi là tà tri tà kiến, người dùng loại ngôn ngữ này để chống lại chính tri chính kiến, sẽ bị đọa địa ngục, họ tìm ra lý do không thiết thực, hoặc dùng một khái niệm khác để thay thế hay bác bỏ một tư tưởng đúng đắn. Đó là “cái thấy” dẫn đến đọa địa ngục, bởi vì bản thân họ hoàn toàn bị đảo lộn giữa đúng và sai.
Chúng sanh vì tạo ra mười nghiệp ác mà Sư phụ vừa nói (tạo là đã làm rất nhiều rồi). Vừa nãy Sư phụ nói mười nghiệp ác, mọi người có phải đã tạo ra rất nhiều rồi không?) dẫn đến hoàn cảnh nơi sinh ra khắc nghiệt. Thử nghĩ xem, quý vị ghen tị với người khác, sân hận người khác, ác khẩu, hai lưỡi, hoàn cảnh này có tốt cho quý vị không? Quý vị đã tạo ra nhiều nghiệp như vậy, liệu người khác có thích quý vị không? Quý vị đi đến đâu, người ta sẽ bỏ rơi quý vị đến đó. Nếu quý vị đã tạo ra mười nghiệp ác này thì môi trường sống của quý vị chắc chắn không tốt, nên ngày nào quý vị cũng sống một cuộc sống bất mãn, chưa nói đến ai cũng phải chịu quả báo xấu do thân xác gây ra. Quý vị nghĩ xem, trên cơ thể quý vị vẫn còn rất nhiều cảm giác không thoải mái, quý vị nói: “Tôi không tham sân si, tôi không oán giận, nhưng tại sao thân tôi lại cảm thấy đau đớn?” Đó là quả báo xấu do thân xác gây ra, là quả báo xấu do những việc xấu mà quý vị đã làm ở kiếp trước gây ra. Nên đức Phật đã nói với mọi người rằng: “Này các Tỳ kheo, nên từ bỏ mười pháp ác, tu hành mười pháp thiện”. Mọi người đều rất cảm động khi nghe Đức Phật nói những lời thân thiết như vậy. Mặc dù đó là những thứ nhỏ nhặt trong cuộc sống của chúng ta, nhưng trên thực tế, mọi người đều phải tuân theo. Những sai lầm của một người được hình thành từ thời thơ ấu, và lòng tốt của một người cũng được hình thành từ mỗi điều nhỏ nhặt, vì
vậy hãy để chúng học tốt ngay từ khi còn nhỏ. Khi ấy, sau khi các Tỳ kheo nghe được lời khai thị của Đức Phật, mọi người đều tràn đầy Pháp hỷ.
Vừa rồi nói với mọi người về Thập Ác. Lần trước đã nói về Thập Thiện và Thập Niệm. Điều vừa nói với mọi người hôm nay là trong kinh Phật “Kinh Tứ Thập Nhị Chương” đã từng nói “mười việc như vậy không thuận với Thánh đạo, gọi là mười hạnh ác”, đó là mười sự việc vừa mới nói trên là không thuận theo Thánh đạo. Thế nào là Thánh đạo, thế nào là Thánh nhân, thế nào là Thánh? Ngày xưa chữ “Thánh”《聖》, có nhĩ(耳)bên trái và khẩu(口)bên phải, nếu quý vị nghe tốt, nói tốt, thì quý vị sẽ có được “vương” (王)
Từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, tức là quý vị sẽ là một vị Thánh nhân. Vì vậy, giữa người với người khác nhau, tức là những gì họ nghe và nói ra đều không giống với người khác, đó chính là vua của loài người. Vì vậy, phải hiểu rằng “mười việc như vậy không thuận với Thánh đạo, gọi là mười hạnh ác”. gọi là mười pháp ác, tức là mười ác hạnh. “Thị ác nhược chỉ”, nghĩa là nếu dừng lại tất cả mười ác pháp này và làm cho chúng không hoạt động nữa thì gọi là “Thập thiện hành nhĩ”, tức là Thập thiện hành. Vì vậy, trong mười ác nghiệp và mười thiện nghiệp, chỉ cần ngăn chặn các ác nghiệp thì sẽ trở thành người có mười thiện đó là Thánh nhân.
Mục đích tối hậu của sự tu tập của chúng ta là gì? Chính là nhập Bồ Đề Niết Bàn. Là ý nghĩa gì? Mục đích tối thượng của chúng ta là có trí tuệ, hiểu biết vô ngã, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng, vô nhân tướng, vô ngã tướng, nghĩa là hiểu được Niết-bàn, nghĩa là đã triệt ngộ (là sự giác ngộ hoàn toàn). Vì vậy, quý vị không thể hiểu được mục đích và sự giác ngộ trọn vẹn khi đến thế giới này, thì quý vị không thể làm tốt mọi việc nhỏ nhặt trên thế giới này. Khi xây nhà mỗi một viên gạch không được đặt lệch, vì nếu đặt viên gạch nào lệch, ngôi nhà sẽ đổ khi đã xây rất cao. Vì vậy, trong giới Phật giáo thường có câu nói: “Vạn trượng cao lầu bình địa khởi”. Hôm nay quý vị có thể lên được thượng
thiên, về sau có tu thành Chánh đẳng Chánh giác hoặc vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chính là dựa trên mỗi lời nói và hành động hiện tại của quý vị để đạt được “phụng hành thập thiện, không tạo thập ác làm nền tảng” của Bồ Tát.
Mười điều ác và mười điều thiện đối với chúng ta mà nói thật khó biết bao. Xem ra ai cũng biết nói “không nên trộm, tôi đâu có trộm”. Nếu cứ lấy đồ của người khác mà không nói cho họ biết thì có gọi là ăn trộm không? Vì khi lấy quý vị không có cảm giác. Quý vị có thể thành Phật nếu quý vị cứ gieo rắc sự chia rẽ một cách tùy tiện không? Còn miệng lưỡi xấu xa của quý vị thì sao? Chửi mắng người thì sao? Mỉa mai người khác thì sao? Quý vị nói lời thêu dệt thì sao? … Tất cả thân khẩu ý này đều phải giống như Phật. Vậy nên phải giác chiếu, luôn luôn giác chiếu – nghĩa là phải giác ngộ và quán chiếu bản thân. Quán chiếu gì? Quán chiếu ngũ uẩn giai không. Đừng có những suy nghĩ xấu, đừng có các loại suy nghĩ xấu trong tâm. Phải tự kiểm điểm và xem xét lại chính mình, không để bất kỳ ý nghĩ hay nghiệt chướng dư thừa cặn bã nào còn sót lại trên người hay lưu lại trong tâm mọi lúc, thì quý vị sẽ thanh tịnh vô ngại.
85. Tâm, Phật, Chúng sanh cả ba đều không có sự khác biệt
Tập 85
TÂM, PHẬT, CHÚNG SINH CẢ BA ĐỀU KHÔNG CÓ SỰ KHÁC BIỆT
(10/06/2020)
Nếu quý vị có thể thanh tịnh không chướng ngại, thì quý vị sẽ tiến thêm một bước nữa đó là tu thiện – bởi vì lòng tốt của con người rất quan trọng – hãy thường xuyên tu thiện mà không dính mắc vào điều thiện. “Hôm nay tôi làm việc thiện rồi”, thì không nên dính mắc, người thiện lương đương nhiên làm việc thiện lương, người ác đương nhiên làm việc của kẻ ác, quý vị tinh tấn vô vi, vô sở trụ tâm, lập tức sẽ được tự tại giải thoát. Cho nên học Phật làm người, chỉ cần quý vị không chấp trước tất cả những gì mình làm, có thể buông bỏ, tinh tấn vô vi, và không bị dính mắc từng chút một về những gì quý vị đã có được và sở hữu, thì quý vị sẽ không trụ vào đâu, cũng có nghĩa là không có thứ gì có thể gây trở ngại trong tâm của quý vị, thì tất nhiên quý vị sẽ được tự tại giải thoát.
Hôm nay Sư phụ đã giảng cho mọi người về Thập Ác Pháp, Thập Thiện Pháp và Thập Niệm Pháp, tiếp theo Sư phụ sẽ giảng cho mọi người biết, tại sao học Phật lại chú trọng đến vô ngã. Thật sự không dễ để tu đến cảnh giới vô ngã, nếu quý vị tu đến một giai đoạn nhất định đã hoàn toàn “Ngã không” và không mang danh lợi của mình để ở trong lòng, thì đó chính là vô ngã. Hôm nay người khác nói người này thăng chức hoặc trở nên giàu có, quý vị đã không còn vướng mắc gì ở nhân gian nữa, quý vị sẽ không đố kỵ, sẽ không phiền não, sẽ không sinh tâm sân hận, sẽ không sinh ra các loại tâm tham như: “Tại sao tôi không có, họ có?” Người như vậy gọi là vô ngã. Nhưng cảnh giới vô ngã trong Phật giáo lại tuyệt đối không phải là trống rỗng. Quý vị nói, vô ngã có phải trống rỗng rồi không? “Tôi vô ngã rồi, không có con người này nữa, cái gì tôi cũng không quan trọng nữa”, trống rỗng rồi sao? Không trống rỗng. Tại sao? Quý vị ở trong “Bất Không” tu thành vô ngã, vậy thì cái Không này vẫn còn hay không? Vẫn còn, bởi vì trong Sắc của quý vị có Không, trong Không có Sắc. Trong thế gian ở cõi người này, người khác đều có danh lợi, quý vị nghĩ thông suốt rồi, không tranh danh tranh lợi với ai nữa, có phải quý vị đang ở trong “Không” hay
không? Sắc tức thị không. Thế nhưng người ta nói: “Con người bạn cái gì cũng trống rỗng, nghĩ thông suốt rồi”, trên thực tế những tài, sắc, danh, thực, thụy mà quý vị nhìn thấy ở nhân gian toàn bộ đều có, quý vị không có trống rỗng, quý vị nhìn thấy được, chỉ là sau khi quý vị nhìn thấy rồi, quý vị không hành động, quý vị đã giải quyết nó rồi, buông xuống rồi.
Người phàm phu luôn cho rằng, trên thế gian này có một cái “tôi” thật tồn tại – là chân ngã, “cái này là của tôi, cái kia là của tôi, tại sao bạn không cho tôi?” Thật ra mọi thứ trên thế giới này có gì là của tôi và của bạn? Tất cả mọi thứ là của thế giới này, và ngay cả quý vị đến thế giới này cũng không phải là của quý vị, cơ thể của quý vị là vay mượn, và linh hồn của quý vị cũng là vay mượn. Phật đã sớm nói cho chúng ta biết, khi thân thể chết đi, linh hồn này sẽ vĩnh viễn rời đi. Cho nên cái “tôi” từng có ở nhân gian chính là một cái tôi giả. Mọi người có nghe Đức Phật nói chưa? Đây là một cái tôi giả, thể xác không còn, linh hồn rời khỏi thể xác, như vậy cái còn lại chính là “tôi” của một linh hồn, bởi vì không tìm thấy một cái “tôi” thật sự của thể xác, vậy đó chính là cái tôi giả.
Linh hồn là thực thể tồn tại trong cảnh giới ý thức của chính mình. Câu này tương đối sâu, Sư phụ sẽ giải thích cho mọi người hiểu. Ý thức chính là mờ ảo, tưởng tượng, tư duy, là thuộc về ngũ uẩn. Linh hồn là một thực thể có thật trong lĩnh vực ý thức của bản thân, nó là một linh tính và linh hồn trong tâm hồn của quý vị, nó là tồn tại và có một linh thể như vậy ở trong cơ thể quý vị. Trên thực tế Bồ Tát nói với chúng ta, thể tồn tại này không phải là quý vị thật, không phải là chữ “tôi” thật, chỉ là khi quý vị sinh ra ở nhân gian và sau khi có được thân thể này rồi, quý vị đã triệu kiến cái linh hồn này, khi linh hồn này muốn tiến nhập vào thân thể của quý vị nhất định phải có một cái tôi giả, chính là cái tên giả. Ví dụ như con người quý vị vốn tên là gì đó, nhưng sau khi đặt cho quý vị một cái tên, thì quý vị liền biến thành một cái tên mới, ví dụ như tên: “Lão Trương”. Có người không đặt tên cho họ, bởi vì họ là đứa con thứ sáu trong gia
đình, nên từ nhỏ đã gọi là “Tiểu Lục”, mãi cho đến khi về già, người ta còn gọi người đó là “Tiểu Lục”, lúc chết còn gọi là “Vương Tiểu Lục”, chính là ý nghĩa này. Trên thực tế, khi anh ấy đi được nửa đường đời, nếu anh ấy đổi tên, mọi người sẽ nói với anh ấy rằng: “Anh không gọi là Vương Tiểu Lục? Vậy anh tên gì? Vương Phú Quý”. “Được rồi, vậy thì gọi Vương Phú Quý đi”. Như vậy từ đó về sau “Vương Tiểu Lục” sẽ không còn nữa, bởi vì cái thân thể giả này của anh ta chính là “Vương Phú Quý” rồi.
Người bình thường nhìn thấy thân thể, tin rằng có một chữ “tôi” tồn tại. Các vị bình thường nhìn thấy người này, lập tức liền nhớ tới “Tôi biết cậu ấy, cậu ấy là bạn của tôi, cậu ta tên là Vương gì đó (hoặc Trương gì đó hay Lý gì đó)”, thực ra cảnh giới của quý vị đã sai lệch rồi, bởi vì quý vị nhìn thấy là một cái tôi giả. Còn Bồ Tát thì nhìn thấy khác, ví dụ như người này mắng quý vị, quý vị liền biết “Đây là một cái tôi giả, ngay cả chính tôi cũng tìm không ra tôi là ai, người mà họ mắng tôi, nói tôi, họ là một cái tôi giả”. Tại sao nhiều người lại sĩ diện? Bởi vì họ coi mình là một cái tôi thật sự: “Ôi, tôi mất mặt rồi”, “Ôi, tôi xấu hổ quá”, “Ôi, mọi người nghĩ gì về tôi? Tương lai tôi làm việc ở đây có phải là điều đáng xấu hổ không?” Chữ “tôi” này tồn tại trong thân xác của quý vị. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị đeo một chiếc mặt nạ giả và khoác lên khuôn mặt của người khác, khi người khác nói về quý vị, có phải quý vị cảm thấy “Anh ta đâu có nói về tôi, mà người họ nhìn thấy lại là một người khác?” Cái ngã tướng này của quý vị liền biến mất rồi.
Vậy nên cái ngã hư vọng trống rỗng ở cõi người thực chất là tứ đại giai không. Tại sao lại tứ đại giai không? Đó là sự tồn tại của ý thức. Đất, nước, lửa, gió, gió có thổi đi không? Đất cũng sẽ không có, nước cũng sẽ chảy đi, lửa cũng sẽ cháy hết, gió cũng sẽ không còn. Con người là như vậy, chúng ta thường nói con người là sự kết hợp của bốn cái thân giả lớn: Đất là xương cốt. Gió chính là nói ví dụ như một người bị cảm mạo, trên thân thể người đó có phong hàn. Còn nước là máu, là các loại nước trên thân thể và nước bọt. Hỏa, thường xuyên nói
bốc hỏa khí, thực ra hỏa chính là máu lưu thông tương đối nhanh, khiến tuần hoàn máu tăng tốc, từ đó gây ra tắc nghẽn ở một mức độ cụ thể, không thể điều chỉnh trở lại mức bình thường ban đầu, thì hỏa liền phát sinh, khi nổi giận, lửa đốt gan, nên nói hay nóng giận sẽ sinh ra cãi vã, tính khí cũng nóng theo. Cho nên đây đều là giả, là một ý thức, quý vị có thể nổi nóng, cũng có thể lập tức không nổi nóng. Không phải Sư phụ đã từng nói với mọi người rồi sao, có một người nằm ngủ trên ghế trong công viên, cuối cùng có một người đi tới, ngồi lên người anh ta, anh ta tức giận đứng lên, vừa định mắng thì nhìn thấy đối phương là một người mù, cơn giận lập tức hạ xuống. Vì sao vừa mới vài giây trước còn có hỏa khí, vài giây sau hỏa khí liền tan biến? Bởi vì anh ta biết “đây là giả, người ta không phải thật sự muốn làm như vậy, không phải cố ý ngồi trên người tôi”, vì hiểu rõ đạo lý này, trong nháy mắt chuyển đổi nhân duyên, vậy thì tứ đại giai không, đều là trống rỗng.
Ý thức đều là trống rỗng. Quý vị vừa mới muốn làm chuyện này, nhưng tại sao đột nhiên ngừng làm việc đó? Có một số người đang nói chuyện với người khác và khi muốn tấn công, thì đột nhiên hệ tư tưởng của anh ta đã thay đổi. Ví dụ, chúng ta đã từng làm một việc gì đó mà bản thân không thể làm được, nhưng quý vị tưởng tượng “Tôi đã làm được, tôi đã hoàn thành, tôi đã thành công trong việc này”, và cuối cùng chính mình cũng không thể nhớ được việc đã từng hoàn thành là thật hay giả. Ví dụ hôm nay tôi bảo quý vị đi mua đồ, quý vị không đi mua, trong đầu quý vị tưởng tượng “Tôi vừa mới đi ra ngoài, đi bộ vất vả, vừa lúc trời lại mưa, một lát sau, mưa cuối cùng cũng tạnh, tôi đã mua được đồ về, xách rất nặng, sau đó tôi đi về rồi”, chỉ cần ý thức này của quý vị còn tồn tại, trải qua sau một tuần, hai tuần hoặc một tháng, đột nhiên có người hỏi quý vị: “Lần trước bảo cậu đi mua đồ cậu mua chưa?”, “Hình như đi rồi, còn gặp mưa nữa”, chính là ý nghĩa này. Nói cách khác ý thức của con người là tồn tại, chỉ cần con người tưởng tượng ra một chuyện nào đó thì nó sẽ tồn tại. Con người từ bỏ ý thức này, không có tưởng tượng này, vậy thì ý thức này sẽ không tồn tại.
Quý vị tưởng tượng người khác sẽ cười quý vị, sẽ bị đỏ mặt tía tai, cùng tranh cãi với người khác. Đợi đến khi quý vị tưởng tượng người khác không coi trọng quý vị đến như vậy, quý vị là ai? “Người ta cũng sẽ không coi tôi ra gì đâu”, thì khi đó cơn giận lắng xuống. Đây là điều mà Phật pháp cho chúng ta hiểu được tứ đại giai không.
Khi tu đến nhân tướng, ngã tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, thì nó cũng phải trống rỗng. Tứ đại (bốn tướng) giai không này cùng tứ đại giai không kia thật ra đều là rỗng không. Người rỗng không rồi, lúc rời đi chúng sinh cũng sẽ trống rỗng, thọ giả cũng sẽ trống không, ngã tướng cũng sẽ rỗng không. Vậy nên quý vị phải tìm được một cái “tôi” nguyên thủy trong cuộc sống, và cái “tôi” đó thực ra chính là cái “tôi” mà quý vị đã tìm thấy trong tâm hồn mình, và quý vị gọi là “ngã”, cái “tôi” này cũng là cái “tôi” giả hợp, nào có cái “tôi” chân chính? Sư phụ đã từng nói với mọi người, nếu một người tạo nghiệt rất sâu, bị phán xuống địa ngục, sau khi đánh tan hồn phách của họ, thì cái “tôi” này sẽ không còn nữa, từ nay về sau sẽ không còn cái “tôi” này nữa. Vì thế không ai có thể nghĩ rằng có một “tôi” thực sự trên thế giới này. Ý thức của chúng ta trong trường thức thứ chín, đó mới là Phật tánh, là linh hồn thực sự, cũng không thể nói là một cái “tôi”, mà là linh hồn của quý vị, có thể gọi nó là bổn tánh và Phật tánh trong trường thức thứ chín, quý vị gọi nó cái gì cũng được, chỉ là một cái tên. Quý vị gọi nó là cái gì cũng không chính xác, vì nó đều là một ý thức và linh thể thật không có tên.
《Kinh Kim Cang》đã từng nói rằng: “Tu Bồ Đề, phàm phu giả, Như Lai thuyết tức phi phàm phu, thị danh phàm phu”, câu này có ý nghĩa gì? Đức Phật nói với đệ tử là ông Tu Bồ Đề rằng: Phàm phu giả, Như Lai thuyết tức phi phàm phu. Nghĩa là Đức Phật nói rằng: Con người của ông là phàm phu, thực ra ông cũng không hoàn toàn là phàm phu, chỉ là cái danh xưng nói ông là phàm phu. Lấy một ví dụ đơn giản, tôi nói quý vị là người suốt ngày lười biếng, sự lười biếng này có tên là lười biếng, không phải là sự lười biếng thực sự của quý vị, bởi vì
sau này quý vị không lười biếng nữa, thì cái tên này sẽ không còn tồn tại nữa. Mọi người hiểu không? Đây chỉ là một cái tên, “tên lười biếng”. Vậy nên tại sao Đức Phật lại nói vừa là phàm phu lại không phải phàm phu? Bởi vì chỉ là trên danh xưng gọi là phàm phu. Nếu lúc nhỏ quý vị được gọi là “tiểu lười béo” hay “tiểu lười biếng”, đến khi lớn lên đã trở nên rất siêng năng, liệu quý vị có còn là một “tiểu lười béo” hay “tiểu lười biếng” nữa không? Lười biếng chỉ là một cái tên đã từng của quý vị mà thôi.
Vậy nên thực ra phàm phu trải qua học Phật tu tâm, có thể biến thành phi phàm phu. Ai nói quý vị là phàm phu? Ai nói quý vị là tục tử? Quý vị đã thay đổi rồi, quý vị đã không phải là phàm phu nữa. Quý vị đã thay đổi, quý vị không phải là tục tử nữa. Người học Phật ở trong Hồng Trần lại không phải xuất gia, cho nên danh là phàm phu, chúng ta không xuất gia, ở nhà, vậy nên nói chúng ta là phàm phu. Nhưng cảnh giới của chúng ta lại thoát ly phàm phu tục tử, vậy nên chúng ta là phi phàm phu.《Kinh Kim Cang》đặc sắc ở chỗ này. Người học Phật và phàm phu tục tử, Thánh nhân và Bồ Tát, thật ra đều là một cái tên giả, bởi vì phàm phu có thể biến thành Thánh nhân, Thánh nhân có thể trở thành phàm phu. Tục tử có thể trở thành Bồ Tát, Bồ Tát có thể trở thành tục tử. Đây chính là nói cho chúng ta biết, trên thế giới này không có phàm phu thật sự, chỉ là trên danh xưng gọi là phàm phu, trên danh xưng gọi là Bồ Tát, trên danh xưng gọi là Phật mà thôi. Một phàm phu tìm được bổn tánh của mình, tức phi phàm phu. Quý vị đã tìm thấy bổn tánh, quý vị có còn là phàm phu không? Một đứa trẻ rất lười, từ nay về sau nó biết không được lười biếng nữa, phải cố gắng thật tốt, nó đã không còn là một người béo lười nữa. Một cư sĩ có thể có được Phật tánh, thì họ chính là Phật, tức là họ không phải phàm phu tục tử.
Chúng sinh bình đẳng. Sư phụ đem những ngôn ngữ kinh điển của Thiền Tông nói với mọi người rằng chúng sinh bình đẳng. Thiền tông cho rằng văn hóa thiền đó là trí tuệ. Tâm, Phật, chúng sinh cả ba đều không có sự khác biệt. Tâm của quý vị, tâm Phật, và tâm chúng sinh, đều không có sự khác biệt. Tâm là gì?
Tâm đã khai ngộ, nó chính là Phật, tâm chính là Phật, cho nên tâm và Phật cùng nhau, nên gọi là tâm Phật hợp nhất. Nếu tâm này là Phật, nếu Phật còn chưa ngộ đạo thì chỉ là phàm phu, sẽ giống như chúng sinh. Bởi vì phàm phu và chúng sinh giống nhau, cho nên cả ba không có sự khác biệt. Chúng ta thường nói: Bạn hãy tu cho tốt, thì bạn chính là Phật. Bạn hãy tu cho tốt thì bạn chính là Bồ Tát. Bạn vốn là Bồ Tát từ trên trời xuống đây thừa nguyện tái lai, bạn không nỗ lực tu, thì bạn chính là phàm phu tục tử.
Đức Phật đã từng nói qua, chúng ta không có độ chúng sinh – năm đó văn tự này được dịch như vậy, vậy thì vì sao Phật nói chúng ta không có độ chúng sinh? Khi quý vị đã khai ngộ và vô ngã, thì là ai sẽ đến độ chúng sinh? Không phải quý vị, vì vô ngã rồi, vậy ai đến để độ chúng sinh? Vì không phải là quý vị, vậy nên đó chính là vô ngã. Khi quý vị đã tu trì chứng được Vô ngã thực sự, thì người đang độ chúng sinh là ai? Không có ai độ chúng sinh cả. Bởi vì đã vô ngã, vậy chúng ta đi đâu mất rồi? Không còn nữa. Nghĩa là “Hôm nay tôi đã làm một việc tốt cho người khác. Sau khi tôi làm việc đó, tôi hoàn toàn quên mất việc đó và tôi hoàn toàn đã quên việc đó rồi, vô ngã rồi”. Vậy thì quý vị còn nhớ việc tốt mà quý vị làm không? Không nhớ nữa. Làm xong việc tốt này thì nó đã tồn tại trong không gian, mà không gian là sự trống rỗng. Vì vậy, nhiều người làm việc thiện đã không để lại tên tuổi, nên cảnh giới của họ rất cao, khi làm việc tốt mà nói rằng: “Tôi đã làm điều này, tôi đã làm điều kia”, vậy thì cảnh giới của người này không cao nên họ chưa thể chứng đắc được Tánh Không. Bây giờ mọi người có hiểu điều Sư phụ đang nói không? Vậy nên Sư phụ bảo mọi người hãy hiểu Phật là gì, Phật chính là đã loại bỏ ngã tướng, không có hình tướng nữa thì quý vị chính là Phật và đã chứng được Tánh Không của chứng ngộ.
86. Tinh tấn là căn nguyên để thành Phật
Tập 86
TINH TẤN LÀ CĂN NGUYÊN ĐỂ THÀNH PHẬT
(10/06/2020)
Hôm nay quý vị chứng được Phật tánh, thì đã khẳng định được quý vị là Vô ngã. Đã Vô ngã, tự nhiên sẽ không có chúng sinh, Vô chúng sinh, Vô thọ giả, cho nên cảnh giới Vô ngã chính là cảnh giới của Phật. “Chúng ta” có phải là “chúng sinh” hay không? Quý vị nói “chúng ta” cùng nhau làm việc tốt, “chúng ta” không còn nữa, “ta” không còn nữa, thì “chúng ta” ở đâu ra? Chúng ta, “ta” cũng không còn nữa, thì “chúng” ở đâu ra? Phải hiểu được cảnh giới của Phật. Tất cả phàm phu đều có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, “Đây là ta làm”, “Người này lợi hại”, “Người này tu rất tốt” v.v.. Tất cả đều là tướng chúng sinh và tướng thọ giả. Trên thế gian, những người đó dốc sức bám víu vào mọi quan niệm, dính mắc vào tất cả sự việc ở đời. Rất nhiều người bởi vì có ngã tướng, cảm thấy “sự việc này là tôi làm”, “sự việc này đáng lẽ phải là của tôi”, cảm thấy có “bản ngã” ở trong đó, cho nên họ không thể thực sự tìm được cảnh giới Vô ngã. Tôi tin rằng mọi người đều đã từng có kinh nghiệm này, mọi người đi tìm một đồ vật gì đó: “Tôi nhớ rõ ràng là để ở chỗ này”, quý vị sẽ dốc sức tìm kiếm ở chỗ đó, bởi vì quý vị có ngã tướng, trên thực tế ký ức này của quý vị là sai lầm. Quý vị nhớ để ở đó, quý vị đã tìm ở chỗ này vô số lần rồi, nhưng bảo quý vị xem xét lại một lần nữa, tìm lại lần nữa, quý vị vẫn tìm ở chỗ này, đây chính là bởi vì ngã tướng và chấp trước vào: “Rõ ràng tôi nhìn thấy ở chỗ này”. Cho nên quý vị phải làm cho bản thân trở nên Vô ngã: “Dường như tôi chưa từng nhìn thấy qua, tôi sẽ ở trong phòng tìm lại lần nữa”, quý vị sẽ tìm được rất nhiều chỗ không đáng tìm hoặc là trong tưởng tượng của quý vị không muốn tìm, thì quý vị sẽ tìm được đồ vật mà quý vị cần tìm.
Hai chữ “Vô ngã” nghe có vẻ trống rỗng, nhưng không có cái “tôi”, tại sao lại dùng cái “tôi” để làm việc? Cho nên con người chúng ta cần một cái tên đúng không? Gọi là cõi người. Còn giới động vật thì sao? Gọi là cõi súc sinh, nó cũng cần có một cái tên. Như vậy rất nhiều súc sinh đầu thai thành người, rất nhiều người tu thành Bồ Tát, vậy người này từ nay về sau liền không còn nữa, động
vật này cũng từ nay về sau cũng không còn nữa, có phải là Vô ngã tướng rồi không? Đó là tướng của một cái “tôi” mà thôi.
Quan niệm trống rỗng về “có tôi” chỉ là vì “tôi nghĩ vậy”. Cũng giống như người khác không biết quý vị, thì dù sao người ta cũng phải gọi quý vị bằng một cái tên đúng không? Khi quý vị đi trên đường, người ta không biết quý vị, dù sao cũng phải gọi là “ông” hay “bà” đúng không? Có một danh xưng để chỉ một người cụ thể. Nếu như người khác gọi quý vị là “ông”, quý vị không còn có cái tôi nữa, bởi vì họ chưa từng gọi tên quý vị, và thậm chí quý vị còn không biết họ gọi “ông” là đang gọi quý vị, thì có phải quý vị đã buông xuống rồi không? Bởi vì người ta không gọi quý vị. Ngay cả khi người này la mắng quý vị hoặc nói những điều tốt đẹp với quý vị, điều đó sẽ không ảnh hưởng chút nào đến quý vị, quý vị sẽ không bị làm phiền bởi tiếng kêu của họ. Vì sao có người lại bị người khác làm phiền? Tại sao có người lại bị người khác quấy rầy? Bởi vì tâm của họ đang lay động, cho nên khi gặp phải chuyện gì họ lập tức động tâm. Tật xấu của con người là cái gì cũng phải quản, cái gì cũng phải nghe. Thánh nhân là gì? Nếu quý vị kiểm soát được tai và miệng của mình, quý vị chính là vua của nhân loại, tức là Thánh. Cho nên Sư Phụ khuyên mọi người đừng bận tâm bởi tiếng nói của người khác hay những hình tướng giả dối của thế gian này, đây chính là điều mà Kinh Phật muốn chúng ta học được: “Tri vô ngã tức buông xả”, biết rằng đã không có “bản ngã”, thì quý vị nên buông xả Ngã tướng. Chỉ bằng cách này, mới có thể siêu thoát khỏi Tự ngã, và tìm thấy Phật tánh.
Được rồi, đó là tất cả cho buổi nói chuyện ngày hôm nay về《Bạch thoại Phật pháp》, sau đây Đài trưởng sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện ngắn.
Xưa kia ở Thành Xá Vệ có một phú ông, sở hữu vô số tài sản, ông ta còn có một đứa con trai duy nhất tên là Nan Đà. Khi Nan Đà còn nhỏ, cậu ta rất lười biếng không phấn chấn, thích nằm trên giường ngủ. Lúc đó đừng nói xuống giường đi lại, cho dù có kêu cậu ta đứng dậy ngồi một lát cũng không chịu. Mặc dù bản
tính Nan Đà lười biếng, nhưng cậu có trí tuệ thông minh tuyệt luân, cậu ta nằm ở trên giường nghe người giảng giải kinh thư, hoàn toàn có thể hiểu hết những gì đang được giảng.
Phú ông rất vui khi thấy con trai mình giỏi giải kinh luận như vậy. “Các ông thấy đấy, đứa con trai này tuy lười, nhưng cái gì nó cũng hiểu, cái gì nó cũng nói được”. Ông liền mời ngoại đạo lục sư, những người như Phú Lan, đến nhà để dạy Nan Đà. (Phú Lan chính là nhà tư tưởng tôn giáo cấp bậc rất cao năm đó, mời những người đó đến dạy cho Nan Đà). Sau một bữa tiệc thịnh soạn mỹ vị, phú ông liền nói rõ tình huống đứa con trai duy nhất của mình với đám người Phú Lan: “Hy vọng các ông có thể giúp ta dạy dỗ đứa con trai trời sinh lười biếng này” (Thời xưa lười biếng không gọi là lười biếng, gọi là đãi nọa, tức là từ đãi của giải đãi, người này tương đối lười biếng giải đãi). Vì thế mấy vị sư ngoại đạo cùng theo phú ông đến phòng của Nan Đà, không ngờ Nan Đà nằm ở trên giường và phớt lờ bọn họ. Phú ông thấy con trai mình không thụ giáo (không thụ giáo nghĩa là không lễ phép, không nghe giáo huấn), ông vô cùng buồn rầu, đưa tay ôm hai gò má và nói: “Ôi ! làm thế nào cho phải đây!”
Đây là thời kỳ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang độ hóa tất cả chúng sinh, và cũng là thời điểm Đức Phật còn tại thế. Đức Phật luôn quan sát tất cả chúng sinh ngày đêm. Chỉ cần thấy chúng sinh đang khổ nạn, Đức Phật liền từ bi đến đó và thuyết pháp cho họ, để họ có thể tâm khai ý giải (có thể nghĩ thoáng và hiểu rõ), để tránh xa những phiền não và đau khổ. Điều Đức Phật thích làm nhất là giải thoát người khác khỏi những phiền não và đau khổ, cũng là đại từ đại bi.
Lúc này, Đức Phật nhìn thấy phú ông ở đằng xa đang lo lắng cho đứa con của mình. Bởi vì Đức Phật có khả năng nhìn từ xa nên từ xa Ngài có thể nhìn thấy phú ông này suốt ngày nghĩ: “Con tôi phải làm sao đây, con tôi phải làm sao đây?” Sau đó, Đức Phật và chư Tỳ-kheo đến nhà vị phú ông này. Điều kỳ lạ là ngay khi Nan Đà nhìn thấy Đức Phật, cậu ta liền đứng dậy và trải dụng cụ ngồi
cho Đức Phật (ngày xưa, tất cả những chiếc ghế dùng để ngồi đều được phủ bằng những thứ như chăn bông và chăn len), và đảnh lễ Đức Phật một cách chân thành kính trọng. Khi thấy Đức Phật đến, cậu ta liền đi xuống trực tiếp khấu đầu đảnh lễ. Vì vậy, Đức Phật đã khai thị cho Nan Đà đủ loại pháp yếu (Pháp yếu là yếu lĩnh của Phật pháp), trách móc cậu ta một cách gay gắt, mắng nhiếc và bảo cậu ta không được nằm trên giường, tham ngủ, không được giải đãi và nhiều lỗi lầm khác. Đức Phật đã trực tiếp nói Nan Đà. Vì Nan Đà rất kính trọng và tin tưởng Đức Phật nên cậu ta tự trách mình vô cùng về một số thói xấu trong quá khứ, cảm thấy xấu hổ và ăn năn.
Cuối cùng, Đức Phật tặng cho Nan Đà một cây trượng đàn (là một cây trượng gỗ đàn hương đỏ) đồng thời bảo cậu ta: “Này con trai, nếu sau này con có thể tinh tấn, thì chỉ cần con dùng tâm gõ nhẹ vào cây trượng đàn, nó sẽ phát ra tiếng nhạc tuyệt vời, và khi tiếng nhạc kết thúc, con sẽ có thể nhìn thấy tất cả các kho báu được chôn dưới lòng đất”. Chính là cây gỗ này. Con chỉ cần gõ vào nó sẽ phát ra âm thanh tuyệt vời, rồi đột nhiên con sẽ nhìn thấy rất nhiều kho báu chôn dưới lòng đất. Nan Đà sau khi nghe lời dạy của Đức Phật rất tò mò, liền thử gõ nhẹ vào cây trượng gỗ đàn hương. Sau một cú búng tay, quả nhiên nghe thấy tiếng nhạc tuyệt vời và nhìn thấy kho báu chôn dưới lòng đất. Cậu ta vui mừng vô cùng liền tự nghĩ: “Bây giờ mình chỉ cần chăm chỉ một chút thôi mà có thể được nhiều lợi ích như vậy! Sau này nếu nổ lực, nhất định mình sẽ được vô thượng đại lợi ích”. Người thời xưa đều nói “Vô thượng”, chính là vô cùng vô tận đại lợi ích, đạt được càng nhiều.
Kể từ lúc này, Nan Đà thay đổi thói quen ngủ nướng và tham ngủ, thậm chí còn kêu gọi mọi người ra biển thu thập bảo vật (ngọc trai, mã não, ngọc bích, v.v.). mỗi lần đi đều bình an thu hoạch lớn trở về, thậm chí còn cúng dường nhiều loại thức ăn và đồ uống cho Đức Phật và các vị Tỳ-kheo khác, trở thành một đứa con rất cần cù. Đức Phật vì thế mà một lần nữa thuyết giảng nhiều đạo lý khác nhau của Phật giáo cho Nan Đà, Nan Đà nghe được pháp hỉ tràn ngập, tâm khai
ý giải (nghe Phật pháp đến mức tâm khai ý giải, là người đó có thể tiếp nhận được pháp từ vị Sư phụ đó dạy cho họ rồi, “tâm khai” là vui mừng “ý giải” có nghĩa là hiểu được ý nghĩa, mà hiểu được ý nghĩa bên trong, thì tất nhiên là tâm sẽ được khai mở), liền cúi sát đất lễ lạy Đức Phật và phát đại thệ nguyện. Cậu ta nói: “Nguyện từ đây cúng dường thiện căn công đức, làm vị lai thế mê ngu si ám chúng sinh chi nhãn mục”. Nghĩa là nguyện từ nay cúng dường, lấy thiện căn công đức này làm tai mắt cho tất cả chúng sinh đang mê lầm, ngu si và có những suy nghĩ tiêu cực trong tương lai. (“mê ngu si ám” tức là không rõ thực lý, trong lòng có ngu si, nghĩ không thông; “ám” là năng lượng tiêu cực mà hiện nay chúng ta đang nói đến, trong lòng đen tối, nghĩa là trong lòng có rất nhiều năng lượng tiêu cực), “chúng sinh chi nhãn mục” – tức là con mắt, dẫn đường cho chúng sinh. “Vô quy y giả, vi tác quy y (nếu những người này chưa quy y, thì hãy làm cho họ quy y); Vô cứu hộ giả, tác vị cứu hộ (không có ai giúp đỡ họ, thì hãy giúp đỡ họ); Vô giải thoát giả, lệnh đắc giải thoát (nếu người này đang đau khổ và phiền não, hãy giúp đỡ họ và để họ được giải thoát); Vô an ẩn giả, lệnh đắc an ẩn (những người không an ổn, không có nhà cửa, trong tâm không có chỗ nương tựa, không có đạo tràng, làm họ có được sự an ổn); Vô Niết-bàn giả, lệnh chứng Niết-bàn (người hoàn toàn suy nghĩ không thông suốt, con muốn họ thông qua việc bố thí và đại thệ nguyện này của con, để cho họ chứng thực Niết-bàn, hoàn toàn nghĩ thông suốt). Các vị hãy nghĩ xem, các vị thường hỏi Sư phụ: “Thưa Sư phụ! Con phát nguyện rất nhiều rồi, còn có thể phát thêm nguyện gì nữa?” Quý vị hãy nhìn người ta mà xem, tuỳ ý cũng có thể phát nhiều nguyện lực như vậy. Quý vị còn hỏi Sư phụ: “Thưa Thầy, con gần như đã phát hết nguyện rồi. Cá con cũng đã phát nguyện thả rồi, Ngôi Nhà Nhỏ con cũng đã phát nguyện rồi, phát nguyện việc này việc kia rồi, không còn điều gì để phát nguyện nữa”. Con hãy nhìn người ta mà xem, chỉ cần con có phát tâm thì con có thể phát ra rất nhiều nguyện lực. Sau khi Nan Đà phát hoằng nguyện xong, Đức Phật mỉm cười nhẹ và từ miệng Ngài tỏa ra ánh tường quang ngũ sắc. Khi Đức Phật mỉm cười, từ trong miệng Ngài tỏa ra tường quang ngũ sắc, đó chính là
những đám mây ngũ sắc tuyệt đẹp lạ thường, đẹp như những đám mây đầy màu sắc trên bầu trời.
Lúc này, Tôn giả A Nan ở bên cạnh (A Nan luôn đi theo Đức Phật) nhìn thấy Đức Phật mỉm cười, liền cung kính hỏi: “Thưa Đức Như Lai tôn quý trang trọng, xưa nay Ngài không bao giờ cười tùy tiện, hiện tại là nhân duyên gì khiến Đức Phật mỉm cười như vậy? A-nan thưa với Đức Phật: Thưa Đức Phật, Ngài thật tôn quý trang trọng (chúng con vừa đến chùa thấy Đức Phật ngồi ở đó, mọi người vội vàng khấu đầu, trang nghiêm vô cùng), xưa nay Ngài không bao giờ cười tùy tiện (tượng Như Lai và Phật hiếm khi cười, rất trang nghiêm), bây giờ là nhân duyên nào khiến cho Đức Phật mỉm cười vậy?
Đức Phật hỏi A Nan: “Con có bao giờ thấy Nan Đà lười biếng đi xuống biển thu thập kho báu, mang đầy đồ trở về, còn cúng dường thức ăn và đồ uống cho Đức Phật và chư Tăng chưa?”
“Đúng vậy, con đã nhìn thấy.” A Nan nói.
Đức Phật tiếp lời: “Nan Đà trong tương lai sẽ thành Phật sau Tam A Tăng kì kiếp, với Phật hiệu là “Tinh Tấn Lực” và sẽ cứu độ vô lượng chúng sinh, vậy nên ta mới mỉm cười!” Điều này có ý nghĩa gì? Đức Phật đã nhìn thấy sau này Nan Đà thành Phật, nên Đức Phật rất hạnh phúc. Bởi vì Đức Phật thấy ai có thể trở thành Phật, thì từ trong tâm Ngài rất vui mừng. “Tam A Tăng kì kiếp” được đề cập trên là thuật ngữ Phật giáo, từ một vị Bồ Tát tu hành đến khi thành Phật, phải trải qua 3 “A Tăng kì kiếp”, thời gian dài như thế, tức là một thời gian rất, rất dài. Đó là lí do tại sao Phật mỉm cười. Sau khi nghe lời dạy của Đức Phật, các Tăng chúng có mặt ở đấy nghe được lời khai thị lần này, ai nấy đều hiểu được tầm quan trọng của tinh tấn. Họ đều vui mừng, tin tưởng và làm theo.
Câu chuyện này cho chúng ta biết rằng chỉ cần có ý chí thì ai cũng có thể thành Phật, và Phật ở trong tâm chúng ta. Nếu hành động theo lòng từ bi và ánh sáng
trong tâm thì Bồ Đề thuộc về tất cả chúng sinh, vì trí tuệ của Đức Phật thuộc về tất cả chúng sinh. Nếu không có chúng sinh, tất cả Bồ Tát sẽ không bao giờ có thể đạt được Vô thượng Chánh giác. Nếu không có chúng sinh thì làm sao có Bồ Tát? Bồ Tát muốn tuyên hóa Phật pháp Phật lý, Bồ Tát cần có khả năng giúp đỡ cứu độ khổ nạn, nếu không có chúng sanh, thì làm sao thành tựu được Phật Bồ Tát?
Vì vậy, “Dĩ thân như đắc giáo, tắc giáo tha bất nan. Dục giáo tha nhân, tiên tu tự giáo” (Nếu có thể dạy được chính mình thì dạy người khác không khó, muốn dạy người khác thì trước hết phải dạy chính mình)”. Kinh Phật thường nói với chúng ta rằng “Dĩ thân như đắc giáo”, nếu đã cứu độ được thân xác và tâm hồn của chính mình thì “tắc giáo tha bất nan”. Tức là quý vị đi cứu người khác sẽ không khó, chính bản thân quý vị còn chưa giác ngộ, thì quý vị dạy người khác sẽ rất khó. “Dục giáo tha nhân”, nếu quý vị muốn giúp đỡ người khác, cứu độ người khác thì phải “tiên tu tự giáo”, nghĩa là quý vị phải tự học trước, bản thân phải được dạy dỗ trước. Tu hành chính là sửa đổi quan niệm sai lầm của mình. Đôi khi quý vị đừng nghĩ rằng học Phật rất khó, vì Phật là ở trong tâm. Khi chúng ta gặp khó khăn, có người lười biếng, có người phiền não chồng chất mà quên mất đi bổn tánh của mình. Chúng ta nói “quên mất gốc rồi” là ý nghĩa này (“gốc” ở đây mà nói đó là bổn tánh). Thực ra, đôi khi quý vị gặp phiền não khi học Phật, nếu quý vị dừng lại một lúc, rẽ một vòng, quý vị có thể dễ dàng vượt qua được những trở ngại, nếu thành công thì quý vị sẽ đi đến đích. Vì vậy, Phật giáo dạy rằng để kỷ luật tốt bản thân, quý vị phải chăm sóc tốt bản thân và bổn tánh của mình. Đừng lúc nào cũng quản người khác, hãy quản bản thân mình trước rồi mới quản người. Đây là chân lý chân thực nhất, chân thành nhất mà Bồ Tát dạy chúng ta: “Nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá” (Nếu thật sự tu Đạo, thì sẽ không nhìn thấy lỗi lầm của thế gian). Nếu như quý vị thật sự muốn mình một kiếp tu thành thì trước tiên phải tự độ bản thân cho tốt, mới có thể độ hết được chúng sanh có duyên trong thiên hạ.
Được rồi, đó là tất cả bài giảng cho ngày hôm nay. Chúng ta sẽ tiếp tục nói về “Bạch Thoại Phật Pháp” trong chương trình tiếp theo. Cảm ơn đại chúng.
87. Hiểu được vô ngã chính là buông bỏ
Tập 87
HIỂU ĐƯỢC VÔ NGÃ CHÍNH LÀ BUÔNG BỎ
(13/06/2020)
Lần trước Đài trưởng nói với mọi người về Vô ngã, hôm nay Đài trưởng sẽ nói về Vô ngã theo cách hơi mở rộng một chút.
Tất cả quan niệm của người học Phật (tức là tưởng niệm và quan niệm), tất cả người và sự việc ở nhân gian mà quý vị chấp vào nó, chỉ cần cảm thấy có cái “tôi” ở trong đó, thì quý vị sẽ không thể thực sự tìm được cảnh giới Vô ngã. Mỗi một việc và mỗi người mà quý vị tiếp xúc, chỉ cần quý vị còn cảm thấy có cái “tôi”, thì quý vị sẽ có tâm ích kỷ trong vấn đề này. Lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị muốn giúp đỡ người khác, nhưng quý vị nói “Tôi đang giúp đỡ người khác”, với khi quý vị chỉ đơn thuần là giúp đỡ người khác, thì đó là hai khái niệm khác nhau. Vô ngã đi giúp đỡ người khác, đó chính là thuần thiện. Nếu như mang cái “tôi” đi giúp người khác, vậy thì quý vị cũng có mục đích tối thiểu khiến họ cảm ơn và biết ơn quý vị, nếu quý vị nói: “Hôm nay tôi đang giúp đỡ bạn”, vậy thì cảnh giới này sẽ bị rơi xuống rồi.
Hai chữ “Vô ngã” nghe có vẻ trống rỗng, bởi vì không có bản ngã nữa liền cảm thấy trống rỗng. Nhưng không có “bản ngã”, thì “bản ngã” này có tồn tại không? Vẫn còn. Vậy làm thế nào để đem cảnh giới Vô ngã của mình để dùng cho việc và người mà có bản Ngã trong đó? Chính là phải biết cách dùng cảnh giới của mình để làm việc. Nói đến đây, nói ở mức độ rất sâu sắc, thực ra khi mỗi người làm một việc gì đó, có người làm với tướng của bản thân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả v.v., và nhiều chấp tướng khác để làm việc. Thực ra nên dùng cảnh giới, khi cảnh giới càng cao, thì quý vị sẽ rời khỏi Ngã tướng và làm việc một cách Vô ngã, như vậy chữ “ngã” này chính là một hình tướng rỗng không. Tuy nói có “bản ngã”, nhưng “bản ngã” không được sử dụng, vậy thì đó chỉ là một cái tên mà thôi.
Cho nên, quan niệm về Không Vô nhưng có bản ngã đã được hình thành như thế. Không có cái tôi thì Không Vô (trống không và không tồn tại). Nhưng lại
có cái tôi và cái “tôi” này chỉ là một quan niệm, chỉ là một cái tên mà thôi, đây chính là tinh túy của đạo Phật. Cũng giống như đi trên đường, người ta không biết quý vị, nhưng họ có thể gọi quý vị là “ông hay bà”, hơn nữa việc gọi ông hay bà này, không phải ám chỉ một người cụ thể nào đó, không phải là một đối tượng cụ thể hay nhắm vào quý vị, mà chỉ là một cái tên chung thôi, ai cũng có thể gọi được. Nếu như người khác gọi quý vị là “ông”, có thể quý vị sẽ không còn có cái tôi nữa, bởi vì quý vị không biết liệu họ có biết mình hay không, chỉ là người ta gọi quý vị bằng một cái tên ngẫu nhiên, quý vị có thể nhìn chung quanh, không phải tôi. Bởi vì họ không gọi đích danh quý vị, cho nên quý vị có thể bỏ qua. Khi ai đó gọi tên người khác, thì tất nhiên quý vị sẽ không để tâm rồi. Có thể quý vị sẽ không chấp vào việc người khác gọi quý vị là “ông” hay “bà”. Nhưng khi họ gọi đích danh quý vị, quý vị sẽ không thể không quan tâm. Vậy cái tên của quý vị được gọi có phải là cái tên giả không? Phải, là cái tên giả. Nếu cảnh giới đã cao, biết đó chỉ là một cái tên giả thì quý vị sẽ không bị phiền não ở nhân gian và cái tên được người khác gọi này quấy nhiễu nữa rồi. Giống như rất nhiều người tố chất tâm lý rất tốt, khi người khác đang mắng chửi, người có tố chất tâm lý tốt sẽ không thêm tên mình vào. Nhưng có một số người liền thêm tên mình vào những câu mắng chửi đó, rồi nhảy thót lên: “Anh ta đang mắng tôi, chắc chắn là đang nói về tôi”. Đây chính là tố chất tâm lý cùng cảnh giới trong tâm.
Vậy nên, kinh Phật dạy chúng ta phải học “buông bỏ khi biết không có ngã”. Để tìm ra nguồn gốc của sinh mệnh, chúng ta phải thấy rõ “bản ngã” này chỉ là một Ngã tướng của sinh mệnh, nó không phải là “bản ngã” trong cảnh giới Phật, mà là một cái “tôi” giả danh, nào có cái “tôi” đích thực? Kinh Phật có mười hai bộ Tam Tạng, rất nhiều kinh văn là dựa vào sự tu tâm của bản thân mà từ từ được khai ngộ, là dựa vào sự tu trì của chính mình. Nếu một người có thể quên mình và chỉ nghĩ đến người khác, thì họ đã Vô ngã rồi, họ nào có chính mình? Nếu như một nhóm người chỉ vì người khác mà không nghĩ đến bản thân, vậy thì
nhóm người này chính là chúng sinh Vô tư (Vô tư là không nghĩ đến lợi ích riêng tư), bởi vì tâm trí đều nghĩ đến người khác, chính là chúng sinh Vô ngã, đây là cách mà cảnh giới được nâng cao.
Đức Phật thuyết pháp 49 năm, Thích Ca Mâu Ni Phật nhận thức được thế gian hết thảy đều là vô thường, đều sẽ biến tới biến lui, thế nhưng đến cuối cùng hết thảy đều không thuộc về “Tôi”. Điều đó có nghĩa là cái “tôi” mà quý vị nghĩ thực ra chỉ là một cái tên giả, trống rỗng và không tồn tại. Nếu quý vị sống cuộc sống của mình theo quan điểm này, thì quý vị sẽ không tức giận nhiều đến như vậy. “Cậu ta đang mắng tôi”, có ngã tướng rồi thấy không? “Tôi chịu thiệt rồi, tôi không có được, trong lòng tôi không vui”, khi bỏ đi cái “tôi” này, chủ ngữ này không còn nữa, thì tất cả đều ở trong Tánh không. Vậy nên cuối cùng chữ “tôi” này đều trống rỗng.
Tương tự như vậy, tất cả đau khổ trên thế gian này thực ra đều trống rỗng. Tất cả pháp hỉ, khoái lạc, hạnh phúc trong cuộc sống cũng là trống rỗng. Bởi vì chủ ngữ “tôi” là trống rỗng, cho nên không có niềm vui thực sự, cũng không có hạnh phúc tối thượng. Hạnh phúc là gì? Phải vĩnh viễn hạnh phúc mới là hạnh phúc, hạnh phúc ngắn ngủi chỉ mang đến cho quý vị sự thống khổ vô hạn, không có một đạo tràng nào có thể lưu trữ hạnh phúc mãi mãi, bởi vì cõi người là nơi không thể lưu trữ cuộc sống hạnh phúc vĩnh viễn đến cuối cùng. Vậy nên hết thảy đều sẽ qua đi, như giới Phật giáo nói hết thảy đều trống không, trên thế gian này hết thảy đều trống không, nên hạnh phúc sẽ không tồn tại mãi mãi, và đau khổ cũng không thể nắm bắt được. Quý vị có thể nắm bắt được đau khổ không? Có quá nhiều kiếp nạn, khiến quý vị đắm chìm trong thống khổ mà không thể xuất ly. Hôm nay quý vị khổ rồi, quý vị có biết vài ngày nữa sẽ có chuyện gì xảy ra không? Hôm nay quý vị đã xảy ra chuyện gì, một tuần trôi qua, một tháng trôi qua, lại xảy ra điều gì? Hết thảy đều ở trong đau khổ và không có gì tồn tại mãi mãi.
Trong sự biến hóa, chúng ta muốn nắm bắt hạnh phúc cũng không nắm bắt được. Trong đau khổ, chúng ta muốn thoát khỏi nó cũng không thoát khỏi được. Muốn thoát khỏi Khổ-Không-Vô thường, Vô ngã, phải hiểu rằng đó chỉ là một cái tên, chỉ là một danh xưng mà thôi. Phật Pháp nói khổ cũng là rỗng Không, vui vẻ cũng là rỗng Không, bởi vì chúng ta đang thực hành Tánh Không. Nếu thật sự muốn rời khỏi, thì phải xuất ly giải thoát, phương pháp tốt nhất chính là phải ghi nhớ: vốn đã đến thế giới này, chỉ là cho quý vị một cái tên, chỉ là một cái “tôi” hư ảo, chỉ là một khái niệm “có tôi”. Trước đây người ta nói mượn xác hoàn hồn, cái “tôi” này liền biến mất, khi vong hồn này nhập lên thân thể của người đó, liền biến thành “họ” rồi. Cho nên có nhiều người thật đáng thương, cả đời nắm lấy chút tiền mình kiếm được, cả đời nắm lấy một chút danh lợi mình có, “Cái này là của tôi, cái kia là của tôi”. Thậm chí cái tên cũng không phải là của quý vị, ngay cả xác thịt của quý vị cũng không phải là của quý vị, đó chỉ là một khái niệm mà thôi.
Khi Đức Phật còn tại thế, rất nhiều đệ tử của Đức Phật y giáo phụng hành (dựa theo giáo lý của Đức Phật mà phụng hành), bọn họ đều chứng được cảnh giới Vô ngã. Nói cách khác, hiện nay người học Phật phải chứng được cảnh giới Vô ngã. Vậy thì làm sao chứng được đây? Không tranh giành với người khác chính là Vô ngã, bởi vì còn có cái “tôi” mới đi tranh giành với người ta – “tôi muốn tranh giành với anh ta, tôi muốn đọ sắc với họ, tôi muốn đọ với họ v.v..”, có cái “tôi” – nó không thể tách rời. Khi có được Vô ngã rồi, quý vị có còn náo loạn với người khác nữa không? Có cãi nhau với người khác nữa không? Vô ngã rồi, không còn trói buộc. Không tranh cãi với người, bởi vì không có cái “tôi” nữa. Người ta đang la mắng, nếu đã Vô ngã rồi, quý vị sẽ không biết họ đang mắng ai. Người ta tính toán chi li với quý vị, nếu đã Vô ngã rồi, quý vị sẽ không tính toán chi li với họ nữa. Có phải đã giảm bớt đau khổ không? Bởi vì chứng đắc Vô ngã, hiểu được cái “tôi” này chỉ là một cái tên ở nhân gian mà thôi. Hôm nay có thể gọi là Nguyễn Thị A, ngày mai có thể gọi là Trần Văn B. Trong việc
tu hành theo đạo Phật, người tu hành chỉ là một danh hiệu. Vì sao pháp sư sau khi xuất gia phải có một cái tên mới? Bởi vì cái “tôi” ban đầu đã thay da đổi thịt, đã không còn nữa, cho nên có một cái tên mới, tu tâm với cái tên mới, đó mới là linh hồn thực sự. Mặc dù là một cái tên giả, nhưng trong tu hành quý vị đã tìm được Phật tánh đích thực, và đó mới là đích đến của cảnh giới linh hồn. Cảnh giới linh hồn của một người có đích đến hay không? Có đấy. Rốt cuộc quý vị muốn trở thành loại người nào? Quý vị muốn học Phật như thế nào? Nếu cảnh giới linh hồn thực sự của một người trong sạch thì cuộc đời của người đó sẽ không sống vô ích. Nhiều người đã sống cả đời, nghiên cứu Phật Pháp, học nhiều pháp môn khác nhau nhưng vẫn chưa đạt được đích đến thực sự của cảnh giới linh hồn. Rốt cuộc quy y gì, đây là điều rất quan trọng.
Khi Đức Phật thọ 80 tuổi, vào đêm trước ngày nhập Niết-bàn do tuổi già sức yếu, Đức Phật dạy các đệ tử hãy học cách sống Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Đức Phật thường dạy các đệ tử về Khổ-Không-Vô thường. Nhưng cuối cùng, Đức Phật bảo các đệ tử hãy học cách sống Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Tại sao Đức Phật lại nói với chúng ta những điều này? Bởi vì “Khổ”, đó là vô thường, cho nên “Không” nghĩa là phải học được hạnh phúc, cả hai là đối trị nhau. “Vô” chính là vì có một chữ “tôi” nên mới đau khổ, nếu học được Vô ngã, Phật sẽ nói với quý vị rằng, quý vị liền được hạnh phúc. “Thường” có nghĩa là lâu dài, và “vô thường” có nghĩa là chúng ta phải học cách có tâm thanh tịnh và làm quen với thế giới vô thường này, để chúng ta có thể tu tập đến mức Vô ngã, thế giới này vô thường, như thế mới có khả năng tu được Vô ngã tướng, Vô nhân tướng, Vô chúng sinh tướng và Vô thọ giả tướng, đây chính là Vô tứ tướng. Điều này khuyên chúng ta nên coi mọi thứ trên đời là trống rỗng, hiểu được thế sự vô thường và cũng phải biết chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc. Phải biết cách loại bỏ Ngã tướng và sự tồn tại của bản ngã giả là dựa trên bản ngã của mượn giả tu thật, để quý vị tu dưỡng tự tánh của mình và trở nên trong sạch, đó là Thường-Lạc-Ngã-Tịnh.
Sư phụ yêu cầu mọi người nhìn mọi thứ đều trống rỗng và học cách buông bỏ, quý vị đang làm một vị Bồ Tát ở nhân gian, trống rỗng đến mức không thể tìm thấy chính mình. Nhiều người khi nói chuyện thuận theo lời người khác, không có ý kiến riêng, nếu không xúc phạm người khác cũng tốt (nhưng không được vô kỷ luật). Khi học Phật, chúng ta phải trống rỗng đến mức không thể tìm thấy chính mình, nghĩa là gì? Nghĩa là Vô ngã tướng. Hãy nhìn vấn đề của con người hiện nay: Thể diện quan trọng quá rồi, thể diện của chúng ta có buông bỏ được không? Thầy bảo nhiều bạn Phật tử hãy buông bỏ nó, họ đều hiểu rằng buông bỏ sẽ giảm bớt đau khổ, nhưng hễ làm điều gì là họ lại có chữ “Tôi” ngay: “Tôi phải làm gì đây, tôi phải làm gì đây?”, và rồi họ đau khổ. Vì thế, một người học Phật chân chính phải không tìm được bản thân, thì mới có thể thật sự tìm được nguồn gốc của sinh mệnh. Cần sĩ diện đó làm gì? “Bệnh sĩ chết trước bệnh tim”, từ nhỏ đến lớn, cả đời cần sĩ diện bao nhiêu năm? Đến giờ mà còn cần sĩ diện, sửa chút khuyết điểm cũng muốn giữ thể diện. Không có chuyện gì mà quý vị không có lý do cả. Đây chính là quý vị đã gieo trồng Ngã tướng vào trường thức thứ tám của mình. Tại sao Đức Phật bảo chúng ta phải đoạn trừ bốn tướng? Phật muốn chúng ta tìm Phật tánh trong trường thức thứ chín, Amala Thức, vì chỉ có Phật tánh là Vô tướng, vì chỉ có Phật tánh ở trong bổn tánh của chúng ta là vĩnh cửu và bất biến.
Chữ “Thường” mà Đức Phật nói là tương đối với Vô thường. “Lạc” không phải là khổ (hạnh phúc không phải là khổ), và người có được nó sẽ không còn đau khổ, bởi vì chỉ có người thoát khỏi đau khổ mới có được hạnh phúc. Những lời này mọi người nhất định phải ghi nhớ, “Lạc không phải khổ”, khoái lạc không phải khổ. Ai đạt được nó thì lìa khổ rồi, lìa khổ có phải là có được hạnh phúc không? Người lìa khổ mới có được hạnh phúc và hạnh phúc sẽ không bao giờ là khổ. Nhiều người nói: “Tôi rất khổ nhưng tôi cũng rất hạnh phúc”, điều này vốn dĩ là mâu thuẫn. Người thực sự hiểu Phật giáo phải biết cách thoát khỏi khổ đau
để được hạnh phúc. Chỉ khi hôm nay quý vị buông bỏ, buông bỏ phiền não, buông bỏ tham, sân, si thì quý vị mới thực sự có được hạnh phúc.
88. Bất sinh bất diệt trong Phật pháp
Tập 88
BẤT SINH BẤT DIỆT TRONG PHẬT PHÁP
(13/06/2020)
Người thực sự hiểu Phật Pháp phải biết cách thoát khỏi khổ đau để được hạnh phúc. Chỉ khi hôm nay quý vị đã buông bỏ, từ bỏ những phiền não trên thân, từ bỏ tham, sân, si thì quý vị mới có thể thực sự hạnh phúc. Nhiều người nói: “Tôi ổn, tôi rất hạnh phúc” – tất cả đều trống rỗng và giả dối. Bởi vì quý vị sẽ không bao giờ có được hạnh phúc thực sự trong tham, sân, si. Ví dụ, một người bị tật ở chân không còn đi lại được nữa và phải chống nạn. Một ngày nào đó, họ thoát khỏi đau khổ và không còn chống nạn nữa, thì tất nhiên họ sẽ hạnh phúc, nhưng sau khi họ hạnh phúc thì họ sẽ không còn cảm giác nữa, họ quên mất cơn đau mà đôi chân đã gây ra cho mình, nên họ sẽ phải chịu một loại đau đớn khác do cơn đau ở những bộ phận khác trên cơ thể gây ra. Ví dụ này nhằm nói với mọi người rằng, chỉ cần còn đau khổ trên thân thì quý vị không thể có được hạnh phúc, bởi vì đau khổ và hạnh phúc không nhất thiết phải tuyệt đối mà là tương đối. Sau khi lìa khỏi khổ nhỏ, lại có khổ lớn, sau khi lìa khỏi khổ lớn, lại có khổ nhỏ.
Làm thế nào để chúng ta có thể hoàn toàn thoát khỏi đau khổ? Nghĩa là, chúng ta phải lìa khổ được vui. Chỉ khi loại bỏ được mọi phiền não, tham, sân, si v.v., những thứ thực sự gây ra đau khổ, thì chúng ta mới có thể có được Pháp lạc đích thực. Nếu quý vị đối với bất kỳ sự đau khổ nào đó mà chấp vào hình tướng, thì quý vị sẽ không biết thế nào gọi là hạnh phúc. Ví dụ, khi khát nước, chỉ cần có nước thì quý vị sẽ cảm thấy rất vui. Bình thường khi không khát, quý vị cũng không cảm thấy vui nếu xung quanh có đủ các loại nước và đồ uống. Đây là điều tuyệt vời của đạo Phật. Ngay cả khi có nước và các loại đồ uống khác nhau, vì quý vị không khát nên quý vị sẽ không cảm thấy vui mừng cho lắm, nếu quý vị khát, cho dù chỉ có được một chút nước cũng sẽ khiến quý vị cảm thấy rất vui. Điều này cho chúng ta biết người học Phật nên hiểu thế giới quan về đau khổ và hạnh phúc như thế nào. Mặc dù hôm nay chúng ta chưa hoàn toàn đau khổ, nhưng chúng ta biết rằng những thói hư tật xấu của chúng ta sẽ khiến
chúng ta rất đau khổ. Giống như Sư phụ đã nói với mọi người, mặc dù xung quanh quý vị có rất nhiều đồ uống và nước, nhưng hiện tại quý vị không khát, quý vị hãy nghĩ tới việc phải làm gì khi khát, vậy nên quý vị phải chuẩn bị sẵn sàng mang theo nước khi khát. Nói cách khác, bây giờ khi tu tâm, chúng ta cần hiểu vô thường, nó sẽ thay đổi, nỗi khổ và niềm vui này là vô thường, sau khi đau khổ qua rồi chúng ta sẽ lại hạnh phúc, và sau khi hạnh phúc chúng ta sẽ lại đau khổ. Làm sao chúng ta có thể nắm bắt được nỗi đau và niềm hạnh phúc này? Cách tốt nhất là: trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là đau khổ, thế nào là hạnh phúc, vì đó là cảm giác. Thứ hai, chúng ta phải biết trân trọng và hạnh phúc khi đau khổ vẫn chưa đến. Cũng giống như thân thể quý vị tuy không có vấn đề gì, rất yên ổn, nhưng quý vị phải biết trân quý nó: “Tôi rất hạnh phúc vì bây giờ tôi không còn bị đau răng hay đau chân nữa. Cơ thể tôi vẫn khỏe và tim tôi vẫn còn tốt”. Đây là phải biết hạnh phúc thì mới có thể lìa khổ, con người sẽ đau khổ nếu họ không biết đủ. Sư phụ đã đảo lộn lý luận Phật học và triết học này để giảng dạy cho mọi người đến tận bây giờ, để mọi người hiểu rằng đau khổ và hạnh phúc chỉ là tương đối. Làm thế nào quý vị có thể duy trì được hạnh phúc của mình? Cách tốt nhất là thoát khỏi đau khổ.
Bồ Tát sẽ không tham chấp, nếu Bồ Tát tham chấp, sẽ trở thành chúng sinh. Hạnh phúc là một khoảnh khắc ngắn ngủi, nếu quý vị rất thanh tịnh, quý vị luôn muốn được hạnh phúc, điều đó có phải là đã lìa khổ rồi không? Người hạnh phúc không phải là đã rời khỏi nỗi khổ rồi sao? Vì vậy, cần thực sự tiêu diệt nổi khổ của mình, mới có thể sản sinh ra hạnh phúc vĩnh cửu. Hạnh phúc vĩnh cửu là sự hài lòng mỗi ngày, quý vị sẽ rời khỏi được khổ nạn. Sư phụ lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị có một chỗ ngồi trong phòng làm việc, đáng lẽ quý vị nên cảm thấy rất hạnh phúc mỗi ngày: “Tôi còn có một chỗ ngồi, trong khi nhiều người vẫn chưa có chỗ”. “Hôm nay tôi còn có thể làm công đức, còn có thể độ chúng sinh và giúp đỡ người khác trong xã hội này, tôi có tay có chân, nên tôi có thể giúp đỡ người khác”, có phải rất hạnh phúc không? Đúng vậy.
Nếu quý vị luôn duy trì loại hạnh phúc này, quý vị có còn đau khổ nữa không? Không còn nữa. Trước đây có những người khuyết tật, mặc dù họ khuyết tật, nhưng họ đã dùng bàn tay và bàn chân khuyết tật của mình để phục vụ chúng sinh mỗi ngày, họ rất hạnh phúc. Họ vì người khác mỗi ngày, dùng tay và chân khuyết tật của mình để giúp người khác làm việc, họ rất hạnh phúc. Thầy hỏi mọi người, trong khi họ đang hưởng hạnh phúc thì có phải họ đã rời khỏi đau khổ rồi không? Điều này nói với chúng ta rằng, nếu quý vị muốn tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu, quý vị phải tránh xa điên đảo mộng tưởng, tránh xa phiền não và tránh xa đau khổ.
Thực sự không phải là tránh xa đau khổ, Phật Pháp giúp chúng ta tránh xa sinh tử, Sư phụ giảng nó từ nông đến sâu cho mọi người hiểu, tức là phải tránh xa sinh tử. Bởi vì quý vị phải hiểu rằng thân thể con người, Huệ mệnh con người và sinh mệnh con người đều là bất sinh bất diệt. Thật sự hiểu được Ngã tướng, thì quý vị sẽ không mang Ngã tướng cùng sống chung trong thế giới này. Thật ra phải hiểu: “Cần gì sĩ diện? Sĩ diện chỉ làm tổn thương tôi và làm tổn thương người khác”, trong trường hợp này, nếu quý vị thực sự sống trong thế gian này, có phải người khác tôn trọng quý vị, bản thân quý vị cũng sống rất vững vàng không? Chỉ những người loại bỏ được Ngã tướng, mới có thể sống trong thế giới thực.
Bởi vì có “cái tôi”, chúng ta mới đau khổ, nào là “phiền não của tôi, danh của tôi, lợi của tôi… tất cả của tôi đều không còn nữa”. Quý vị xem những người đau khổ, có người nào mà không nói: “Bởi vì tôi mất đi cái gì, tôi mất đi cái gì…” Họ cảm thấy mất đi quá nhiều, nên mới sinh ra phiền não và đau khổ. Bởi vì có cái “tôi” này, mà khi ra đi quý vị sẽ không nỡ buông bỏ, nên quý vị mới đau khổ. Nếu quý vị Vô ngã rồi không có cái tôi này nữa, cảm thấy “con người vốn là một loại cảm giác, bây giờ tôi đi đến một nơi khác để cảm nhận xem sao”, biết nghĩ như vậy thì quý vị sẽ không đau khổ. Cho nên dùng phương pháp này để nhìn tất cả mọi thứ trên thế gian, quý vị sẽ buông bỏ tất cả danh lợi,
vinh dự, vật chất, tài sản đã đạt được, quý vị sẽ hiểu được cái gì gọi là xả bỏ, bởi vì chúng không có ý nghĩa gì. Thế nên hãy sống trong sạch, hãy sống xứng đáng với người khác, đừng sống trong cái tôi giả dối. Nhiều người muốn giữ thể diện. Họ cư xử kiểu này trước người khác và cách khác sau lưng người ta. Họ là những người hai mặt và họ sống rất đau khổ.
Cho nên Phật Pháp thực sự là để cho chúng ta hiểu được Vô ngã, chính là trong tâm linh con người phải có được một cảnh giới Phật, mới có thể rời xa thống khổ, rời xa ưu thương. Sư phụ đã từng nói với mọi người, vì sao bầu trời lại trong xanh như vậy? Bởi vì bầu trời không có chấp tướng, bởi vì bầu trời là hư không, là không có vật chất cùng danh tiếng tồn tại. Cho nên mới gọi là không thiện cũng không ác, không khổ cũng không vui, đó mới thật sự là hạnh phúc. Bởi vì không có khổ nạn thì quý vị sẽ hạnh phúc, vì hạnh phúc này rồi cũng sẽ qua đi, cũng không có được hạnh phúc gì, như thế quý vị mới thật sự hạnh phúc. Cho nên hạnh phúc trong sáng, hạnh phúc tột cùng, đó chính là thanh tịnh Vô ngã. Tại sao pháp sư ngồi thiền niệm kinh trên núi? Vì họ chính là thanh tịnh Vô ngã, dùng lời nhân gian mà nói, đã đến cảnh giới “Bình an chính là phúc” rồi. Bởi vì quý vị không cảm nhận được có phúc báo, không cảm nhận được có thống khổ, cũng không cảm nhận được hạnh phúc, mà đây là một loại hạnh phúc thuần khiết, loại này gọi là bình an và khoái lạc, đây mới là cảnh giới của Phật.
Hôm nay nói với mọi người về tu tâm tu tánh, tu thành Phật tánh. Chúng ta tu tâm, thực ra là chúng ta đang tu sửa bổn tánh của mình, phải tu thành Phật tánh, tịch diệt hết thảy tự tánh. Nghĩa là người tu tâm cuối cùng phải tu đến Phật tánh trong tâm sâu thẳm nhất của mình. Quý vị không ngừng tu vào bên trong, tu đến bổn tánh của quý vị rồi, thì sẽ tìm được Phật tánh của quý vị. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị phải đào một thứ gì đó, liên tục đào, tìm được rồi, đó là đào đến nội tâm rất sâu bên trong và tìm được Phật tánh của quý vị. Như vậy lúc này sẽ tịch diệt hết thảy tự tánh. Cái gì gọi là tịch diệt hết thảy tự tánh? Cái tâm mà quý vị
muốn đào bới, tìm kiếm lúc đó đều không còn nữa, bởi vì khi quý vị tìm được rồi, quý vị đã quên mất toàn bộ quá trình này, cho nên tịch diệt hết thảy tự tánh trong nhân gian. Đây là tu tâm chân chính, là một loại cảnh giới cao của Phật.
Cảnh giới cao cuối cùng chính là vô sinh diệt. Thế nào là vô sinh diệt? Chính là không phiền não, không sinh diệt. Quý vị thử nghĩ xem, tâm phiền não của chúng ta là tự sinh ra phải không? Tâm hạnh phúc cũng tự sinh ra phải không? Khi quý vị không sinh tâm phiền não, cũng không sinh tâm hạnh phúc, có phải là không nảy sinh ra không, không Sinh thì nào có Diệt? Bởi vì khi quý vị sinh ra hạnh phúc, sau một thời gian, hạnh phúc này mất đi, quý vị sẽ đau khổ. Nếu quý vị sinh ra tâm phiền não, thì quý vị sẽ phải chịu đựng rất nhiều đau khổ. Quý vị đang chờ đợi những phiền não của mình biến mất, nhưng có thể quý vị sẽ cảm thấy thời gian trôi qua rất lâu. Vậy nên quý vị không nghĩ tới – không nghĩ tới vui sướng, không nghĩ tới đau khổ, như vậy vô sanh vô diệt, sau đó vô phiền não, thì quý vị có thể tìm được chân tịnh sâu thẳm của tâm hồn – nghĩa là thanh tịnh đích thực và an tịnh đích thực, thì quý vị mới có thể tìm được tự tánh thanh tịnh vốn có – đó là bổn tánh thanh tịnh. Cho nên người không tham rất tĩnh lặng, “Không sao cả, quý vị có được, tốt cho quý vị, tôi rất vui”, hết thảy đều là tự tánh thanh tịnh, vậy trong giới Phật giáo thuyết giảng, được gọi là chân như chân tánh.
Như vậy chân như chân tánh tu đến về sau chính là muốn thành Phật. Nhiều người hỏi Sư phụ: “Sư phụ, chúng ta học Phật, muốn thành Phật, có bao nhiêu chủng loại?” Sư phụ hỏi các con có chủng loại không? Đương nhiên là có, hơn nữa còn nói cho các con biết, có ba loại phương pháp thành Phật và chủng loại thành Phật.
Thứ nhất, “khắc kỳ thủ chứng”, tức là pháp thân đạt được đại viên mãn khi thân thành tựu Phật quả. Cũng có nghĩa là, khi tất cả mọi nhân duyên đã chín muồi và quý vị đạt được sự viên mãn của Phật tánh, quý vị dùng trí tuệ và Pháp thân
ở nhân gian, dựa vào sức mạnh của chính mình để đạt được thành tựu Phật quả ở nhân gian. “Khắc kỳ” nghĩa là gì? “Khắc” chính là quy định, “kỳ” chính là thời gian, thực ra “Khắc kỳ thủ chứng” chính là cho quý vị trong khoảng thời gian nhất định để thành Phật. Nhiều người không biết điều này và nghĩ rằng họ có thể liên tục trì hoãn, nghĩ rằng họ có thể thành Phật khi thời cơ đến. Quý vị phải ấn định thời gian, hạn định ngày tháng cho mình để thành Phật. “Khắc kỳ thủ chứng” nghĩa là giới hạn thời gian cho bản thân, học Phật tu tâm, sau đó thành đạo, đạt được Phật quả trong một thời gian giới hạn nhất định. “Thủ chứng” chính là đạt được chứng ngộ, đạt được chứng quả.
Điều thứ nhất “khắc kỳ thủ chứng” là ấn định thời gian để thành Phật. Tại sao nhiều người nói: “Tôi tu tâm và chuẩn bị một kiếp tu thành”? Đây có phải là thời gian hay không? Quý vị nhất định phải tu hành trong kiếp này và một kiếp tu thành, tức là trong những năm quý vị còn sống, không phải là “khắc kỳ” sao? Hãy dành thời gian cho bản thân. Cho nên dù tụng kinh hay học Phật, nếu muốn thành Phật, quý vị hãy dành thời gian cho mình: “Từ nay về sau tôi sẽ không bao giờ lãng phí thời gian nữa. Tôi phải tụng xong số biến kinh văn này trong vòng vài tháng”. Đây đều là “khắc kỳ” và phải có thời gian nhất định. Khi bạch với Bồ Tát, nhiều người sẽ nói: “Con đã phát nguyện với Bồ Tát nhiều như vậy, tại sao không linh ứng?” Quý vị khấn nói rất nhiều, nhưng lại không cho mình mốc thời gian cụ thể nên không được công nhận. “Bồ Tát, con nhất định sẽ thay đổi”. “Bồ Tát, tương lai con nhất định sẽ ăn chay”. Mọi người nghĩ đây là lời nguyện sao? Vậy lời nguyện nào có nhiều khả năng giúp quý vị nhận được sự gia trì từ các vị Hộ Pháp và sự chấp thuận của chư Bồ Tát? Đó là “Khắc kỳ” – Cần có thời gian nhất định, kể cả việc một kiếp tu thành, nó cũng cần có thời gian nhất định. Quý vị đã bận rộn trong một thời gian dài và nói: “Tôi chắc chắn sẽ ăn chay trong tương lai”. Vô dụng, điều này không được tính là nguyện lực, vì không biết tương lai đó là năm tháng nào. Người muốn thành Phật phải có
mốc thời gian nhất định, gọi là “khắc kỳ”, định giờ định điểm làm giống như Phật, sau đó đạt được viên mãn thành Phật.
Thứ hai, “mệnh chung đăng vị”. Khi một người thành Phật, trước khi người ấy rời đi, Phật tổ và nhiều vị Phật, hoặc Đại Bồ Tát hay vị Phật nào mà quý vị có duyên phận với họ. Khi đó chư Phật Bồ Tát sẽ từ thượng thiên hạ thế tiếp dẫn Báo Thân này của quý vị, dùng sức riêng của quý vị và của Bồ Tát tiếp dẫn để thành Phật. Bởi vì cả đời của quý vị đều tu sửa rất tốt nên khi lâm chung quý vị thăng thiên.
Thứ ba, “trung ấm chuyển thành”. Ứng thân “Trung ấm” chính là Thân Trung Ấm. Loại thứ ba thành Phật tương đối khó hơn, nó chủ yếu là dựa vào sức mạnh Pháp giới của cõi người, còn con người dựa vào sức mạnh của Pháp giới. Hôm nay quý vị ở nhân gian là người đại thượng căn khí, là Bồ Tát thừa nguyện tái lại, sau đó quý vị luôn làm việc thiện, luôn tu tâm, luôn giúp đỡ chúng sinh, dần dần quý vị có được Thiên Thức Pháp. Thiên Thức Pháp nghĩa là gì? “Thiên” có nghĩa là chuyển động, chuyển động ý thức của quý vị, thay đổi ý thức của quý vị. Nghĩa là một người muốn thành Phật thì phải chuyển hóa ý thức của mình ở nhân gian, bởi vì ý thức ở nhân gian đều là thức thứ tám có rò rỉ và chưa viên mãn, trường thức thứ tám của con người thì không được viên mãn. Lấy một ví dụ đơn giản “Tôi giúp bạn có mục đích”, quý vị nghĩ nó có thể viên mãn được không? “Giúp bạn” có phải là nên làm các việc thiện không? Đúng vậy. Quý vị nói: “Anh ấy cũng có thể giúp tôi trong tương lai”. Sự “giúp đỡ” này không phải là thuần thiện, đúng không? Vậy nên Sư phụ bảo quý vị phải thay đổi ý thức và nói: “Hôm nay tôi đang giúp bạn và tôi không có mong cầu bất cứ điều gì cả”. Chỉ khi đó tự tánh của quý vị mới có thể được giải thoát và thành Phật. Thực ra, sự chuyển hóa Trung ấm thứ ba là về sự giác ngộ của quý vị, bởi vì quý vị không cần phải trải qua Thân Trung Ấm để đạt được nó. Nói cách khác, khi muốn ra đi, linh hồn của quý vị có thể trực tiếp thăng thiên mà không cần phải xuống âm gian địa phủ dạo một vòng. Lúc này, hóa thân hồng quang của quý vị
giống như một thân thể cầu vồng, có thể tự chủ sinh tử, nhờ đó quý vị sẽ bước vào cõi tịnh độ an lạc và Niết-bàn trong thường tịch thiên. Nói cách khác, quý vị dựa vào sự giác ngộ, trong sạch của chính mình để trở thành một vị Phật.
89. Quán thân bất tịnh lìa dục sinh liên
Tập 89
QUÁN THÂN BẤT TỊNH, LÌA DỤC SINH LIÊN
(13/06/2020)
Luân Hồi và Niết Bàn thực chất đều giống nhau, nhưng một bên là giác ngộ, một bên là chưa giác ngộ, và chưa giác ngộ thì luân hồi, đã giác ngộ thì Niết-bàn. Như vậy, đối với những người đã chứng ngộ được Phật đạo mà nói, nếu một người đã chứng ngộ rồi, vì nguyện lực của mình mà dù cho có thể sẽ phải đối mặt với vòng luân hồi, thì họ vẫn cho rằng đó mới là Bồ Đề, “Vì tôi biết mình không thể luân hồi nên tôi mới học Bồ Đề”. Họ sẽ không bị nghiệp lực của tất cả chúng sinh lôi kéo, và sẽ không thăng trầm trong biển nghiệp. Khi con người vướng vào nghiệp chướng, đôi khi có những điều tồi tệ xảy ra, giống như bị nghiệp lực lôi kéo vậy, muốn thoát cũng không thể thoát ra được, và phải trải qua sinh tử. Vì vậy, muốn tu sửa tham ái, vô minh, tà kiến của tánh người, thì con người phải tụng kinh để chuyển đổi tư duy và ý nghĩ của mình, để công đức của bản thân được viên mãn.
Hôm nay Đài trưởng xin xen vào một câu, tại sao gọi là công đức viên mãn? Nhiều người đã làm được rất nhiều công đức nhưng chưa viên mãn. Khái niệm về chưa viên mãn và viên mãn là gì? Lấy một ví dụ đơn giản, nếu quý vị trì tụng một biến Chú Đại Bi được một nửa hoặc hai phần ba mà dừng lại, điều này được gọi là chưa viên mãn. Nếu quý vị trì tụng xong một biến Chú Đại Bi, điều này được gọi là viên mãn. Công đức cũng vậy, nếu quý vị làm công đức này một cách viên mãn thì năng lượng này có lớn không? Nếu quý vị chỉ làm được hơn một nửa công đức so với đã làm xong tất cả, hơn nữa làm có đầu có đuôi, thì loại nào có được công đức hơn? Hãy nỗ lực tu sửa đi lòng tham, và sự không chánh kiến của bản thân (đó chính là luôn nhìn người khác theo chiều hướng xấu), hãy tụng kinh và nỗ lực thay đổi quan niệm của chính mình, bằng không thì “Chết không phải là hết”, mọi người hãy ghi nhớ câu này, vậy “Chết không phải là hết” nghĩa là gì? Quý vị nghĩ rằng sau khi chết thì mọi chuyện sẽ ổn sao? Sau khi chết, có người còn phải xuống địa ngục, có người còn phải chịu trừng phạt.
Triệt ngộ có nghĩa là giải thoát khỏi sáu cõi luân hồi. Cầu xin Quán Thế Âm Bồ Tát, mới có thể thoát khỏi sinh tử. Pháp Môn Tâm Linh chính là lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát. Dùng ngôn ngữ của thời đại này thì, cõi người chính là trạm trung chuyển để về với Phật, quý vị bây giờ đều đang ở trạm trung chuyển này. Nói theo ngôn ngữ hiện đại nghĩa là cõi người là một trạm trung chuyển trên đường đến với cõi Phật, và bây giờ tất cả mọi người đều đang ở trạm trung chuyển. Nếu làm bài thi tốt và sửa đổi tốt ở trạm trung chuyển này thì quý vị sẽ được chuyển đến thượng thiên và tiến vào cõi Phật, bằng không có thể quý vị sẽ bị chuyển đến sáu cõi luân hồi, có thể là cõi súc sinh, cõi người, cõi ngạ quỷ hay cõi địa ngục, điều đó tùy thuộc vào con người hiện tại của quý vị có làm tốt hay không.
Chúng ta học Phật phải tu đến mức độ viên mãn. Nghĩa là gì? Khi tu tâm hay làm một việc gì đó đều phải viên mãn. Khi xem ti vi, quý vị luôn mong rằng bộ phim truyền hình sẽ có được một cái kết có hậu phải không? Nếu kết thúc không có hậu, quý vị có cảm thấy uất ức trong lòng không? Khi còn nhỏ, chúng ta xem phim, nhân vật trong phim trải qua biết bao khó khăn, nguy hiểm, cuối cùng gia đình cũng tìm thấy anh ta, nhưng sau đó anh ta lại bị mất tích, bộ phim cuối cùng chiếu xuống một đồng cỏ mênh mông, không thấy bóng dáng, chỉ thấy người mẹ nhìn về phía xa, như thể nhìn thấy đứa trẻ đang bước đến, lúc này trên màn ảnh xuất hiện đứa con của bà. Gọi “Mẹ ——“ chạy tới như thế, nhưng lúc đó chỉ là ảo giác của người mẹ. Quý vị có hài lòng với kết cục của thể loại phim như thế này không? Chắc chắn quý vị sẽ rời rạp trong tiếc nuối. Do đó, tu đến mức độ viên mãn có nghĩa là cần phải tu cảnh giới viên mãn của Bồ Tát, tu các cấp độ viên mãn và tu lên từng cấp độ một. Đó là khi làm một việc gì đó phải làm nó một cách viên mãn, làm một việc tốt thì tốt đến cùng, giúp người khác thì giúp đến cùng, không nên giúp nửa chừng rồi quên. Nhìn chung sẽ bị rò rỉ, đây chính là chưa viên mãn. Nếu quý vị có thể tu đến một cấp độ viên mãn, chắc chắn quý vị sẽ có Ba-la-mật và trí tuệ Bát nhã của quý vị sẽ được sinh ra.
Sự biến đổi của vạn vật trên thế gian không thể tách rời khỏi Thành – Trụ – Hoại
– Không, nó vốn là hiện tượng sinh tử. Khi một người sinh ra và sống trên thế gian này, cuối cùng thì họ cũng bắt đầu bị hủy hoại và chết đi, họ cũng trở thành trống Không. Không ai không trải qua bốn giai đoạn này. Ngay cả ngôi nhà đã được xây dựng và hoàn thiện, sau đó mọi người vào ở và sử dụng nó, rồi dần dần ngôi nhà cũ đi và hư hỏng, tu bổ lại ở được thêm ba năm, cho đến về sau ngôi nhà không thể ở được nữa và bị phá bỏ, vậy thì nó cũng trở nên trống không rồi. Con người cũng vậy. Đó là một hiện tượng sinh diệt, không phải vì quý vị lạc quan và cho rằng “Ôi chao, con người sẽ không chết”, hoặc người khác đều nói quý vị sống lâu trăm tuổi, quý vị sẽ sống được 150 hay 200 năm
— không có nghĩa là nó sẽ thay đổi vì quý vị lạc quan, cũng không có nghĩa là cuộc sống của quý vị sẽ thay đổi nếu quý vị không phải là người học Phật. Nhiều người nói rằng: “Khi tôi chưa học Phật thì sao tôi không có nhiều chuyện xảy ra, khi học Phật rồi thì lại có nhiều chuyện xảy ra như vậy”. Hãy đi hỏi xem, người không học Phật có phải có nhiều chuyện xảy ra hơn so với người có học Phật không? Quý vị cần phải hiểu và sửa đổi, đó mới là ý nghĩa thực sự của việc học Phật. Đến cuối cuộc đời, ai cũng sẽ chẳng được gì, vĩnh hằng sẽ không hạ cánh ở nhân gian, chỉ có tu sửa chân như bổn tánh của quý vị đến cùng, thì quý vị mới có thể đạt được pháp tánh tràn đầy, trí tuệ tràn đầy và công đức viên mãn của quý vị.
Cuối cùng, Đài trưởng kể cho mọi người nghe một câu chuyện khá thú vị. Nói chung, khi Sư Phụ kể cho mọi người nghe những câu chuyện của Đức Phật năm đó, trong đó luôn có quan niệm Phật giáo và triết học. Câu chuyện Phật giáo mà Sư phụ kể hôm nay thực chất là “Quán Bất Tịnh”. Trong thiền quán Phật giáo (Thiền quán là dùng trí tuệ Thiền để quán tưởng và quan sát), có một phương pháp tu trì quan trọng gọi là “Ngũ Đình Tâm Quan”. Trên thực tế, phương pháp Ngũ Đình Tâm Quan này là để kiểm soát ý niệm của quý vị và không được suy nghĩ bừa bãi. Có một loại quán gọi là Bất Tịnh Quán, nghĩa là nhìn bất cứ ai
cũng không được có loại dục vọng nam nữ này, vì con người thì không được sạch sẽ, khi nhìn vào họ sẽ cảm thấy khó chịu. Còn có một loại là Từ Bi Quán, nhìn người khác rất đáng thương. Và còn Nhân Duyên Quán, Niệm Phật Quán và Sổ Tức Quán, Sổ Tức Quán tức là đếm hơi thở, quán từng hơi thở ra và hít vào của mình. Sau này Sư phụ sẽ giảng từng loại một cho mọi người nghe.
Câu chuyện Sư phụ kể cho mọi người hôm nay là về Bất Tịnh Quán. Thực ra, Bất Tịnh Quán và Sổ Tức Quán (Sổ Tức Quán tức là đếm hơi thở là: thở ra hít vào, tự cảm giác được hơi thở, một, hai, ba, bốn… Lúc này tâm trí quý vị sẽ trong sáng và quý vị sẽ không nghĩ đến những chuyện nam nữ hay những dục vọng đó. Bất Tịnh Quán nghĩa là những gì quý vị nhìn thấy trên thân người đều rất bẩn thỉu) được gọi là hai Cam lộ môn trong giới Phật giáo – hai cánh cửa Cam lồ (Cam lộ là nước cam lồ của Quán Thế Âm Bồ Tát), “Môn” là cánh cửa làm cho tâm trí quý vị trong sạch — Pháp môn. Quán thân bất tịnh là một trong bốn loại niệm trụ.
Bất Tịnh Quán là loại bỏ dục vọng và tham ái của bản thân bằng cách quán tường tất cả các loại tạp chất trong cơ thể của chính mình và cơ thể của người khác. Đây là một phương pháp then chốt để chống lại lòng tham. Đối với nhiều Pháp sư, để đoạn trừ dục vọng trong tâm, họ cần phải Quán hơi thở và Quán bất tịnh. Nghĩ mà xem, đàn ông hay đàn bà, chỉ cần là con người, thì có rất nhiều thứ bẩn thỉu! Có rất nhiều chất dơ chảy ra từ mỗi cái lỗ. Kỳ thực, đây là bất tịnh, và con người cũng không sạch sẽ. Một phương pháp hành trì rất quan trọng trong Thiền tông là Quán bất tịnh. Đây là một câu chuyện rất thú vị về Đức Phật cách đây 2.500 năm. Sư Phụ sẽ kể cho mọi người nghe.
Tôn giả A Nan là một trong mười đại đệ tử của Đức Phật, có dáng dấp vô cùng đoan chính (nói theo cách hiện tại là rất đẹp trai), có tướng mạo trang nghiêm. Mặc dù đã cạo đầu đi tu, nhưng Ngài có 30 tướng (Đức Phật có 32 tướng, tương truyền A Nan có 30 tướng, tức là có 30 tướng Phật). Có một lần tổ chức pháp
hội, Đức Phật đưa nhiều đệ tử của mình đến thụ cung (tức là tiếp nhận cúng dường). Lúc này A Nan không theo kịp mà bước đi chậm chạp, Đức Phật và các vị đệ tử khác đã đi xa. A Nan đơn độc một mình cầm bát khất thực (là cầm một cái bát), và đi bộ về phía Tây, đi một lúc lâu, đến một bộ lạc, bát của Ngài vẫn trống không, chưa nhận được bất kỳ sự cúng dường nào. Lúc này A Nan vừa nóng, vừa đói và khát, thực sự trời rất nóng và miệng khô.
Vừa đúng lúc Ngài đi tới một cái giếng cổ phía trước, có một người phụ nữ đang múc nước ở đó. A Nan liền đi tới bên giếng. Người phụ nữ này ngẩng đầu lên, nhìn thấy người xuất gia này, ánh mắt sáng lên, trong lòng phát ra tán thán: “Chao ôi, một vị Tỳ kheo thật là trang nghiêm!” Cô không nói ra chỉ tán thán trong lòng. Người phụ nữ này có tên là Ma Đăng Già Nữ, ngay khi cô nhìn thấy A Nan, một tình yêu mãnh liệt nảy sinh trong trái tim cô và cảm thấy yêu mến vô cùng nên cô bèn vui vẻ đổ gàu nước vào bát của A Nan và mở to mắt nhìn chằm chằm vào A Nan, cho đến khi A Nan rời đi.
Ngay khi Ma Đăng Già Nữ trở về đến nhà, cô rất vui mừng và yêu cầu mẹ mình tìm cách để có được A Nan. Người mẹ biết rằng Tỳ kheo là đấng thiêng liêng bất khả xâm phạm và không thể yêu thương Pháp sư, nên tình yêu say đắm này của con gái hoàn toàn không thể thực hiện được. Nhưng con gái sống chết cầu xin, một lòng chỉ yêu vị Tỳ kheo này, người mẹ thương yêu con gái nên nóng lòng đành phải nghĩ biện pháp đi thành toàn cho cô. Bà ta mời một người có thể đọc thần chú và bùa chú (theo cách nói hiện nay của chúng ta, có thể là một thầy phù thủy), ông thầy phù thủy đã đã dùng tà thuật để quyến rũ A Nan. Bởi vì trước đây có một loại ma thuật tà ác, sau khi niệm những câu thần chú này, có thể dùng ý niệm của mình để dẫn dắt người bị phù chú ám thân theo ý niệm của mình và mơ mơ màng màng tiến về phía trước. Trên thực tế, theo thuật ngữ ngày nay, nó giống như một chiếc máy điều khiển từ xa (như máy bay điều khiển từ xa hiện nay, chính là loại điều khiển từ xa này).
Lúc này A Nan mơ mơ màng màng, từng bước một rời khỏi Đức Phật. Trời vừa rạng sáng, khi Đức Phật đang chuẩn bị thuyết pháp thì chợt phát hiện ra A Nan đã mất tích. Đức Phật biết A Nan đã gặp nạn, vội vàng phái Văn Thù Bồ Tát đến gần nhà Ma Đăng Già Nữ tìm A Nan về, Đức Phật biết A Nan ở gần đấy, hơn nữa yêu cầu tất cả các Tỳ kheo hãy toàn tâm nhất ý trì tụng《Chú Lăng
Nghiêm》. Lúc này A Nan đang ở trong phòng của Ma Đăng Già Nữ, đúng lúc
sắp phá giới thì A Nan chợt tỉnh dậy, lập tức rời khỏi Ma Đăng Già Nữ, chạy về nơi tu hành của Đức Phật. Lúc này Ma Đăng Già Nữ thấy A Nan đột nhiên đứng dậy rời khỏi nàng, trong lòng vô cùng đau khổ, bởi vì cô rất yêu A Nan, cô liền điên cuồng đuổi theo suốt con đường, cho đến khi chạy đến nơi của Đức Phật, “huỵch”, lập tức cô quỳ xuống trước mặt Đức Phật và nói: “Thỉnh cầu Đức Phật thành toàn cho con”.
Đức Phật nói: “Này cô Ma Đăng Già Nữ, cô thật sự rất yêu A Nan sao?”
Ma Đăng Già Nữ nói, “Thưa Sư phụ, con thực sự rất yêu A Nan, con yêu A Nan rất nhiều”.
Lúc này A Nan đang tắm trong phòng, vừa tắm xong, Đức Phật liền bảo người bưng chậu nước tắm của A Nan ra, tiếp tục hỏi Ma Đăng Già Nữ: “Cô thật sự yêu A Nan sao? Không bao giờ hối hận sao? Cô yêu A Nan chỗ nào?”
Cô gái nói: “Con yêu toàn thân A Nan, con yêu tất cả”.
Đức Phật nói: “Cô đã yêu A Nan như vậy, chậu nước này là nước A Nan vừa mới tắm xong, cô hãy uống nó đi”.
Ma Đăng Già Nữ giật mình: “Đức Phật ơi, Ngài là bậc đại từ bi, nước bẩn như vậy sao lại bảo con uống”, Đức Phật nói: “Thân thể của mỗi người vốn dĩ đều bẩn như vậy, lúc A Nan khỏe mạnh thì cô đã chê Ngài ấy bẩn rồi, vậy tương lai khi Ngài ấy già chết bại hoại thì cô sẽ nghĩ như thế nào?” Và cô lại phải làm sao?
Ma Đăng Già Nữ nghe Đức Phật nói xong, bỗng nhiên cô có thể quan sát được sự bất tịnh trên thân thể con người, cô có thể nghĩ đến và nhìn thấy sự ô uế trên thân thể con người, cô không thể nào yêu nổi nữa. Cô nghĩ: “Thì ra thân thể của A Nan lại bẩn thỉu như thế, vậy thì còn gì để yêu nữa?”, từ đó toàn bộ ái niệm tham niệm của cô đều bị tiêu trừ, đột nhiên khai ngộ và chứng ngộ sơ quả.
Đây chính là Bất Tịnh Quán, vậy nên Bất Tịnh Quán có thể trị lòng tham của quý vị. Chỉ bằng cách thực hành Bất Tịnh Quán, nếu có thể thiện dụng Bất Tịnh Quán thì những nhiễm ô và ái dục của quý vị đối với Hồng Trần nhân gian sẽ bị tiêu diệt.
Người học Phật, mỗi lời Phật dạy đều phải ghi nhớ trong lòng, để những giáo lý Phật pháp chân thật bất biến có thể tồn tại lâu dài trên thế gian và ở trong tâm hồn mỗi chúng ta, để chúng ta có được đạo tràng của Phật trong tâm, để có thể chống đỡ những phiền não trên thế gian. Vậy nên hy vọng mọi người hãy tu tâm và học Phật cho tốt, quán sát bản thân và hiểu rằng con người sẽ thay đổi, nhưng thay đổi là đau khổ, giống như hoa sen phải thay đổi. Chúng ta nhất định phải học được tánh Không – Vô tướng – Vô nguyện, mới có thể siêu thoát được lục đạo và đạt đến Phật đạo.
Được rồi, đó là tất cả cho buổi thuyết giảng ngày hôm nay. Hẹn gặp lại đại chúng trong chương trình lần sau. Cảm ơn đại chúng!