Bạch Thoại Phật Pháp – Quyển 4

(白话佛法四)

Lời Mở Đầu

BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP

Bài giảng Video
Quyển 4
Tác giả: Đài Trưởng Lư Quân Hoành

LỜI MỞ ĐẦU

Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm. Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày. Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí. Khởi dậy Phật tánh của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta. Mời quý vị đón đọc bài giảng Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư.

Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:

“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”.

Tập 90
CÓ ĐƯỢC PHẬT TÁNH, TỰ NHIÊN GIẢI THOÁT

(20/06/2020)

Được rồi, hôm nay Đài trưởng sẽ tiếp tục giảng với mọi người về 《Bạch thoại Phật pháp》

Như tất cả chúng ta đều biết, pháp thân của Đức Phật ở nhân gian không chỗ nào là không có, khắp nơi đều có pháp thân của Đức Phật. Bất kỳ ai, chỉ cần trong tâm có được Phật pháp, có thể nói ra Phật pháp, và trong hành động có được Phật pháp, thì người ấy sẽ vượt qua được rào cản của thời gian và sẽ có Phật trong tâm. Chúng ta thường nói Phật giáo có ở khắp mọi nơi trong cuộc sống, trong cả đi, ở, ngồi, nằm. Phật giáo ở khắp mọi nơi đều đang giúp đỡ quý vị và ảnh hưởng đến quý vị. Pháp âm lưu truyền, thường xuyên nói Phật ngôn Phật ngữ sẽ giữ âm thanh của Pháp trong tâm quý vị, bởi vì âm thanh của Pháp sẽ không mất đi theo thời gian. Chúng ta học Phật pháp khi còn trẻ, đến khi tuổi tác cao trong tâm chúng ta vẫn có Phật pháp, và từ trong Phật pháp chuyển hóa ra Chân như cùng Đạo âm – nghĩa là âm thanh của Phật đạo. Có người trong lòng có Phật, lời họ nói ra tựa như pháp âm, chảy mãi trong lòng họ. Chỉ với nguyện lực vô thượng, con người mới có thể có được nguyện lực Phật pháp ở trong tâm, mới khiến quý vị từ bi với chúng sinh và giúp đỡ người khác. Tại sao một số người có thể giúp đỡ người khác và có lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh trong suốt cuộc đời của họ? Bởi vì pháp âm và Phật pháp ở trong lòng họ giống như trước đây vĩnh viễn không ngừng. Vậy nên gọi là Như Lai Phật – Không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu. Như Lai Phật, không đến cũng không đi, nghĩa là Phật tánh vốn có sẵn trong tâm quý vị, chính là vốn dĩ quý vị đã sở hữu Phật tánh này rồi.

Người học Phật chúng ta phải biết cách đặt pháp tương ứng vào trong tâm, biến Phật tánh trong tâm mình thành chân đế của cuộc sống trên thế gian, để hiểu nó, để hiểu chân đế tồn tại thật sự của Phật pháp, để áp dụng nó. Ở nhân gian vận dụng chân đế của Phật pháp có thể hiểu hết thảy hình tướng đều không thể có được và tu chân thật trong ảo tưởng. Tại sao lại nói” trong ảo tưởng”? Bởi vì rất nhiều người cả đời giống như đang nằm mơ, hôm nay ở đây, ngày mai ở đó, trong mộng có thể là lúc đang còn trẻ, bây giờ soi gương đã già rồi, cả cuộc đời giống như đang nằm mơ, giống như ảo cảnh vậy. Giống như chúng ta nhớ lại những điều khi còn trẻ, thời thơ ấu, bây giờ nó giống như một giấc mơ. Khi một ngày nào đó quý vị phải ra đi, giấc mơ và ảo tưởng này của quý vị cũng sẽ kết thúc. Sống trong ảo giác này của chính mình, chúng ta không thể hoàn toàn thoát ly được, thế nên chỉ có thể tu chân trong ảo và thành đạo trong ảo.

Sư phụ mong rằng mọi người vĩnh viễn phải đặt Phật tánh vào trong tâm, phải hiểu rằng tu tâm của con người phải có một loại trợ lực, đó là động lực giúp quý vị thành công, đó là một sức mạnh chân thật. Động lực là gì? Bởi vì chúng ta hiểu được tinh tấn, bởi vì chúng ta hiểu được tâm nhẫn nhục, hiểu được chân đế của Phật, chính là để chúng ta hiểu được tất cả Khổ-Không-Vô thường của thế gian này, vì vậy chúng ta đối với quá khứ của thế gian này sẽ không sinh ra một loại cảm ứng đau khổ khác. Quá khứ của mỗi người đều rất đau khổ, nên phải có khả năng tiếp nhận nó, hiểu được nó, tiêu trừ nó và giải thoát nó. Phải dùng phán đoán chân thật để cảm nhận được tất cả những cảm xúc của mình trong thế giới con người. Trên thực tế, nên dùng phương pháp gì để cảm thụ và cảm ứng nó, để chúng ta có thể lìa khổ được vui đây? Chính là 2 chữ “trí tuệ”. Một người có trí tuệ, họ có thể dùng tâm bình thường nhìn thế gian, họ hiểu hết thảy đều là vô thường, thế gian này tất cả có được rồi cũng sẽ mất đi. Vì vậy, tâm bình thường nhìn thấu thế gian, tâm thái có thể an dừng – nghĩa là tâm của quý vị có thể được an định, mới có thể để ngăn chặn các loại suy nghĩ vô vị của mình (những suy nghĩ này làm cho bản thân đắm chìm trong ảo tưởng ảo giác của quá khứ và bị nó mê hoặc, khiến cho nội tâm sinh ra càng nhiều thống khổ). Vậy nên, Sư phụ muốn mọi người hiểu rằng, tu tâm tu pháp chính là thấu hiểu đời người, ly huyễn đắc chân. Tâm của chúng ta phải biết và hiểu được tâm của người khác, hiểu được tâm của chính mình, cảm ứng được tâm của người khác, biết cách khai ngộ tâm mình, không được để một số cảnh tượng của nhân gian làm mê hoặc. Con người chúng ta ngày nay, thậm chí mạng cũng không cần, bạt mạng theo đuổi danh lợi, sống một cuộc sống ngược đời, coi cuộc sống giả tạo là thật, khiến chúng ta lạc lối, khiến chúng ta lưu lạc trong thế giới đau khổ.

Phật pháp tại thế gian

Bất ly thế gian giác

Ly thế mịch Bồ đề

Kháp như cầu thố giác

Nghĩa :

Phật pháp nơi thế gian

Không lìa thế gian giác

Lìa thế tìm Bồ đề

Giống như tìm sừng thỏ.

Đây là điều quan trọng nhất của Phật giáo. Nó giúp chúng ta lìa khổ được vui và là một diệu pháp giúp chúng ta thoát khỏi phiền não trong cuộc sống hàng ngày. Phải luôn nhắc nhở bản thân quán chiếu pháp ngữ, phải có được giác ngộ tánh giác, phải hiểu rằng chúng ta có ngộ tánh. Pháp thế gian và pháp xuất thế gian là một chứ không phải hai, điều đó cho chúng ta biết rằng ở thế gian này, cho dù là quý vị muốn tu một phương pháp sau khi rời khỏi thế gian này, thì thực ra chúng là một chứ không phải hai, tức là nhất Pháp Như, nghĩa là chỉ có một phương pháp như thế. “Nhất Pháp Như” – nghĩa là tất cả Pháp Như đều giống nhau. Rời xa thế gian này hay ở thế gian này cũng giống nhau. Nghĩa là, nếu quý vị muốn rời xa thế gian này để tu hành hay khi quý vị đang ở trong thế gian này tu hành, thực ra cả hai đều là phương pháp tu hành giống nhau. Vì vậy quý vị nhận ra được rằng phiền não và Bồ Đề đều giống nhau (phiền não chính là Bồ Đề). Có đôi khi phiền não của con người sẽ mang đến cho quý vị Bồ Đề, không nên nói “Tôi muốn tìm Bồ Đề, nên tôi phải rời khỏi phiền não”, chính vì có phiền não mới giúp quý vị tìm được Bồ Đề. Cho nên nó là nhất Pháp Như, giống như sinh tử cùng Niết Bàn cả hai đều giống nhau. Bởi vậy chúng ta làm người, sinh tử và Niết Bàn kỳ thật đều là một. Sinh rồi sẽ chết, sau khi chết rồi lại tái sinh, thật ra là linh hồn của quý vị tái đầu thai, tạo nên sự tái sinh của quý vị, cho nên sinh tử và Niết Bàn không phải là hai. Cũng có nghĩa là khi quý vị đã khai ngộ, quý vị sẽ lại phạm sai lầm. Sau khi quý vị dần dần phạm sai lầm rồi sẽ lại khai ngộ. Cuộc sống của quý vị là một dòng chảy liên tục trong những sai lầm và khai ngộ.

Chúng ta là người học Phật phải học cách kết hợp tu hành và đời sống thực tế lại với nhau. Cuộc sống của chúng ta ngày nay không chỉ là sống, mà sống là để tu tâm. Vậy nên phải hiểu rằng tu hành trong cuộc sống và cuộc sống là tu hành của quý vị. Sư phụ lấy một ví dụ đơn giản, mỗi ngày vượt qua sự lười biếng của mình, dậy sớm để đọc kinh, dậy sớm để thắp hương, đây đều là sự tinh tấn của quý vị, là cuộc sống của quý vị. Khi quý vị đang cố gắng nỗ lực, Phật pháp ở trong tâm trí quý vị. Khi lòng từ bi của quý vị được lan rộng, thì pháp pháp của quý vị là tâm. “Pháp pháp là tâm, trần trần là đạo”, Hồng Trần cuộn cuộn, quý vị có thể trong Hồng Trần cuồn cuộn này tìm ra con đường lìa thế gian giác.

Mỗi pháp môn đều do tâm của quý vị tạo ra, vạn pháp duy tâm tạo. Tu hành tùy duyên là một loại trí tuệ. Ngẫu nhiên tham thiền chứng ngộ là một loại tùy duyên. Rất nhiều người nói: “Tôi muốn một kiếp tu thành, tốt nhất là phải có một môi trường đặc biệt và không tiếp xúc với trần thế bên ngoài”, hãy nghĩ xem bây giờ đâu có ai không tiếp xúc với trần thế bên ngoài? Chỉ có dựa vào lòng kiên định của bản thân, tâm như kim cang, pháp pháp là tâm. Hãy tu thiền giữa những phiền não của thế gian, trong thế giới phàm trần cuồn cuộn, quý vị không thể rời bỏ cuộc sống hiện thực để tìm đạo kiếm pháp. Muốn tìm một pháp môn để có thể có được giải thoát, thì pháp môn chính là giúp quý vị giải quyết những vấn đề trong phiền não của mình, nếu không có phiền não, thì quý vị sẽ không tìm được biện pháp giải quyết. Vì thế, trái lại quý vị sẽ cách đạo ngày càng xa hơn – cách Phật đạo càng xa hơn. Đây chính là “Phật pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác”. Nếu quý vị không ở thế gian này, chắc chắn quý vị sẽ không tìm thấy được sự giác ngộ ở trong thế gian. Vì vậy “Ly thế mịch Bồ Đề. Kháp như cầu thố giác”. Con thỏ có sừng không? Phật pháp là ở trong những phiền não của quý vị, Phật pháp không thể tách rời sự giác ngộ của quý vị trong những phiền não của thế gian.

Khi quý vị giác ngộ được thế gian, biết rằng mọi thứ trên thế gian này đều như ảo như hóa, nay có mai không. Sự tồn tại hôm nay không có nghĩa là tồn tại vĩnh viễn. Vậy nên, quý vị phải ở trong thế giới này mới cảm nhận được sự vô thường của nó. Nếu quý vị cả đời nhốt mình trong nhà, liệu quý vị có biết rằng thế giới này là vô thường không? Chỉ khi quý vị ở trong thế gian này, và quý vị biết rằng những gì có được hôm nay sẽ bị người khác phá hủy vào ngày mai. Hôm nay việc này là của quý vị, nhưng cuối cùng sẽ không còn là của quý vị nữa. Tiền tài mà hôm nay quý vị kiếm được đã bị người khác lấy cắp hoặc bị cướp trong vài ngày sau và nó sẽ không còn nữa – Mọi thứ đều vô thường. Hãy từ thế gian học cách làm thế nào để cảm nhận được phiền não của quý vị ở thế gian, đây chính là một loại giác ngộ siêu thoát thế gian. Khi quý vị giác ngộ được thế gian như ảo như hóa, quý vị sẽ dần dần nhận ra rằng thế gian và sự giác ngộ là không thể tách rời nhau. Không có thế gian thì làm sao quý vị giác ngộ được? Không có “thường” thì làm sao quý vị biết được vô thường là gì? Sư phụ đưa ra một ví dụ đơn giản, quý vị chưa từng ăn muối, làm sao biết được thứ này là mặn hay ngọt? Quý vị tìm Bồ Đề ở đâu? Toàn bộ Phật pháp chính là nói cho chúng ta biết, Bồ Đề cùng phiền não thực chất là giống nhau, không có gì khác biệt, tuyệt đối không nên rời khỏi phiền não của mình để cầu Bồ Đề.

Nếu một người học Phật, không có cách nào đưa Phật pháp thực tiễn vào cuộc sống đời thường, thì quý vị sẽ không thể từ trong tam nghiệp “Thân, Khẩu, Ý” của mình mà cảm nhận được “Miệng tôi lại nói sai, ý niệm của tôi lại nghĩ sai, hành vi của tôi lại làm sai”. Nếu quý vị vẫn chưa biết thức tỉnh và chưa biết bản thân cần cải sửa, vậy thì quý vị sẽ không thể đạt được giác ngộ và siêu thoát. Đây là điều Bồ Tát dạy cho chúng ta biết không thể rời thế gian mà có được giác ngộ. Nhiều người cả đời cho rằng mình đã đạt đến siêu nhiên nhờ tụng kinh và tu tâm: “Tôi đã được giải thoát rồi, cảnh giới của tôi không còn giống như những người khác nữa”. Thực ra là đã tiến vào một không gian hư vọng khác, mà loại không gian hư ảo hão huyền đó khiến quý vị tiến vào một giai đoạn cống cao ngã mạn khác.

Vậy nên, việc truy cầu Phật pháp của chúng ta không thể viển vông, mà chúng ta phải tìm thấy trí tuệ của đạo Phật trong cuộc sống. Nhiều người cho rằng, tu Phật, học Phật tu tâm, là tìm một nơi thanh tịnh, rời xa Hồng Trần thế gian này mới có thể tu được, hoặc là tự nhốt mình trong phòng thiền trường kỳ để bế quan (nhập thất), hoặc là xuất gia sẽ bảo đảm tu tốt. Kỳ thực họ không biết “Phật pháp nơi thế gian. Không lìa thế gian giác”, nghĩa là trong quá trình học Phật, chỉ cần quý vị ở trong Hồng Trần, bất cứ lúc nào cũng có thể rèn luyện quý vị tăng trưởng trí tuệ, từ bỏ tham sân si, rồi có được Giáo Pháp vi diệu của Phật trong tâm mình. Vì thế “Lìa thế tìm Bồ Đề. Giống như tìm sừng thỏ.”, nếu như hôm nay quý vị nói “Chỉ là tôi tự nhốt mình lại để tu tâm”, chẳng khác nào quý vị hoàn toàn đem cuộc sống hiện thực và cuộc sống tu hành chia làm hai phần rồi.

“Pháp pháp là tâm, trần trần là đạo”, người học Phật tu tâm thực sự sẽ không cố chấp như vậy, sẽ không chấp trước như thế: “Tôi nhất định phải trong hoàn cảnh nào, tôi nhất định phải như thế nào mới có thể tu tâm tốt được”. Người tu hành thực sự là tùy duyên tu tâm, ngẫu nhiên tham thiền chứng ngộ. Đây là lý do tại sao rất nhiều Bồ Tát của chúng ta đến nhân gian “Hành dã thiền, tọa diệc thiền, ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên”. Nghĩa là hôm nay khi ngôn ngữ phát ra, nhất động nhất tĩnh, tất cả mọi thứ đều rất tự nhiên. Vì sao tự nhiên là một loại cảnh giới rất cao? Tại sao bây giờ chúng ta ăn những thứ tự nhiên? Bởi vì tự nhiên mới là đạo và bởi vì nó là tự nhiên nên nó mới có thể nuôi dưỡng ra một loại giác ngộ chân chính nên trong. Vậy nên, trong đi, ở, nằm, ngồi, thậm chí ăn cơm mặc quần áo, thậm chí làm việc hoặc là ở nông thôn trồng trọt đốn củi, cho dù du sơn ngoạn thủy, đều là tham thiền ngộ đạo. Tại sao nhiều nhà thơ nổi tiếng lại có thể viết được nhiều bài thơ hay khi du hành khắp núi sông? Chính là vì sự tự nhiên của họ. Vì vậy, rời khỏi cuộc sống hiện thực mà đi tìm đạo kiếm pháp, thì ngược lại sẽ cách đạo càng xa. Đạo ở trong tâm, giống như rất nhiều người nói “Tôi muốn tìm một người thầy tốt, thì tôi mới có thể tu tốt trong đời này”, người thầy tốt nhất của quý vị chính là sự giác ngộ trong tâm của quý vị, chính là bổn tánh Phật trong tâm của quý vị, tại sao quý vị lại cầm bát vàng đi xin cơm? Tất cả việc tu hành đều không thể rời khỏi thế gian, nếu tu hành mà rời khỏi thế gian thì không bao giờ thành tựu được.

 

Tập 91
PHIỀN NÃO TỨC BỒ ĐỀ

(20/06/2020)

Trong cuộc sống, cải sửa là điều quan trọng nhất.

Trong quá khứ tất cả Như Lai có thể trở thành Phật đều là do các Ngài thị hiện Bát Chánh Đạo mà thành Phật, hơn nữa Bát Chánh Đạo này đều dùng ở thế gian. Bát Chánh Đạo gồm có: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Những thứ “Chánh” này ở thượng thiên đã có thể đạt được từ lâu, tại sao Bát Chánh Đạo này lại ở nhân gian? Bởi vì nhân gian còn có hư ảo và vọng niệm. Vậy nên ở nhân gian quý vị chỉ cần có thể thực hành được Bát Chánh Đạo, thì quý vị nhất định một kiếp tu thành và quý vị liền có thể thành Phật. Rất nhiều Bồ Tát tại sao phải đến thế gian? Rất nhiều vị A La Hán, chư Thiên, Thánh nhân ở nhân gian, họ nhập thế vào nhân gian để độ chúng sinh và tìm kiếm Phật đạo. Có những vị Đại La Hán từ thượng thiên xuống phải trải qua tám mươi bốn ngàn đại kiếp. Nhiều đứa trẻ có thể đã từng là Bồ Tát hoặc Đại La Hán trong các kiếp quá khứ, những đứa trẻ này từ thượng thiên giáng trần từ rất sớm và luân hồi ở nhân gian từ kiếp này sang kiếp khác, trong đó có một kiếp những đứa trẻ này tu rất tốt và đã từng là đệ tử của Đại Bồ Tát, có một kiếp đã từng là vị nào đó hoặc có một kiếp là ai đó v.v.. Những vị này liên tục trải qua tám mươi bốn ngàn đại kiếp. Vì sao? Cho dù họ đã tu thành rồi, họ vẫn phải trở lại thế gian. Điều đó có nghĩa là cuối cùng họ muốn thành Phật thì nhất định phải nhập thế độ sinh, nghĩa là nhất định phải cứu độ chúng sinh ở nhân gian, mới có thể thành toàn Phật đạo. Nếu đã siêu thoát khỏi lục đạo đều ở thượng thiên, đều là Bồ Tát, đều là Phật, thì ở trên đó quý vị đi độ ai? Chúng ta thường nói: “Thoát ra ngoài Tam giới, không ở trong ngũ hành”, đúng vậy, quý vị độ tới độ lui, nhập thế để độ chúng sinh ở Tam giới.

Nếu ngay cả pháp thế gian quý vị cũng tu không tốt, thì làm sao quý vị có thể trở thành Phật đây? Quý vị ở nhân gian làm người cũng không giống người, ở nhân gian cư xử giống như ma, giống như kẻ ác, giống như súc sinh, thì làm sao có thể tu hành thành Phật? Quý vị không có khả năng thành Phật được. Nhiều người tu cả đời, nhưng ngay cả Người cũng chưa chắc đã làm được. Cho dù có đới nghiệp vãng sinh, đến thế giới Cực Lạc tu hành, cũng chỉ là để cho quý vị tạm thời có thể tiến vào thế giới Cực Lạc mà quý vị yêu thích, nhưng quý vị vẫn phải trả nợ cũ, mà nợ cũ này nếu như là đới nghiệp nhỏ, nghĩa là mang theo những nghiệp rất nhỏ, thì có thể ở trong Thất Bảo Trì, Bát Công Đức Thủy rửa sạch (hồ bảy báu và nước tám công đức). Nếu như quý vị có nghiệp chướng lớn, thì quý vị không thể thoát ra khỏi sáu cõi. Bởi vì thế gian này là cho quý vị đến để trả nợ, quý vị ở thế gian này chưa trả hết nợ thì không thể giải thoát khỏi phiền não của phàm trần nhân gian. Vậy nên, tuyệt đối không phải là hôm nay chỉ cần tu là có thể thành. Giống như một đứa trẻ, cho dù hôm nay nó có đi học thì không nhất định nó có thể tốt nghiệp, cho dù hôm nay nó học lên tiến sĩ, thì không nhất định nó có thể trở thành tiến sĩ. Vì vậy, tu tốt pháp thế gian là nền tảng vô cùng quan trọng, mỗi người chúng ta đều phải tu tốt pháp thế gian.

Ai cũng biết câu này trong những lời nói rất sâu sắc của Lục Tổ, đây chỉ là một câu trong số đó:

Phật pháp tại thế gian

Bất ly thế gian giác

Ly thế mịch Bồ đề

Kháp như cầu thố giác

Nghĩa :

Phật pháp nơi thế gian

Không lìa thế gian giác

Lìa thế tìm Bồ đề

Giống như tìm sừng thỏ.

Thật sự hiểu được đã rất khó rồi, để thực sự thực hành được nó lại càng khó hơn. Phật pháp thật ra là ở trong phiền não của quý vị, và nó không thể tách rời sự giác ngộ của quý vị về những phiền não của thế gian. Không biết câu này quý vị có hiểu được không, nhưng Đài trưởng xin nói lại lần nữa: Phật pháp chính là ở trong phiền não của quý vị, là không thể rời khỏi sự giác ngộ của quý vị trong phiền não thế gian – nghĩa là phiền não tức Bồ Đề. Quý vị giác ngộ được thế gian như huyễn hóa mộng tưởng, như huyễn như hóa, và chỉ trong thế giới mộng ảo, quý vị mới có thể cầu được sự giác ngộ thực sự. Bởi vì quý vị biết nó là giả, nên mới có thể tìm thấy thật. Nếu coi thế giới này là thật thì làm sao quý vị tìm được cái thật đích thực? Do đó, giác ngộ và thế gian là không thể tách rời, không thể rời khỏi. Lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay có việc để làm, thì quý vị mới có thể nhìn ra được vấn đề, sau đó sẽ giải quyết những vấn đề này. Nếu như không có thế gian, nếu như không có việc gì cho quý vị làm, thì quý vị sẽ đi đâu để cầu cho chính xác đây? Người này rất có kinh nghiệm, là từ trong những vấn đề phát sinh mà họ có được kinh nghiệm này. Đã từng hỏi một người thành công: “Bạn có bí quyết gì không?”, họ nói: “Tôi không có bí quyết gì, bí quyết của tôi chính là trong vô số lần thất bại cuối cùng đạt được thành công.” Vậy nên một người thành công hay người giác ngộ thì họ sẽ không rời khỏi thế gian để cầu giác ngộ; Một người nghĩ rằng mình đã siêu thoát rồi, đã rời khỏi nhân gian rồi, không hít khói lửa nhân gian nữa, mọi người hãy nói xem phiền não của họ có còn không?

Họ có Bồ Đề không? Vì vậy đừng bao giờ rời khỏi phiền não của bản thân mà đi cầu Bồ Đề. Phiền não không là gì cả, phiền não chỉ là nền tảng để quý vị tìm được Bồ Đề. Cũng giống như muối, mỗi món ăn dù có chua ngọt thì nhất định cũng phải có muối, nếu không sẽ khiến quý vị cảm thấy rất khó ăn. Hỷ nộ ái lạc là để quý vị cảm nhận được niềm vui và sự tức giận là gì, bởi vì chỉ khi có được niềm vui, thì quý vị mới có thể biết tức giận là gì, và chỉ sau khi quý vị nổi giận, thì quý vị mới biết được niềm vui là gì. Vui buồn là gì? Thực ra đó chính là vì có niềm vui nên mới có đau buồn. Không có vấn đề thì làm sao có thể có được phương pháp? Phật pháp chính là ở thế giới con người để giải quyết cụ thể những vấn đề của con người, và chính là pháp môn tốt nhất để Bồ Tát giải quyết những phiền não của con người hiện đại. Đáng vui thì nên vui, đáng giận thì nên giận, xét cho cùng bổn tánh cùng căn đế hỷ nộ ái lạc đều là trí tuệ Bồ Đề.

Trong Kinh Phật dạy: Bồ Tát chưa thành Phật, lấy Bồ Đề làm phiền não; Khi Bồ Tát thành Phật, lấy phiền não làm Bồ Đề. Hà dĩ cố? (Tại sao?) Dĩ đệ nhất nghĩa bất nhị cố (nghĩa là không có lời giải thích thứ hai cho cái nghĩa lý và đạo lý này). Điều này cho chúng ta biết rằng khi con người chúng ta và Bồ Tát chưa thành Phật, vì quý vị là Bồ Tát nên quý vị vẫn chưa hiểu được đạo lý và nghĩa lý của Phật, cho nên lấy Bồ Đề làm phiền não (rõ ràng là có nhiều trí tuệ, nhưng quý vị vẫn coi đó là phiền não); Khi Bồ Tát thành Phật, tất cả phiền não cũng không phải là Phật không có, Đức Phật vĩ đại đã có biết bao phiền não khi cứu độ chúng sinh khổ nạn ở nhân gian, nhưng Đức Phật đã biến nó thành Bồ Đề. Tại sao? Bởi vì đây là “một” và không có lời giải thích thứ hai. Nói cách khác, nó cho chúng ta biết rằng chỉ khi gặp phiền não mới có thể tìm ra nghĩa lý đầu tiên của Bồ Đề. Khi nhìn thấy người xấu, quý vị phải nghĩ rằng sẽ có một ngày nào đó họ trở thành người tốt. Đây cũng là một nguyên lý, đây gọi là “Lãng tử hồi đầu kim bất hoán” (nghĩa là: Lãng tử quay đầu lại còn quý hơn vàng. Người lang bạt hư đốn đến tầm cỡ nào, nếu biết hồi tâm thức tỉnh, ăn năn hối cải thì phẩm chất đạo đức của người đó vẫn trở lại nguyên thể trong sáng, cao thượng). Nếu người này không quay đầu, không cải sửa thì tâm của họ sẽ tràn đầy phiền não, làm xằng làm bậy, bởi vì họ không có giác ngộ. Khi họ quay đầu là bờ, an phận thủ thường, giúp người làm niềm vui thì họ vẫn là họ như lúc ban đầu.

Cùng một người đó, nhưng lúc thì làm xằng làm bậy, lúc lại lấy việc giúp người làm niềm vui, điều này nói cho chúng ta biết, mọi thứ đều đang thay đổi. Cái nghĩa lý này nói cho chúng ta biết, chỉ khi Phật ở thế gian mới có thể hiểu được thế gian. Những gì quý vị đã làm trong quá khứ không có nghĩa là những gì quý vị sẽ làm trong tương lai: điển hình là nhiều vĩ nhân ngày nay đã phạm nhiều sai lầm trong quá khứ; Nhiều người chưa bao giờ phạm sai lầm khi còn trẻ, có thể sau này họ đã phải sống một cuộc đời rất thê thảm, bởi vì họ liên tục sai lầm. Cùng một người, cùng một việc, khi chúng ta sống ở thế gian này, phải coi sự vật này, sự việc này là một lối suy nghĩ non nớt. Khi quý vị dần dần hiểu rằng đây là một lối suy nghĩ chín chắn, thì thực ra quý vị đã biến phiền não thành Bồ Đề. Sư Phụ đưa ra ví dụ này với hy vọng mọi người có thể hiểu được người xấu này về sau họ sẽ trở thành người tốt, đó là một sự chuyển hóa, bởi vì phiền não này chính là “người xấu”, về sau đã thay đổi Bồ Đề tức là trở thành “người tốt” rồi.

Lục Tổ đã từng nói “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”, nghĩa là đang nói với chúng ta rằng, chúng ta không bao giờ được rời bỏ thế giới này hay bỏ lại những phiền não của chính mình để tìm kiếm Phật pháp ở nơi nào khác, loại trí tuệ mà bản thân quý vị vốn có đã đi đâu rồi? Mỗi người đều có trí tuệ vô lượng vô biên – trí tuệ của Đức Phật xuất phát từ trong trường thức thứ chín, trong A Ma La thức của Ngài mà có được. Vì vậy, quý vị phải ở thế gian để nhận thức sâu sắc được chân lý của thế gian, quý vị phải đảo ngược tất cả phiền não thế gian này, biến tất cả phiền não của thế gian này thành Bồ Đề diệu dụng. Khi đó cả con người, cả cuộc sống của quý vị đều ở trong Bồ Đề. Lấy một ví dụ đơn giản, cả cuộc đời quý vị đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực này và quý vị là chuyên gia trong lĩnh vực đó. Quý vị có quá nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này, vấn đề gì cũng gặp qua, cuối cùng vấn đề gì cũng có thể giải quyết được, thì có phải quý vị là chuyên gia Bồ Đề về phương diện này không? Nếu không có hỷ nộ ái lạc của nhân gian, thì Đức Phật lấy cái gì để thuyết pháp cho mọi người nghe? Đức Phật năm đó ở nhân gian dạy cho chúng ta biết rất nhiều về Phật pháp, là thông qua rất nhiều câu chuyện, rất nhiều khổ nạn và hỷ nộ ái lạc của nhân gian. Đức Phật dùng phương pháp gì để tiếp dẫn chúng sinh như chúng ta? Đức Phật chính là dùng những hỷ nộ ái lạc này nói cho chúng ta biết nhân sinh vô thường, nhưng ở thượng thiên có hạnh phúc, nhân gian có khổ nạn, những khổ đau và hạnh phúc này có thể làm cho chúng ta hiểu được: Muốn lìa khổ được vui, thì nên đến thượng thiên sống cùng với Bồ Tát. Pháp môn của đạo Phật là để Đức Phật, và nhiều vị Bồ Tát đến dạy cho chúng ta biết: “Quý vị muốn tu thành, thì Bồ Tát sẽ tới tiếp dẫn quý vị”.

Trên thực tế, chư Bồ Tát và chư Phật là chuyên gia nghiên cứu phiền não học, và họ là kỹ sư trong lĩnh vực về tinh thần. Họ là những tiến sĩ, giáo sư vĩ đại. Họ có thể giải thoát chúng ta khỏi những phiền não và giúp chúng ta nghĩ thông suốt. Bản thân Bồ Tát chính là từ trong phiền não đạt được trí tuệ, quán triệt phiền não, nên có thể hiểu được nỗi khổ và khổ nạn của tất cả chúng sinh. Vì thế các Ngài mới có thể thiết lập đủ loại cách thu phục phiền não và dùng diệu pháp để chuyển phiền não thành Bồ Đề. Có nhiều điều trong nhân gian. Lấy một ví dụ đơn giản, tòa nhà của chúng ta đã xảy ra chuyện gì mà bị vỡ ống nước hay dột nhà, quý vị nghĩ sẽ không thể giải quyết được nhưng khi quý vị tìm đến các chuyên gia như kiến ​​trúc sư, kỹ sư, họ bảo quý vị sửa chỗ này một chút, chỗ kia một chút, lập tức liền giúp quý vị giải quyết được ngay. Làm sao họ có thể giải quyết được như vậy? Nếu trước đây họ không xây nhà, không sửa chữa, thì sẽ không biết chỗ nào bị dột – nếu họ không từng gặp những phiền não trong quá khứ, thì hôm nay liệu họ có thể giúp chúng ta sửa nhà nhanh như vậy không? Nếu ngày nay chúng ta không hiểu Phật pháp và không hiểu nỗi đau khổ của chúng sinh, liệu chúng ta có thể giúp chúng sinh giải quyết những phiền não của họ không? Quý vị cũng không thể giải quyết nỗi đau khổ của chúng sinh với một cái đầu đầy kinh luận. Vậy nên, “Lìa thế tìm Bồ đề. Giống như tìm sừng thỏ.” Nếu quý vị rời khỏi thế gian này và nói: “Tôi muốn tìm Phật pháp”, thì chẳng khác nào quý vị đi tìm một con thỏ có hai sừng trên đầu trong nhân gian. Bởi vì thỏ không có sừng trên đầu nên quý vị không thể tìm thấy một con thỏ nào có sừng trong khắp thiên hạ. Câu này chính là đại cương chung của Thiền tông.

 

Tập 92
CẢNH CHUYỂN NHƯNG TÂM KHÔNG CHUYỂN

(20/06/2020)

Ở thế gian tu hành, không rời thế gian giác. Có người nói đến việc tu tập và luôn đi bế quan (nhập thất), tìm nơi thanh tịnh, nhưng có bao nhiêu người đã bế quan thành công? Cho nên xưa có câu nói: “Chưa phải là Bồ Tát, sẽ không toạ thiền trên núi; vẫn chưa khai ngộ không thể bế quan”. Chỉ những người thật sự khai ngộ mới có thể bế quan. Nếu chưa ngộ thì dù ngồi trên núi cũng chỉ có thể trầm tư suy nghĩ. Bế quan là chuyện mà chỉ những người có căn cơ vững chắc mới có thể làm được, không phải ai cũng có thể bế quan. Có một số người không hiểu Phật pháp ở thế gian, chỉ khi ở thế gian, quý vị mới có thể giác ngộ được. Nhiều người hoàn toàn không hiểu đạo Phật, cũng không biết trí tuệ bắt nguồn từ phiền não. Nếu dùng loại tư duy này mà đi bế quan, quý vị sẽ càng ngày càng tự kỷ, không muốn tiếp xúc với người khác, không thể hiểu được sự thức tỉnh của thế gian, và cuối cùng quý vị sẽ khép mình lại. Khi phiền não ập đến sẽ không tìm thấy được trí tuệ. Có vài người bế quan, lúc thì nhớ nhà, lúc thì nhớ bạn bè, lúc thì thích náo nhiệt, cuối cùng bế quan không được mấy ngày liền kết thúc. Nhưng có một số người lại muốn giữ thể diện và đã hứa sẽ bế quan bao nhiêu ngày: “Tôi nhất định phải có dũng khí để kiên trì”, kết quả là sau khi bế quan, nhiều người đã lạc lối và mắc bệnh. Còn có người bế quan trong thời gian dài, cuối cùng họ trở thành người không nghĩ tới bất kỳ điều gì và nói: “Tôi muốn trống không, tôi muốn trống rỗng”, họ đều không nghĩ đến bất cứ điều gì, hoàn toàn biến thành một người không có tư duy, thì họ lấy đâu ra trí tuệ Bồ Tát?

Bế quan là một đại trí tuệ, phải nhìn nhiều vào chính mình, nhìn những việc mình đã làm, nhìn những việc mình đã gặp phải ở nhân gian, vận dụng chúng để đối chiếu – đừng quán chiếu bản thân mà hãy quán chiếu tâm. Đừng quán chiếu bản thân nghĩa là gì? Đừng quán chiếu về thân thể của chính mình. Quý vị phải quán chiếu về sự trống rỗng của tâm mình và chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Phật pháp thực chất chính là phương pháp Đốn giáo mà Đức Phật truyền lại cho chúng ta. Thế gian (“thế” thực chất có nghĩa là sự truyền bá của Phật giáo trên thế gian; “gian” chính là giới hạn), tức là lưu truyền ở thế gian này. Phật pháp ở tại thế gian không cần rời khỏi thế gian để đi cầu Chánh giác. Vậy nên, Nho giáo nói rằng: “Đạo bất viễn nhân. Nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo”. (đạo ở ngay bên cạnh chúng ta, người vì cầu đạo mà rời khỏi càng nhiều chúng sinh thì không thể thành công và sẽ không cầu được đạo)

“Đạo bất viễn nhân”, nghĩa là đạo ở ngay bên cạnh chúng ta; “Nhân chi vi đạo nhi viễn nhân” nghĩa là người vì cầu đạo mà rời khỏi càng nhiều chúng sinh; “Bất khả dĩ vi đạo” nghĩa là không thể thành công và sẽ không cầu được đạo. Vì vậy, những người thực sự muốn thành Phật nhất định phải ở trong chúng sinh, mà không phải rời khỏi chúng sinh, cũng như rời khỏi thế gian. Khi tu hành một mình trong núi, họ không gánh vác được trách nhiệm mà bản thân cần phải gánh vác, và không có được nhân, nghĩa, lễ, trí, tín mà họ cần phải có, họ nói: “Tôi muốn tìm kiếm giác ngộ, tìm Phật đạo”, cũng giống như muốn tìm thấy con thỏ có hai sừng trên toàn thế giới vậy, thực ra là họ đã rời xa tự tánh thực sự của chính mình.

Đức Phật đã từng giải thích cho chúng ta tất cả các pháp trên thế gian trong 《Kinh Pháp Hoa》 rằng: Như thị tướng, Như thị tính, Như thị thể, Như thị lực, Như thị tác, Như thị nhân, Như thị duyên, Như thị quả, Như thị báo và Như thị bản mạt cứu cánh đẳng – đây là câu cuối cùng, nghĩa là bắt đầu và kết thúc nhất định là như vậy. Bồ Tát thực ra là cho chúng ta biết, bổn tánh vốn đã có sẵn, tất cả những gì quý vị thấy: nhân, quả, duyên phận, thọ báo, tất cả đều vốn tồn tại, đây chính là tùy duyên. Sau khi học được 10 đại yếu lĩnh, quý vị sẽ có thể nhìn thấy hàng ngàn cái như vậy trong hàng trăm cõi, tức là có hàng ngàn loại “như thị” trong bất kỳ pháp giới nào, nhưng thực chất chúng đều giống nhau. Bất kể chúng ta muốn du lịch đến quốc gia nào, ngắm tới ngắm lui, không phải ngắm núi thì cũng là ngắm nước, không phải ngắm bãi biển thì cũng là ngắm bờ biển – như thế đó, hết thảy đều là như thế.

Điều mà thế gian thật sự giác ngộ thành tựu đó là Nhất Tướng Tam Muội và Nhất Hạnh Tam Muội, cho dù có cả ngàn hay chỉ có một cũng giống như vậy. Bất kể quý vị học Phật bằng pháp môn nào, cuối cùng đều là Nhất Tướng Tam Muội và Nhất Hạnh Tam Muội. Hôm nay vì thời gian có hạn, lần sau Sư phụ sẽ giảng và giải thích cặn kẽ cho mọi người về Nhất Hạnh Tam Muội và Nhất Tướng Tam Muội.

Cuối cùng Sư phụ kể cho mọi người nghe một câu chuyện. Sự vô thường của cuộc sống nhắc nhở mọi người về ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Ý nghĩa thực sự của cuộc sống đúng là vô thường. Nhiều người sẽ sống nếu vượt qua được cửa ải này. Cửa ải này chết, thì họ cũng sẽ chết theo. Có bao nhiêu người đã rời khỏi thế giới này như thế đó, nào có cái gì có thể đi lưu luyến? Sinh không mang đến, chết không mang theo. Về cuộc sống, nó nhắc nhở chúng ta về cái chết, nên trên đời này không ai sẵn sàng nói về việc mình sẽ làm gì trong tương lai hoặc sau khi chết sẽ làm gì. Mặc dù cái chết là một quy luật không thể cưỡng lại được, nhưng sự xuất hiện của nó khiến con người không thể chối bỏ và chấp nhận được nên con người rất đau khổ.

Có một vị Tỳ kheo tu hành, tâm của ông thường bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh bên ngoài. Cũng giống như việc tu hành của chúng ta hiện nay, chúng ta cũng thường bị ảnh hưởng bởi danh, lợi, sắc dục bên ngoài. Đức Phật liền dạy cho vị ấy biết phương pháp tu hành: “Này Tỳ kheo, khi ông tu hành tâm dễ tán loạn, và ông không đặt chữ “chết” ở trong lòng. Nếu ông có thể hiểu được sự vô thường của cuộc sống thì mọi thanh sắc bên ngoài sẽ không cám dỗ được ông. Thực ra, ý của Đức Phật là muốn nói với ông: Nếu ông giữ cái chết trong lòng, ông sẽ không chấp nhận các loại cám dỗ của xã hội đối với ông. Bây giờ Đài trưởng giảng cho quý vị, nhưng có thể quý vị vẫn chưa hiểu. Hãy nghe Sư phụ giải thích từ từ.

Lời của Đức Phật tình cờ có một vị quốc vương nghe được, vị quốc vương này nghĩ thầm: “Chỉ cần đệ tử của Phật nhớ đến chữ “chết”, họ sẽ không bị thế giới bên ngoài lay chuyển, và tâm trí họ sẽ được an định, dễ dàng như vậy sao? Ông liền muốn thử xem. Chuyện xảy ra ở nước họ có một người vu khống các Tỳ kheo, người đó nói: “Các Tỳ kheo cũng là người, mặc dù xuất gia, chẳng lẽ trong lòng họ không tham muốn thú vui của ngũ dục vọng sao?” Vua bèn sai người: “Người đâu, hãy bắt lấy hắn.” Hắn ta bị kết tội xúc phạm thánh nhân nên bị kết án tử hình, và vua nói với hắn: “Nếu ngươi muốn được miễn án tử hình, bây giờ hãy lấy một bát đầy mật ong và đi quanh chợ. Nếu ngươi không làm nhỏ ra một giọt nào, ta sẽ tha thứ cho ngươi, bằng không sẽ không tha tội chết.”

Quốc vương đã bố trí rất nhiều âm nhạc, ca hát, nhảy múa, tiếng đàn ngọt ngào và nhiều mỹ nữ có vẻ đẹp như mây bên cạnh khu chợ nơi tội phạm đi qua để người khác khi nhìn thấy đều cảm động. Lúc này, tên tội phạm cầm lấy một bát mật ong, vì trong đầu hắn chỉ nghĩ đến chữ “chết”: “Nếu hôm nay một giọt mật nhỏ ra ngoài, thì mình sẽ chết chắc rồi”. Và hắn ta cứ nghĩ “ôi trời, đừng chết, đừng chết”, cứ như thế hắn ta đi hết con phố này.

Quốc vương hỏi: “Ngươi đã đi xong rồi, vì mật không nhỏ ra ngoài, nên trẫm tha cho ngươi tội chết. Nhưng trẫm muốn hỏi ngươi, ngươi có nghe thấy tiếng gì ngoài đường không?”

“Thưa bệ hạ, không.”

“Ngươi có nhìn thấy ai không?”

“Không.”

“Chẳng lẽ ngươi không nghe hay nhìn thấy âm nhạc và kịch ca múa trên đường phố sao?”

“Tâu bệ hạ, trong tay thần có một bát đầy mật ong. Chỉ cần nhỏ một giọt ra sẽ phải chết. Cho nên thần luôn ghi nhớ cái chết trong tâm, nên không biết bên ngoài đang xảy ra chuyện gì.”

Quốc vương nói với tội nhân: “Đức Phật nói đúng. Nếu giữ cái “chết” trong tâm và biết đời là vô thường thì mọi thanh sắc đều không thể cám dỗ được người khác. Ngươi nói tu sĩ cũng là con người. Điều này đúng, nhưng vì trong lòng họ biết rằng thế gian là hư ảo, có sống tất có chết, thì họ tham luyến ngũ dục ở chỗ nào? Vậy tại sao ngươi lại phỉ báng các bậc Thánh giả?” Khi hắn ta nghe quốc vương giảng, giác ngộ sâu sắc, từ đó không còn phỉ báng Phật nữa.

Cuộc đời con người không phải lúc nào cũng ở trong hoàn cảnh và tâm tình giống nhau, nên đời người lận đận, không xảy ra chuyện này thì xảy ra chuyện khác và luôn không có được sự bình yên. Chúng ta phải hiểu rằng cuộc sống là vô thường. Con người không nên giữ quá nhiều nỗi khổ trong lòng. Ngoại cảnh đang thay đổi, nhưng tâm của chúng ta không nên thay đổi, đây chính là tu hành. Bởi vì không có gì đau đớn hơn cái chết, cho nên khi quý vị không chịu nổi sự cám dỗ, quý vị thử nghĩ xem, điều này còn đau khổ hơn cái chết sao? Quý vị có thể đã vượt qua được một kiếp nạn. Đừng coi những việc đơn thuần trên thế gian là rất nghiêm trọng, bởi vì như vậy quý vị sẽ sống rất đau khổ trên thế gian này.

Mỗi ngày quý vị có thể nhìn thấy rất nhiều lỗi lầm và sai lầm của chúng sinh, rồi quý vị sẽ giúp họ gánh chịu nghiệp chướng, và quý vị sẽ cảm nhận được bản thân đang rất đau khổ. Nếu đúng như vậy, quý vị hãy sám hối ngay lập tức, đó mới là tu hành. Khi con người sống trên thế gian, hạnh phúc và thanh tịnh, sẵn sàng chịu sự cô đơn, cốt lõi nhất đều là một loại cảm giác. Rời xa thị phi tự nhiên sẽ không có lỗi lầm, tai trong sạch, sẽ từ bỏ lời nói phù phiếm, thường niệm Phật hiệu để bịt miệng lưỡi, đại đạo vô ngôn tâm tự nhiên. Cho nên đừng nói bừa, đừng bình luận tùy tiện, đó là trí tuệ. Chúng ta, những người học Phật, phải vượt qua mọi phiền não, chỉ có những người thoát khỏi đau khổ và đạt được hạnh phúc mới được gọi là người trí. Người khôn ở trên, kẻ ngu ở dưới. Hãy học Phật cho tốt và chúng ta sẽ cùng nhau leo ​​lên Tứ Thánh. Cảm ơn đại chúng.

Đốn giáo có hai nghĩa:

Dạy cho thành tựu tức khắc.

Dạy cho bằng giáo pháp vắn tắt Đại Thừa.

Đốn giáo là phép dạy cho ngộ nhập mau chóng, tốc hành Phật quả.

Đối với hạng chúng sanh thuần dục, cơ duyên đều đủ rồi, liền thuyết cho giáo lý Đại Thừa, đưa thẳng lên ngôi vị Phật, đó là đốn giáo.

 

Tập 93
NHẤT TƯỚNG TAM MUỘI , NHẤT HÀNH TAM MUỘI

(27/06/2020)

Được rồi, hôm nay Đài trưởng tiếp tục giảng với mọi người về 《Bạch Thoại Phật Pháp》

Ở nhân gian chúng ta đều có rất nhiều dục vọng, bởi vì dục vọng giống như cá mập cắn chặt lấy chúng ta, cho nên mỗi ngày chúng ta sống trong dục vọng, cái này cũng muốn, cái kia cũng đoạt, cái khác cũng không nỡ buông. Cho dù quý vị có tâm thái như thế nào, thì cũng nên học cách “năng xả chi đạo” đối với ham muốn của mình. “Năng xả chi đạo” là gì? Nghĩa là từ bỏ và xả bỏ. Có được “năng xả chi đạo” tức là có thể buông bỏ và giải thoát bất kể thiện duyên hay ác duyên trên thế gian này. Đây là một khả năng đặc biệt của con người chúng ta. Nếu ngày hôm nay quý vị có thể giải thoát bản thân khỏi những dục vọng, nghĩa là quý vị đã có được một loại sức mạnh thần thông. “Tôi không bị dục vọng khống chế. Hôm nay tôi rất thích những thứ như thế này, nhưng tôi nói không mua là không mua; hôm nay tôi rất thích những thứ như thế kia, tôi nói bỏ là bỏ”, những thứ bản thân yêu thích, những việc thiện, ác, tất cả đều phải xả bỏ, bởi vì trên thế gian này, sinh không mang đến, chết không mang theo. Nhất là phải học cách xả bỏ, xả bỏ đi phiền não của bản thân, bởi vì phiền não sẽ làm quấy nhiễu tâm trí của quý vị, khiến quý vị không buông xuống được. Cắt bỏ đi nghiệp lực vướng mắc cũng là một loại buông bỏ. Đừng nghĩ rằng dường như dục vọng đang ám ảnh thân tâm quý vị khiến cho quý vị không thể buông bỏ được, vẫn có thể cắt bỏ được như thường, bởi vì sau khi xả bỏ liền đạt được giải thoát. Dùng cách gì để cắt bỏ đây? Đó là dựa vào tu hành mỗi ngày, ví dụ chúng ta tu tập mỗi ngày, lạy sám hối; có đôi khi nhận được sự gia trì của Cao Tăng Đại Đức, dù có được gia trì này quý vị cũng phải cắt bỏ; có khi dựa vào trí tuệ, cũng giống như nhiều người không thể giải thoát được ra khỏi lưới tình, nếu có một vị trưởng giả có trí tuệ nói với họ: “Hãy buông xuống, tất cả đều là trống không. Hãy nghĩ xem sau vài năm, người đó có còn sống cùng với bạn như thế nữa không?” Sau khi đó người này sẽ suy nghĩ lại, đã nghĩ thông, có được trí tuệ dần dần học cách xả bỏ, tu sửa tiêu hết đi nghiệp chướng của bản thân. Người như thế chính là người có năng lực.

Tu tâm phải có bền lòng cùng tâm Kim Cang bất hoại. Tâm Kim Cang bất hoại nghĩa là phải có căn nguyên và nhân duyên thiện nhất định, bởi vì người có được những nhân duyên này, họ có thể cảm ứng được chư Phật, chư Bồ Tát cùng các vị hộ pháp khác nhau, khiến họ đạt được sức mạnh của sự gia trì. Giống như khi chúng ta gặp chuyện gì đó cảm thấy vô vọng, nhưng tại sao có một số người có khả năng chiến thắng được phiền não của chính mình? Bởi vì họ biết “Quán Thế Âm Bồ Tát nhất định sẽ cứu tôi, tôi nhất định sẽ nhận được sự gia trì của Quán Thế Âm Bồ Tát”, từ trong tâm họ thực sự tiếp xúc với Phật tánh của chính mình. Quý vị có chư Phật Bồ Tát ở trong tâm hộ trì cho quý vị, thì quý vị đã có được tâm Kim Cang bất hoại, vì thế cảnh giới tu tâm của quý vị sẽ tăng lên càng lúc càng nhanh.

Đôi khi con người chúng ta không đủ trí tuệ, không thể phân biệt được thật giả ở thế gian này sẽ lầm đường lạc lối, chúng ta sẽ làm những điều tà, học tà pháp, và đi vào tà đạo. Vì sao? Sự chấp trước trong việc học Phật sẽ khiến quý vị không ngừng theo đuổi những gì mình cần đạt được, trong đó bao gồm cả những việc theo đuổi Thần linh. Điều đích thực là phải học cách tịch tĩnh. Tịch tĩnh theo cách nói ngày nay có nghĩa là “Tôi ở trong thế giới này cái gì cũng không nhìn thấy, cái gì cũng không nghe thấy, trong tâm bình thản như nước, tĩnh lặng như nước.” Bằng cách này, niềm vui của Pháp sẽ thường xuyên chuyển hóa nỗi buồn và phiền não của quý vị, quý vị sẽ đạt được thành tựu của việc học Phật. Rất nhiều người chỉ là không biết cách chuyển hóa nội tâm của mình. Họ cảm thấy rằng trên thế gian này, nên xem thì cần phải xem, nên được thì cần phải được, nên có cần phải có. Thực ra, nếu quý vị có được những gì quý vị không nên có, nó sẽ mang đến cho quý vị phiền não và đau khổ; nếu quý vị nhìn thấy những gì quý vị không nên thấy, quý vị sẽ cảm thấy khó chịu; nếu quý vị nghĩ về những gì quý vị không nên nghĩ tới, quý vị sẽ cảm thấy hoảng hốt và sợ hãi sau khi nghĩ về nó. Giống như khi chúng ta xem nhiều bộ phim, có một vụ án mạng xảy ra ở đó, có một người tình cờ đi ngang qua và nhìn thấy nó. Sau khi người đó bị kẻ sát nhân nhìn thấy, chúng sẽ bắt đầu truy sát. Nếu quý vị nhìn thấy điều gì đó mà quý vị không nên thấy, quý vị sẽ luôn bị nỗi sợ hãi chiếm hữu trong tâm mình. Làm sao chúng ta có thể tu tâm ở cõi người? Thật ra tu tâm chính là tu cho đến khi tâm yên tĩnh, tu cho đến khi tâm an lạc, tu cho đến khi tâm không tham, không bám chấp và có được pháp hỷ từ bên trong. Vì vậy, người thực sự có thể giải thoát là người có được Pháp hỷ; Người thật sự có thể giải thoát, người đó mới là người cả đời yên tĩnh và yên bình.

Phật không khác gì chúng sinh. Phật ở trong tâm chúng ta. Khi trí tuệ của chúng ta được nâng cao thì chúng ta chính là Phật. Vì vậy, đừng nghĩ rằng Phật cách chúng ta rất xa, dùng lời bây giờ mà nói, Phật chính là cảm ứng trong tâm chúng ta. Khi quý vị đã cảm nhận được Phật ở trong tâm mình, không khác gì chính mình, thì đó chính là “Nhất tướng” mà trong giới đạo Phật đề cập đến. Nếu không có gì khác biệt, vậy rõ ràng là cùng một tướng rồi.

Tam Muội là gì? Đó là dùng Chánh định nhận thức Nhất Tướng của pháp giới, không có gì khác biệt, để cho quý vị hiểu được chân lý không có gì khác biệt giữa Phật và chúng sinh: Phật và chúng ta đều giống nhau, không có gì khác biệt; Bởi vì trong tâm chúng ta có Phật, bởi vì trong thức A Ma La của chúng ta có Phật tánh, cho nên chúng ta và Phật không có bất kỳ sự khác biệt nào. Điều này trong Phật giáo gọi là Nhất Tướng Tam Muội. Đây là hai câu dụng từ mà Phật giáo thường nói đến: Nhất Tướng Tam Muội, Nhất Hành Tam Muội. Nói cách khác, niệm Phật tức tâm là Phật, nhiều người thường nói người trong lòng có Phật, khi họ vừa niệm Phật thì trong lòng liền có Phật. Nhiều người trong lòng có ma, “Tôi nhất định phải có được một thứ gì đó”, dục vọng của họ sẽ thúc đẩy họ liều lĩnh muốn có được rất nhiều thứ ở nhân gian, bao gồm tình cảm, vật chất, danh lợi, cuối cùng tâm niệm của họ trêu chọc ma, nên tâm của họ mới bị ma ám.

Vọng tưởng là phàm phu, Sư phụ nói cho mọi người biết thế nào gọi là vọng tưởng là phàm phu. Bởi vì quý vị suy nghĩ lung tung, không đáng nghĩ cũng nghĩ, chỉ cần suy nghĩ thêm một chút thôi là có thể hiểu rõ đạo lý, thế nhưng mỗi ngày đều suy nghĩ lung tung. Lấy một ví dụ đơn giản, một người thực sự có nhiều tiền sẽ không nghĩ đến việc mua vé số mỗi ngày. Nhưng những người muốn phát tài hàng ngày họ có thể liên tục mua nó trong mười hoặc hai mươi năm. Đây chính là điều chúng ta thường nói, nếu tâm niệm của quý vị muốn phát tài, thì quý vị sẽ bị tiền bạc và ma chướng tài lợi làm cho mê hoặc. Nói về Nhất Hành Tam Muội chính là diệu pháp trong tu hành tu trì, “Hành” nghĩa là quý vị nên tu hành như thế nào (Nhất Tướng Tam Muội nghĩa là cách hiểu như thế nào), “Nhất Hành” nghĩa là diệu pháp trong tu hành tu trì, quý vị dùng một phương pháp phi thường ảo diệu mà tu cho tốt, thì quý vị liền có được Nhất Hành Tam Muội. Vậy nên nói chung, Nhất Hành Tam Muội và Nhất Tướng Tam Muội, trong đó Nhất Tướng Tam Muội là nói về một số nền tảng theo phương diện lý luận, Nhất Hành Tam Muội là nói về thực tiễn; Nhất Tướng Tam Muội là nói về trí tuệ, Nhất Hành Tam Muội là nói về thiền định. Đây đều là trí tuệ vô cùng cao thâm của Phật pháp.

Có thể làm được tùy duyên tự tại, ở nhân gian nhất định phải tùy duyên, người tùy duyên chính là một người tự tại. Nếu không vặn vẹo với người khác, thì quý vị cũng rất tự tại. Người rất tự tại, vĩnh viễn là tùy duyên, người khác nói gì, họ đều là “Ồ, không sao đâu”. “Đến nhà hàng này ăn?” “Được được được, vậy cũng rất tốt, nhưng nhà hàng này chỉ có hai món là đặc sắc thôi.” “Hay là chúng ta đến nhà hàng kia đi.” “Được được được, nhà hàng kia có món ăn đó tôi cũng rất thích.” Loại người này có được sự tự tại không? Đi đâu cũng là nơi mà trong tâm họ muốn đi cả.

Phải có được thiện tâm, 《Kinh Kim Cang》 đã từng dạy chúng ta rằng khi làm bố thí, không nên luôn luôn ghi nhớ mình đã làm gì. Hôm nay quý vị đang làm việc thiện, đừng nhớ rằng “Tôi đang làm việc thiện”. Hôm nay quý vị đang giúp đỡ người khác, đừng nghĩ rằng “Tôi đang giúp đỡ người khác”. Quý vị không nên nhớ đã làm điều gì đó và giữ trong lòng chuyện vừa mới làm mà nhớ mãi không quên. 《Kinh Kim Cang》 dạy chúng ta làm việc thiện mọi lúc mọi nơi, bố thí bằng tâm, hoằng pháp bằng đạo đức, phải có được tâm “Không từ đâu đến cũng chẳng đi về đâu”. “Hôm nay tôi đã làm việc thiện như thể tôi chưa từng làm việc thiện”, việc thiện này tồn tại, nhưng nó trôi qua trong tâm quý vị. Việc thiện đó tồn tại, và nếu quý vị không bám vào sự tồn tại của việc thiện mà quý vị đã làm, thì quý vị sẽ có được một cảnh giới cao thượng. Người thường hay giúp đỡ người khác, không nên lúc nào cũng nói “Tôi thường xuyên giúp đỡ người khác”, cái tâm này đến và đi không dấu vết, bởi vì giúp đỡ người khác chính là một loại từ bi. Giống như rất nhiều nhà từ thiện, họ đi khắp nơi để làm từ thiện, họ đi khắp nơi để gieo hạt giống tình yêu thương và lòng nhân ái, nhưng họ không bao giờ cảm thấy rằng họ đang gieo hạt giống ấy. Trên thực tế, những hạt giống mà họ gieo sẽ khỏe mạnh và phát triển tốt hơn. Bởi vì khi người khác nhìn thấy hạt giống yêu thương này của quý vị, họ tin rằng đó là hạt giống duy nhất, bởi vì quý vị không có cái tâm nào khác ở bên trong, chỉ là một trái tim biết cho đi, “Tôi vô duyên đại từ, tôi vô duyên đại bi”. Tôi tin rằng đây chính là một trong những bất nhị pháp môn, toàn tâm toàn ý đi trợ giúp người khác chính là bất nhị pháp môn. Có đôi khi, chúng ta hiểu rõ một sự việc nào đó, giới Phật pháp gọi là “kiến địa”, là một loại lý luận. Thực ra Nhất Tướng Tam Muội là nói về một loại trí tuệ. Nhất Hành Tam Muội là nói về thiền định, phải định lại được. Dù sao đi nữa, thực tiễn và lý thuyết phải kết hợp với nhau. Giống như quý vị hiện tại đang nghe giảng pháp, đây chính là nền tảng của lý luận: sau khi nghe xong thì đi bố thí, khi bố thí thì không nên chấp tướng, cảm thấy đây là việc nên làm, đây chính là trí tuệ lớn nhất của Nhất Tướng Tam Muội.

Lục Tổ từng phối hợp Định và Tuệ. “Định” có nghĩa là tâm con người phải định lại được; “Tuệ” là một loại trí tuệ. Trí tuệ có thể chuyển động, nhưng tâm thì bất động, nên sự kết hợp giữa Định và Tuệ là pháp môn tu hành theo như lời lục tổ Huệ Năng đại sư nói – nhất thiền định. Thiền là một loại trí tuệ, Định là một loại tu dưỡng. Làm thế nào một người có thể đạt được Định và Tuệ đây? Đó chính là phải giữ Giới. Chỉ khi nào quý vị có thể giữ giới thì quý vị mới có thể định lại được; chỉ khi quý vị giữ giới thì quý vị mới có được trí tuệ. Lục Tổ kết hợp Định và Tuệ thành một để tu hành dựa trên nền tảng của giới luật. Thiền tu tạo ra trí tuệ như như bất động. Bề ngoài, có vẻ như như bất động, nhưng thực chất, trí tuệ bên trong giống như thủy triều cuồn cuộn, làm khuấy động trí tuệ Bát nhã vô tận trong lòng. Mọi người thử nghĩ xem, không có trí tuệ Bát nhã có thể tu tâm được không? Để thực hành được như như bất động là dựa vào trí tuệ mới có thể làm cho quý vị như như bất động. Người không có trí tuệ thì động đậy khắp nơi – nghĩa là thân thể họ đang chuyển động, tâm trí họ đang chuyển động, miệng họ đang chuyển động, mắt họ đang chuyển động, tai và tâm trí của họ cũng đang chuyển động. Họ rời bỏ trí tuệ Bát nhã bất cứ lúc nào. Phàm phu tục tử không thể đạt được Nhất Hành Tam Muội và Nhất Tướng Tam Muội vì tâm của họ bị dục vọng khống chế mỗi ngày, nên họ không có cách nào bài trừ yêu ghét cùng lấy hay bỏ của chính mình. Chỉ khi người học Phật thực sự quan tâm đến người khác hơn là bản thân mình thì đó mới đích thực là tu dưỡng công phu.

Mọi người phải luôn nghĩ rằng tất cả những điều chúng ta gặp trong đời này, dù là như ý hay bất như ý, đều là một loại thử thách đối với những người học Phật như chúng ta, và là kết quả của nghiệp mà chúng ta đã tạo ra từ vô thủy kiếp. Hãy suy nghĩ xem, nỗi khổ hôm nay chẳng phải là nghiệp chướng của kiếp trước sao? Quả ngọt của đời này chẳng phải là kết quả của những việc làm thiện ở đời trước sao? Vậy nên trên thế gian này, khi có tai họa và khó khăn ập đến, chúng ta phải học cách chấp nhận chúng mà không oán không hận. Trước hết, chúng ta có thể tiếp nhận nó và nên hiểu rằng tất cả đều do chính chúng ta gây ra, những đau khổ và hạnh phúc ở đời này đều do nhân của đời trước gây ra. Giống như một ngọn núi lớn, làm sao nó lại trở thành một ngọn núi lớn? Đó là sự tích tụ của bùn đất và đá chồng chất quanh năm. Một ngọn núi do chính chúng ta tự mình chất lên – đó là ngọn núi nghiệp chướng, nó cản trở chúng ta tu tâm tu hành nơi cõi người. Học cách chấp nhận sự tồn tại của nghiệp chướng cũng như chấp nhận “ngọn núi” này. Sự tồn tại của nghiệp chướng là điều tất yếu, nhưng những người học Phật như chúng ta phải tìm mọi cách để từ từ đào bỏ “ngọn núi” này. Muốn khai quật nó, trước hết trong tâm phải thừa nhận nó, và tin tưởng rằng “sẽ có một ngày núi nghiệp chướng này được đào bỏ”. Quý vị nghĩ xem ai mà không có nghiệp chướng? Tại sao nhiều người mắc chứng tự kỷ lại có cảm giác xấu hổ và luôn cảm thấy nhân cách của mình thấp kém hơn người khi nhìn thấy người khác? Bởi vì họ có nghiệp chướng, và nghiệp chướng của họ chồng chất lên người họ, khi họ nhìn thấy người khác cảm thấy bản thân xấu hổ, điều này không thể chấp nhận thử thách, điều kia không thể chấp nhận thử thách, khi gặp phải cảm xúc nhân gian, khi gặp phải cảnh giới nhân gian, ngay lập tức bị rối loạn.

Sư phụ nói với mọi người, phải thừa nhận rằng mọi người đều có nghiệp trong tâm. Khi quý vị nhìn vào tất cả mọi người, đừng nhìn họ nổi tiếng, giàu có và may mắn như thế nào mà chỉ cần nghĩ và thấy rằng họ đã tạo nghiệp tốt và xấu trong những kiếp trước giống như chúng ta, quý vị liền hiểu được kiếp này. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên, chỉ cần quý vị tu tâm cho tốt và trau dồi thiện nghiệp ở kiếp này, thì khi tái thế quý vị sẽ giống như họ. Chẳng phải điều này sẽ loại bỏ được nỗi kinh hoàng và sợ hãi trong lòng quý vị rồi sao? Cần sĩ diện gì? Ai cũng như nhau. Điều đáng sợ nhất là nhiều người không thừa nhận mình có nghiệp, không nhìn thấy nghiệp của chính mình. Họ luôn cho rằng người khác sai còn bản thân họ đúng. Vô minh từ vô thủy kiếp tới nay, họ không những không phát hiện được nghiệp chướng của mình và đào bới phiền não của mình, mà ngược lại họ càng chất chồng thêm cộng nghiệp, chúng nghiệp, nghiệp của chính mình lên núi nghiệp đó, cái được nhiều hơn cái mất. Cũng giống như nhiều người, càng có được ít thì càng gây sự, càng gây sự thì càng không có được, càng có được ít thì càng gây sự… Cứ như vậy sống trong đống nghiệp chướng, khiến chúng ta phải liên tục chấp nhận những tư tưởng mà bản thân và cả người khác không thể chấp nhận được, chúng ta đào bới những đau khổ trong cuộc đời đầy những khổ đau, rồi lại tích lũy thêm những khối nghiệp chướng mà đáng lẽ ra chúng ta không nên có. Cứ như thế, nghiệp chướng của chúng ta lại to nặng như núi.

 

Tập 94
QUẢNG BỐ VÔ THƯỜNG TƯỞNG
(Truyền bá rộng rãi về tư tưởng vô thường)

(27/06/2020)

Người thực sự có trí tuệ phải hiểu được, mọi nỗi khổ đau day dứt gặp phải trên đời này đều là do sự biểu hiện nhất thời của nhân quả. Bởi vì sao? Đó cũng là khái niệm về thời gian, bởi vì quý vị đã không cẩn thận, bởi vì quý vị đã làm việc này, bởi vì quý vị đã làm việc này vào thời điểm này, nên mới hiện ra rõ quả báo này. Vì vậy sự hiển hiện của quý vị chỉ là một sát na, quý vị đạt được cũng là một sát na, quý vị mất đi cũng là một sát na, toàn bộ đều phải gánh chịu báo ứng.

Phải không lo, không hỷ, không sợ. Thế nào là không lo? Sống trên thế gian này biết nhân quả, sẽ không lo lắng, không trồng Nhân, sẽ không phải hứng chịu hậu Quả. Không hỷ, không có gì để vui, bởi vì hết thảy đều sẽ qua đi, cho nên vui cũng chỉ là tạm thời. “Tôi không có gì phải sợ, vì những gì tôi sợ thì nó cũng sẽ qua đi.” Đây chính là hai chữ mà người học Phật chúng ta thường nói đến, đó gọi là tùy duyên.

Người học Phật phải buông bỏ chấp trước và đừng cầu xin điều gì. Có gì mà phải bám chấp? Vì một câu nói, vì một động tác, vì lo âu, mà bám chấp vào nó không buông xuống được. Chấp trước: “Chấp” là cầm nó lên, “trước” là không ngừng nhìn nó. Vậy nên chúng ta thường nói “tập trung vào một sự việc nào đó”, nếu quý vị cứ ôm lấy phiền não hay nghiệp chướng không ngừng cầm lên và dán mắt nhìn chằm chằm vào nó, thì quý vị sẽ có điều mong cầu, tâm tùy duyên của quý vị sẽ hoàn toàn bị dục vọng phá hủy. Vì thế phải loại bỏ mọi tâm mong cầu, “Bất luận dục vọng gì tôi cũng không được có tham muốn nào cả”, bởi vì tất cả dục vọng đều sẽ mang đến cho quý vị tâm không tùy duyên, “Tôi không cầu gì, tôi buông bỏ mọi cố chấp của mình”. Chúng ta phải hiểu được có cầu chính là nguồn gốc của khổ đau phiền não, nếu không cầu thì khổ ở đâu ra? Tùy duyên chính là nguồn gốc của thoát ly lục đạo luân hồi. Vì vậy nếu quý vị có thể tùy duyên, tức là để cho bản thân hết thảy tự nhiên đến, tự nhiên đi, không có mong cầu gì. Đây là con đường dẫn đến giải thoát mà Đức Phật đã dạy. Đức Phật đã từng dạy với chúng ta về con đường giải thoát – người nào không có dục vọng thì tự nhiên được giải thoát, đó là phương châm của Sư phụ “Vô dục tâm tự nhiên như nước”.

Mỗi người chúng ta phải hiểu rằng khi thân tướng thanh tịnh và tâm thái thuần khiết thì nhân cách của người đó sẽ thăng hoa. Chúng ta dựa vào gì để phân biệt hai người khác nhau? Đó chính là dựa vào nhân cách-phẩm hạnh giữa họ để phân biệt. Làm sao phân biệt “Nhân Cách” của một ai đó cao hay thấp? Quý vị có biết “sách” trong thư viện sắp xếp ra sao không? Đó là theo từng ô, từng ô khác nhau theo các quy chuẩn khác nhau. Như vậy hôm nay Tâm quý vị đang đặt ở vị trí ô nào? Tâm quý vị thuộc về quy cách cao, quy cách trung bình, hay quy cách thấp, chính là dựa vào quy chuẩn đặt ra trong cái ô này? Nếu quý vị biết tu dưỡng tâm hồn, làm thanh sạch thân tâm khỏi những thú vui thấp kém tức là người có nhân phẩm trung bình. Nếu quý vị có thể mang những điều trong quá trình tu dưỡng và làm thanh sạch bản thân đi hướng dẫn mọi người và nhờ điều đó giúp đỡ người khác thoát khỏi khổ đau thì quý vị chính là người có nhân cách cao, đương nhiên phẩm hạnh của quý vị cũng cao. Quý vị cũng thấy có nhiều người lợi dụng và kiếm tiền từ người khác, nhất là kiếm tiền từ bạn bè, người thân. Những người này tất nhiên nhân cách sẽ rất thấp và phẩm hạnh cũng bị suy giảm nhiều. Làm thế nào để có thể nâng cao phẩm hạnh của chính mình? Đó là phải tiếp cận giáo lý của Phật Pháp! Tiếp cận những bậc hành giả ,những vị cư sĩ miên mật tu hạnh Phật, hạnh Bồ Tát hơn nữa những vị này phải luôn luôn thực hành quán chiếu bản thân theo như phẩm hạnh của Phật, Bồ Tát mà các vị ấy đang tu. Tất cả những điều này gọi là “Pháp Hành”. Người thường xuyên thực hành Pháp này và luôn luôn quán sát sẽ hiểu được “Tứ hạnh quán” là gì? Quý vị có làm gì thì cũng cần quán chiếu mọi việc sâu sắc thì mới có thể làm cho tốt cũng như viên mãn được. Muốn chấm dứt sanh-tử khổ đau, quý vị phải nỗ lực tiến tu nhận diện và chuyển hóa hết vô minh phiền não, có thế thì mới mong thành tựu được Phật quả

Một lần, Đức Phật du hóa đến vương quốc Kiều Tát La, thủ đô của thành Xá Vệ, Đức Phật sống trong vườn xoài của một Bà-la-môn tên là Đề-bà-đạt-đa, Tôn giả Upamana là thị giả của Đức Phật và chăm sóc Đức Phật. Lúc bấy giờ, Đức Phật bị cảm nhẹ, dẫn đến đau lưng (trước kia Đức Phật cũng mắc bệnh này), nên Đức Phật tìm Tôn giả Upamana và nói với Tôn giả: “Này Upamana, tôi bị cảm lạnh và dẫn đến bị đau lưng. Xin ông hãy mặc áo khoác vào và cầm bát khất thực đến nhà Bà-la-môn Đề-bà-đạt-đa xin cho tôi chút nước nóng.”

“Dạ được, thưa Đức Thế Tôn.”

Tôn giả Upamana đến nhà Bà-la-môn Đề-bà-đạt-đa, nhẹ nhàng gõ cửa rồi đứng ở cửa.

Lúc này, Bà-la-môn Đề-bà-đạt-đa đang cắt tóc trong phòng khách, ông nhìn thấy Tôn giả Upamana đang đứng ở cửa liền hỏi: “Này vị sư mặc áo cà sa đứng ở ngoài cửa kia, Ngài đang đứng im lặng ngoài cửa, là đang muốn xin gì phải không?”

Tôn giả Upamana trả lời: có “Bậc A-la-hán, Thiện Thệ sống ở vườn xoài bị phong hàn, đau lưng dữ dội. Ông có nước nóng hay thuốc men trị liệu gì có thể bố thí không?” Tôn giả hỏi vị Bà-la-môn.

Nghe Tôn giả Upamana nói, Bà-la-môn Đề-bà-đạt-đa đưa cho ông một bát đầy bánh ngọt, một chai dầu và một chai mật ong đá rồi nhờ người khác bưng nước nóng đi theo Tôn giả Upamana đến nơi ở của Thế Tôn. Tôn giả Upamana xức dầu lên thân Đức Phật, rồi rửa bằng nước nóng tiếp đó cho Đức Phật uống mật ong pha nước ấm. Với cách chữa trị này, chứng phong hàn và đau lưng của Đức Thế Tôn đã thuyên giảm.

Sáng sớm hôm sau, Bà-la-môn Đề-bà-đạt-đa đến viếng Đức Phật. Sau một phen ân cần thăm hỏi hàn huyên, Đức Phật liền hỏi: “Này các Bà-la-môn, các ông thực hành Pháp Bà-la-môn như thế nào? Ví dụ, bố thí cho người nào có thể đạt được đại quả báo? Bố thí vào thời điểm nào và bố thí cái gì, mới là phúc điền thù thắng?” (Quý vị xem Đức Phật khiêm tốn không? Ngài vẫn hỏi ý kiến các vị ​​Bà-la-môn.)

“Thưa Cù Đàm (thời đó Bà-là-môn đều gọi Đức Phật là Cù Đàm, tức là cách xưng hô với Đức Phật). Vị Thánh thành tựu nhất trong số những người Bà-la-môn chúng ta được gọi là Tam minh Bà-la-môn. Để trở thành Tam minh Bà-la-môn, cần có ba điều kiện: Thứ nhất, là một người thầy tốt có rất nhiều về kiến ​​thức và tri thức sẽ cho mọi người chánh tín chánh niệm; Thứ hai, có dòng máu Bà-la-môn thuần khiết; Thứ ba, tướng mạo đoan trang (quý vị hãy nhìn xem, trong xã hội nếu nhìn thấy một người có tướng mạo không đoan trang cho lắm thì sẽ cảm thấy trong lòng họ có tà niệm). Vậy nên người có thể bố thí Tam Minh Bà-la-môn thì có thể nhận được quả báo lớn, và bố thí cơm ăn, áo mặc bất cứ lúc nào chính là phước điền thù thắng nhất.”

Sau đó, Đề-bà-đạt-đa hỏi ngược lại Phật Đà: “Thưa Cù Đàm, Ngài nghĩ như thế nào mới là Bà-la-môn chân chính? Như thế nào mới là thành tựu Tam minh? Bố thí cho người nào để có thể đạt được quả báo lớn? Như thế nào mới là thời cơ thích hợp để bố thí? Bố thí như thế nào mới là phước điền thù thắng?”

Đức Phật nói: “Này Bà-la-môn, người thiện tri giải thoát, người có thể giải thoát tất cả tham, mới là Bà-la-môn chân chính (nghĩa là Phật Đà nói cho ông ấy biết, một người không tham chính là Bà-la-môn chân chính), người có được túc mệnh thông suốt ba đời (nếu người này có thể hiểu được kiếp trước, kiếp này và kiếp sau, có thể hiểu được những đạo lý này chính là túc mệnh thông), người có thể thấy được thiên nhãn thông của tất cả các chúng sinh (có thể biết được tất cả mọi thứ của tất cả chúng sinh ngày nay, niềm vui của quý vị hôm nay, nỗi buồn của quý vị hôm nay, phiền não của ngày hôm nay và hạnh phúc của ngày hôm nay, đều có thể nhìn rõ nhìn thấu, chính là người có được thiên nhãn thông), người lậu tận thông có thể đoạn hết phiền não (một người có thể đoạn hết phiền não, tức là người có thể loại bỏ hết tất cả phiền não. Chúng ta không cần phiền não, không sợ hãi, chúng ta không cần những thứ không phải là một phần năng lượng tích cực mà chúng ta nên có. Con người không nên có phiền não, không nên có bi thương, không nên khóc lóc, mà mỗi ngày nên sống trong tiếng cười. Tuy nhiên, con người chúng ta mỗi ngày đều mang trên mình đủ mọi khổ nạn. Những phiền muộn, ưu thương và thống khổ hàng ngày khiến chúng ta không thể tìm được cửa về nhà. Vậy nên chúng ta không thể trở thành người có được lậu tận thông), tức là bậc Thánh nhân đã đạt được Tam minh. (Nói cách khác, có thể dứt bỏ. Có được thiên nhãn thông, túc mệnh thông, quý vị chính là một vị Thánh giả. Thực ra dùng ngôn từ hiện tại mà nói, người có thể nhìn xa, nhìn thấu và người có thể buông bỏ, thì họ chính là siêu nhân và là một vị Thánh nhân.) Quý vị có thể bố thí cho một vị Thánh giả như vậy bất cứ lúc nào, đó là quả báo lớn nhất và là phúc điền thù thắng nhất. Nói cách khác, ngày nay có thể ở cùng với Thánh nhân và có thể hiểu được những điều này, nghĩa là quý vị đã có được vô thượng Quang minh Bồ Đề. Vì vậy, ai gần gũi với trí tuệ và trí tuệ Bát nhã đều có thể học hỏi thêm, thấy nhiều hơn, hiểu biết nhiều hơn, học cách buông bỏ và nghĩ đến vô thường, bởi vì trên thế gian này hết thảy đều là vô thường. Quý vị thường nghĩ rằng “Những gì tôi có hôm nay sẽ mang lại cho tôi sự mất mát vào ngày mai, và những gì tôi mất mát hôm nay sẽ mang lại những gì tôi có được trong tương lai”.

Đức Phật thường hoằng hóa cho chúng sinh ở vườn Kỳ Thụ Cấp Cô Độc. Có lần Ngài dạy các vị Tỳ kheo: “Này các Tỳ kheo, các ông nên suy nghĩ về tính vô thường của tất cả các pháp, và truyền bá rộng rãi ý tưởng về vô thường (tức là Đức Phật dạy cho chúng ta: Này các hài tử, các đệ tử, các con phải luôn nghĩ rằng mọi vật trong thế giới này đều sẽ qua đi, mọi thứ đều vô thường và không tồn tại lâu dài, vì thế hãy nghĩ về vô thường). Nếu đã suy nghĩ về nó và truyền bá rộng rãi tư tưởng về vô thường, thì các con có thể cắt đứt được tham ái của mình về cõi dục.”

Điều Đức Phật đã nói với các đệ tử của Ngài là thế này: Nếu tâm quý vị luôn tràn ngập những ý nghĩ vô thường, quý vị có thể cắt đứt được sự tham ái trong cõi dục. Mọi người hãy thử nghĩ xem, có phải như thế này không? Chúng ta yêu thích một thứ gì đó, nhưng thật ra sau khi chúng ta yêu thích thì nó lại mất đi, thứ như thế này “Tôi muốn”, khi đòi cho bằng được về nhà thì lại đặt nó ở đó, thứ kia “Tôi cũng muốn”, khi lấy về lại để đó và nó sẽ biến mất, bởi vì khi muốn được rồi, thì bước tiếp theo là vứt nó đi, hoặc cho đi, hoặc là bị hỏng. Vì thế, người nghĩ đến vô thường, thì họ sẽ không tham lam mà đem cho người khác, không quan trọng nữa. Cho nên có rất nhiều nam, nữ xinh đẹp, họ chỉ có một loại tham niệm mà thôi. Sư phụ muốn đưa ra ví dụ cho mọi người: Nếu một người đàn ông đẹp trai, anh ta hy vọng rằng tất cả các cô gái ở trước mặt anh ta sẽ chú ý đến anh ta để thỏa mãn lòng tự trọng của anh ta; Nếu có một cô gái trông tương đối xinh đẹp, cô ấy hy vọng rằng tất cả các chàng trai sẽ chú ý đến cô ấy. Tốt nhất là hãy để mắt đến cô ấy và theo đuổi cô ấy. Đây là một loại tham ái, theo thời gian sẽ trở thành thói quen, chỉ cần có người không nhìn cô ta, thì cô ta sẽ lập tức trở nên không vui.

Vì vậy, lời dạy của Đức Phật cách đây 2500 năm đã dạy chúng ta điều chúng ta nên chú ý đến ở nhân gian là gì – chúng ta nên buông bỏ những phiền não trong lòng và cắt đứt sự dính mắc của mình vào các cõi Sắc và Vô sắc. Nghĩa là ở cõi người, thực ra chúng ta cũng có cõi Sắc và cõi Vô sắc. Hãy suy nghĩ mà xem, ở nhân gian có một số người sống rất hạnh phúc. Họ muốn thứ gì có thứ đó, họ muốn mua bất cứ thứ gì họ muốn, cần có thứ gì liền có ngay. Đây chẳng phải họ đang sống trong cõi Sắc giới rồi sao? Tưởng tượng đến thứ gì họ liền có thể có được thứ đó, họ đã sống trong cõi trời Vô sắc rồi. Khi ấy, Đức Phật yêu cầu tất cả chúng sinh hãy diệt trừ vô minh. Những sở hữu này đều đi kèm với vô thường, phải luôn luôn nghĩ đến vô thường. Nếu quý vị coi điều này như vật sở hữu vĩnh viễn của mình, thì quý vị sẽ có vô minh – tức là không hiểu biết.

Sự kiêu ngạo sẽ dẫn đến phiền não. Nhiều người cảm thấy rằng họ có thể coi thường người khác và cảm thấy mình cao quý hơn người khác một khi họ đã có danh có lợi và kiếm được nhiều tiền, điều này sẽ dẫn đến phiền não. Nếu một số người không tôn trọng người khác, họ sẽ đánh mất sự tôn trọng của người khác đối với họ và điều này sẽ dẫn đến phiền não; lòng kiêu hãnh của chính mình sẽ khiến người khác coi thường, điều này lại làm tăng thêm phiền não.

Tam minh là trí tuệ của một vị đã chứng Thánh Quả A La Hán. Sau khi tịnh chỉ hơi thở, nhập Tứ thiền thì người đó hướng tâm đến Tam minh. Tam minh là thành tựu cuối cùng của bậc đã chứng Thánh Quả A La Hán. Khi đã có Tam minh thì người đó đã hoàn tất việc tu tập của mình: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa” (trích Trung Bộ Kinh).

* Túc mạng minh: tuệ giác sáng suốt biết rõ các kiếp sống đã qua của mình và của tất cả chúng sinh.

* Thiên nhãn minh: tuệ giác sáng suốt biết rõ các kiếp sống tương lai của mình và của tất cả chúng sinh diễn biến sinh diệt như thế nào.

* Lậu tận minh: tuệ giác sáng suốt nhận biết nguồn gốc sinh ra lậu tận hoặc phiền não và đau khổ và các pháp giúp đoạn trừ lậu hoặc, phiền não và đau khổ của mình và của tất cả chúng sinh để giải thoát.

Tam minh xuất hiện cùng với Lục thông.

 

Tập 95
TRIỆT NGỘ LÀ QUÁN VÔ THƯỜNG

(27/06/2020)

Có một số người không tôn trọng người khác, sẽ mất đi sự tôn kính của người khác đối với mình, vì thế họ mới sinh ra phiền não. Lòng kiêu hãnh của chính họ sẽ khiến người khác coi thường, điều này sẽ làm tăng thêm phiền não cho họ. Có một nhạc sĩ rất nổi tiếng, từng nhìn thấy một người phụ nữ ăn mặc rất đẹp trong một bữa tiệc và thản nhiên nói một câu: “Này cô gái, cô thật là xinh đẹp”. Không nghĩ rằng người phụ nữ này lại vô cùng tự hào, mắt không thèm nhìn ông, liền đáp: “Thành thật xin lỗi, thưa ông, tôi không thể khen ngợi ông bằng những lời tương tự”. Nào ngờ sự kiêu ngạo của cô gái ấy đã khiến người nhạc sĩ này phản bác, người nhạc sĩ này rất hài hước đáp lại: “Này cô, xin cô hãy nhớ, cô cũng có thể dùng sự hài hước tương tự để nói điều này với tôi.” Cũng có nghĩa là “Tôi khen cô xinh đẹp không phải là thật, mà là tôi nói đùa”. Một khi quý vị không tôn trọng người khác, thì người khác làm sao có thể tôn trọng quý vị? Sự kiêu ngạo trong nội tâm của quý vị sẽ đốt cháy Phật tánh và trí tuệ trong tâm quý vị. Vì thế, nhiều người không có trí tuệ nên họ mới tự hào, và người tự hào thì nhất định sẽ không có trí tuệ. Sư phụ nói với mọi người, diệt tận phiền não trong tâm là dựa vào trí tuệ, đốt hết u buồn trong tâm cũng là dựa vào trí tuệ Bát Nhã. Một người có thể đoạn tuyệt tất cả tham ái, họ liền có cơ sở để loại bỏ kiêu ngạo và loại bỏ ngạo mạn. Tham ái là do thiếu hiểu biết về tính vô thường của tất cả các pháp trên thế gian này.

Đức Phật nói, tại sao người tu Quán vô thường (tức là quán chiếu được tự tính vô thường của vạn vật) lại có thể đoạn tuyệt được chấp trước tham ái đối với cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới? Điều đó có nghĩa là Phật Đà nói cho chúng ta biết, quý vị thường xuyên tu Quán vô thường (tức là thế giới này là vô thường, hôm nay có, ngày mai không, hết thảy đều sẽ qua đi), nó có thể đoạn tận được tham ái chấp trước đối với cõi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, vĩnh viễn loại bỏ được vô minh và kiêu mạn. Bởi vì khi tu Quán vô thường, trong tâm quý vị sẽ không có tham ái và chấp trước. Thầy đưa ra một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị làm một chức vụ chủ tịch, và quý vị muốn ở vị trí này mãi mãi, bởi vì quý vị cảm thấy “nó là của tôi”. Nếu hôm nay quý vị trở thành chủ tịch, quý vị biết rằng “Sẽ sớm thôi, trước sau gì tôi cũng bị thay thế”, thì quý vị sẽ không tham ái cái chức vụ này và cũng không bám víu vào những gì quý vị có được ngày hôm nay. Nếu trong tâm quý vị không có dục vọng thì có thể khéo phân biệt được các pháp, quý vị có thể biết được cái gì có thể làm, cái gì không thể làm, cái gì có thể dùng, cái gì không thể tham, quý vị liền tiến thêm một bước hiểu được tư duy và nghĩa lý của Phật pháp. Tại sao nhiều người lại lo lắng? Bởi vì họ cảm thấy “Tôi đang đau khổ, tôi phải làm gì với rắc rối này?”, và họ không nhìn thấy được sự vô thường. Rất nhiều người phiền não, bởi vì họ cảm thấy nỗi lo này sẽ luôn kéo dài. Quý vị hãy nghĩ về những nỗi lo của chúng ta khi còn nhỏ, bây giờ có còn nữa không? Rất nhiều người buồn rầu, họ cảm thấy “Cả đời tôi luôn khổ như vậy”. Vậy tại sao không nghĩ đến ngày mình sẽ đổi đời? Quý vị sẽ mãi mãi khổ sở như vậy sao? Điều này có nghĩa là quý vị chưa hiểu được nghĩa lý các pháp trong tư duy của Phật giáo. Có khả năng suy nghĩ theo chiều hướng tốt về bản chất của mọi pháp, nói cách khác, quý vị thường sử dụng năng lượng tích cực của mình để nghĩ, “Chuyện này tuy rằng gần đây không thuận lợi, nhưng nó cũng giúp tôi biết được càng nhiều phương pháp để làm tốt chuyện này, và học được rất nhiều tri thức, tôi có thể tiếp tục cố gắng hơn nữa vào lần sau”, bởi vì quý vị hiểu được yếu nghĩa (nội dung và ý nghĩa) của các pháp, có tiến bộ trong nhận thức và hiểu được nhiều điều ở nhân gian, thì quý vị mới không sinh ra ngu muội. Những hành vi sai trái đảo lộn chính là vì chấp trước và dục vọng của quý vị tạo nên.

Ý tưởng của nhiều người không ngừng thay đổi, cũng như ý niệm của họ đang thay đổi và lý luận của họ cũng đang thay đổi. Đức Phật đã từng khai thị: Bởi vì các bậc hiền sĩ này không tu tập Quán vô thường và không truyền bá Quán vô thường, nên không hiểu được nguyên lý vô thường của các pháp. Vì vậy mới có phát sinh đấu tụng (dịch lại theo cách nói văn chương gọi đó là “đấu tụng”, thực ra theo cách nói ngày nay, đó là một cuộc tranh đấu). Khi tranh luận với nhau, họ không thể nhìn ra được nghĩa lý chân thật (những người không nhìn rõ con đường phía trước thì họ không thể nhìn thấy được mục tiêu của mình) nhất định họ sẽ có tâm mê hoặc (những người không hiểu được nghĩa lý chân thật của đạo Phật, họ sẽ cảm thấy đạo Phật là hư vô mờ ảo. Nhiều người học Phật học càng về sau, họ nghĩ: “Vốn dĩ đã có kiếp sau, vốn dĩ phải nhìn thấu nó, vốn dĩ phải buông bỏ, vậy thì đơn giản con người ta cũng không nên sống nữa”, đây chính là một loại mê hoặc), và sự mê hoặc này một khi xuất hiện trong suy nghĩ của con người, thì họ sẽ chấp vào sự mê hoặc này (tức là họ sẽ luôn bám chấp vào trong sự mê hoặc ấy). Hãy nghĩ xem, đó là một con đường không bằng phẳng nếu quý vị đi sai đường và liên tục đi sai vào con đường đó, điều mà quý vị tạo ra là sự mê hoặc và điên đảo – tức là ngu muội, mê hoặc và đảo lộn). Đây là lý do tại sao có những người khi còn sống họ không tìm được con đường tu tập cho riêng mình, sau khi chết sẽ đọa lạc vào ba đường ác ngạ quỷ, súc sinh và địa ngục.

Nếu không muốn đọa địa ngục thì phải tu Quán vô thường. Nhìn thế giới này không có gì có thể tồn tại được lâu dài. Nếu truyền bá rộng rãi ý tưởng về vô thường, trong đầu thường nghĩ về vô thường, giúp đỡ người khác cũng thường truyền đạt với họ về ý tưởng vô thường, thì quý vị mới có khả năng thuyết phục được người khác. Lấy một ví dụ đơn giản, người này bị lừa tiền, quý vị hãy nói với họ rằng: “Bạn đừng suy nghĩ nhiều nữa, tiền vẫn có thể kiếm được. Sức khỏe của bạn quan trọng hơn. Nếu bạn không có sức khỏe thì sau này làm sao kiếm được tiền?” Quý vị nói với họ nếu mất tiền vẫn có thể kiếm lại được. Đó chính là quý vị đã truyền bá về tư tưởng vô thường và hết thảy đều là vô thường. Nếu hôm nay bạn bị lừa, sức khỏe không tốt lại đau buồn tột độ, điều đó sẽ gây thêm phiền não cho bạn, chẳng hạn như sức khỏe không tốt, tim mạch không tốt hoặc bạn đang tranh chấp với người khác và mời luật sư, thì không phải là bạn đã tạo thêm phiền não cho bản thân rồi sao? Hơn nữa trong tâm sẽ thường nảy sinh ý nghĩ sân hận hoặc ngu muội, chẳng hạn như “Tôi không muốn sống nữa”. Đây là lý do tại sao nhiều người tự tử vì họ không biết nghĩ đến Vô thường. Vậy nên, những người thực sự có trí tuệ họ thường nghĩ rằng không có gì là không thay đổi và mọi thứ trên thế gian này đều sẽ thay đổi. Nếu quý vị khéo quán nhân duyên, quán tất cả các pháp và quán ý nghĩa vi diệu của chúng, thì quý vị sẽ hiểu được đời là vô thường, rằng tất cả các pháp đều vô ngã và mọi hành động đều vô thường. Nếu quý vị tu tập như vậy, sau khi mệnh chung mới có thể đi vào ba cõi thiện, mới có thể sinh lên thượng thiên, cõi người và cõi A-tu-la. Người biết nghĩ thấu đáo, họ sẽ dễ dàng tìm được con đường Niết-bàn. Khi con người chúng ta ra đi gọi là Niết-bàn; khi chúng ta đã suy nghĩ thấu đáo và hiểu rõ: “Trên thế giới này, lộ trình của tôi đã đi hết, tôi cũng đã buông bỏ”, vậy thì đã đạt đến Niết-bàn. Bởi vì điều này là vô thường và sẽ không bao giờ cho quý vị có được bất cứ thứ gì trên thế gian này. “Vậy nên, này các Tỳ-kheo, các ông nên học theo cách này.” Đức Phật nói rất khiêm tốn, là nên học theo cách này. Hy vọng mọi người phải thật sự tu sửa cho thật tốt. Khi ấy, chư vị Tỳ-kheo nghe được lời khai thị của Đức Phật đều cảm thấy vui mừng và tuân theo lời dạy.

Sự vô thường của vạn vật chính là quy luật sinh tử (biết vạn vật trên đời này đều vô thường nghĩa là hiểu được quy luật sinh tử). “Sinh diệt diệt kỷ, tịch diệt vi lạc”, nghĩa là khi cả cái sinh và cái diệt đều đã bị diệt rồi thì lúc bấy giờ, sự tịch diệt, sự vắng lặng đó chính là niềm vui chân thật. Tịch diệt vi lạc là Niết Bàn. Niết Bàn mới là niềm vui rốt ráo. Muốn được Niết Bàn thì phải sinh diệt diệt kỷ, tức là đối với các Pháp ta phải nhìn là nó biến hóa vô cùng. Hạnh phúc của con người nằm ở đâu? Một khi đã nghĩ thông, đã nghĩ minh bạch, đã suy nghĩ thấu đáo mọi chuyện và đã nhìn thấu nó thì sẽ hiểu được quy luật sinh tử. Vì sự bám chấp và đảo ngược trong nỗi đau khổ lớn lao của luân hồi trong ba cõi, nên tất cả chúng sinh đều vui thú với những đau khổ nhỏ nhặt của ngũ dục và các cõi trần tục khác (Hãy nhìn xem nhiều người đã kiếm được một số tiền sau một ngày bận rộn, họ hạnh phúc vô cùng. Đây chính là “lấy nỗi khổ nhỏ làm niềm vui”, họ không cảm thấy đau khổ mà ngược lại cảm thấy “cũng khá hạnh phúc”. Con người chúng ta thường muốn chiếm đoạt ưu thế nhiều hơn người khác, và họ cảm thấy “cũng khá vui đấy” nếu kiếm được thêm tiền của người khác thì “khá vui”. Lấy khổ đau nhỏ làm hạnh phúc nên một khi vô thường đến, sẽ tùy theo nghiệp lực của bản thân mà bị báo ứng. (Một số doanh nghiệp nhỏ mỗi ngày làm rất nhiều việc sai trái. Họ cảm thấy rất vui khi kiếm được nhiều tiền hơn từ khách hàng và lừa gạt được người ta một ít tiền; một khi nghiệp chướng bùng phát, bị các cơ quan chức năng điều tra và bị phạt, với mức phạt hàng trăm nghìn. Lúc này, họ đem số tiền 2 đồng, 4 đồng, 6 đồng mà họ kiếm được từ người khác dồn hết vào để nộp phạt. Tất cả niềm hạnh phúc nhỏ đấy đều tích tụ hết vào nỗi đau lớn), vô thường đã đến, và rồi cùng với nghiệp báo này họ sẽ lại tiếp tục trôi vào biển khổ sinh tử.

Vô thường có thể đến bất cứ lúc nào. Mong rằng người học Phật chúng ta hãy tinh tấn thực hành lời Phật dạy. Đức Phật dạy chúng ta tinh tấn tu tập Quán pháp vô thường. Khi quý vị cãi nhau hãy nghĩ: “Sẽ không lâu đâu, cãi nhau xong sẽ hết thôi”; khi không vui hãy nghĩ “Sau một thời gian nữa mình lại cười như một kẻ ngốc, sao bây giờ mình lại buồn làm gì? Có gì mà có thể làm cho mình nghĩ không thông? Thế là quý vị đã đạt đến thuyết vô thường của vạn vật. Thực ra, mọi chuyện đều ở thì quá khứ, chuyện gì cũng sẽ qua, quá khứ bất khả đắc, biết rằng không thể có được, tại sao quý vị vẫn cố níu kéo quá khứ mà không buông bỏ. Nhiều người vừa mở miệng là nói về chuyện của người khác và nói về quá khứ của chính họ. Nói về quá khứ của người khác sẽ làm tăng thêm hận thù, nói về quá khứ của mình sẽ làm tăng thêm sự thiếu hiểu biết; nói về tương lai của mình và tương lai của người khác sẽ làm tăng thêm sự kiêu ngạo. Đây là những điều mà nhân gian chúng ta cần khắc phục và cần buông bỏ điên đảo mộng tưởng.

Trong cuộc sống hàng ngày, con người thường: “Ngày mai tôi cần làm gì? Ngày mốt tôi cần làm gì? Và họ cảm thấy thật hạnh phúc. Chúng ta đã từng có được hạnh phúc, và khi còn nhỏ chúng ta cũng từng rất hạnh phúc, nhưng mọi chuyện rồi cũng sẽ qua – nghĩa là phải biết Quán vô thường. Vậy nên, chúng ta phải chuyển hóa “tam độc” tham, sân, si trong lòng. Có Chánh tri Chánh kiến ​​và thực sự quán chiếu cái tâm của mình. Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo” ý nói: Người quân tử coi trọng của cải nhưng phải lấy sao cho đúng đạo lý. Điều này là muốn nói với mọi người rằng hôm nay tôi sẽ kiếm những gì tôi nên kiếm, còn những gì không nên kiếm thì tôi không kiếm. Bằng không, tiền mà tôi kiếm được đó là đồng tiền bất chính. Tu hành như thực, có nghĩa là thực hiện những thay đổi thực sự. Phải tiết ngộ chân tâm bất sinh bất diệt, nói cách khác cần phải thực sự hiểu được cái tâm chân thật không sinh không diệt, nghĩa là trong tâm mình cần phải hiểu rõ cái tâm này là tự sinh ra, và cái tâm này cũng có thể tự hủy diệt nó. Vốn dĩ có thể hủy diệt được cái tâm không vui này, vậy tại sao quý vị lại phải sinh ra nó? Vốn dĩ biết được nổi giận cuối cùng cũng vô ích, vậy thì tại sao quý vị phải sinh ra cái tâm ấy? Đấy gọi là tiết ngộ chân tâm bất sinh bất diệt. An trú vào một niệm giải thoát tối thượng bất sinh của mình và không có bất kỳ suy nghĩ nào, thì quý vị sẽ được giải thoát, nếu cái gì cũng muốn, quý vị sẽ bị mắc kẹt trong tham, sân, si, mạn, nghi. Vậy nên, quý vị phải buông bỏ, phải học cách suy nghĩ thấu đáo mọi thứ, và phải học cách buông bỏ mọi thứ. Sự giàu có của con người không phải vì họ có nhiều mà vì nhu cầu của họ rất ít. Một khi quý vị có nhu cầu ít đi, thì quý vị sẽ cảm thấy mình rất giàu có.

Cuộc đời của mỗi con người chúng ta đều đã được trời xanh vẽ lên một điểm khuyết, tức là trên đời này không có việc gì có thể làm được một cách hoàn hảo, nhưng trong tâm của chúng ta phải hoàn hảo, và đừng nên nghĩ đến điều đó, thì chúng ta mới không cắt thêm một nhát dao vào vết thương trong tâm ta một lần nữa. Nếu quý vị không tha thứ cho người khác và không tha thứ cho chúng sinh, thì quý vị đang làm khổ chính mình. Đôi khi chúng ta dành quá nhiều thời gian để tự hỏi việc này nên làm thế nào, việc kia nên làm ra sao. Trên thực tế, trí tuệ thực sự không phải là suy ngẫm mà là thực hành. Nếu một người không thể dùng lòng từ bi trong tâm mình để tha thứ cho người khác, thì họ sẽ không bao giờ cảm thấy an tâm thoải mái được. Tất cả chúng ta đều mắc nợ người và hầu như rất ít người hiểu được điều này. Hãy luôn nghĩ rằng người khác luôn đúng còn bản thân mình luôn sai thì quý vị sẽ không bao giờ gặp phiền não.

Mong rằng mọi người sẽ học Phật tốt, tu tâm tốt, một kiếp tu thành, hiểu đời, không tủi thân mà luôn Quán vô thường, buông bỏ chấp trước. Một mình tu hành thì rất đáng thương. Chỉ khi hòa nhập tâm mình vào tâm chúng sinh, thì quý vị mới có thể giúp tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, và chỉ khi đó quý vị mới có thể leo lên chiếc thuyền Pháp của Phật. Cảm ơn đại chúng.

 

Tập 96
KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT , KHỔ LẠC NIẾT BÀN

(01/07/2020)

Được rồi, hôm nay thầy sẽ tiếp tục giảng với đại chúng về “Bạch Thoại Phật Pháp”.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là vị thầy vĩ đại của chúng ta, đã xuất gia ở tuổi 29, Ngài hoằng pháp và giác ngộ chỉ mới 35 tuổi, khi đó rốt cuộc Ngài ngộ ra được gì? Điều mà Đức Phật chứng ngộ thực ra là “Tánh không duyên khởi”. Chính xác thì chúng ta học Phật là học những gì? Thực ra mục đích học Phật là để cho chúng ta biết:

Tất cả con người và vạn vật trên thế gian đều được sinh ra từ sự hội tụ và phân tán của nhân duyên, sự hòa hợp và hài hòa của nhân duyên sẽ dần dần hội tụ và phân tán. Vô thường là một hiện tượng biến đổi, rằng cho chúng ta hiểu được trên đời này, khi quý vị có được nó, thì đồng nghĩa với sự mất mát sẽ đến.

Tánh không duyên khởi cho chúng ta biết mọi sự xuất hiện của vạn vật ở nhân gian đều sẽ thay đổi. Nhiều khi người ta cho rằng một sự việc không thay đổi nên mới bám chấp vào nó. Bồ Tát dạy chúng ta mỗi một sự việc và mỗi một con người đều sẽ thay đổi bởi vì đây chính là nhân duyên. Từ có tất cả mọi người cuối cùng biến thành không còn ai cả: khi “Duyên khởi”, tức là con người này của quý vị được sinh ra, cuối cùng con người này của quý vị cũng không còn nữa, vậy thì cũng sẽ mất đi. Từ có rất nhiều việc đến không có việc gì: Sự việc này bắt đầu xảy ra và cuối cùng nó biến mất. Từ chỗ ban đầu có chữ “tôi” (sau khi sinh ra quý vị sẽ có tên, tên quý vị là gì? Đây chính là chữ “tôi”), cuối cùng nó trở thành không có “tôi” nữa – Một cái tên không còn nữa. Nó đều tồn tại trong sự biến đổi. Đây là điều mà Bồ Tát dạy chúng ta, khi sống ở thế gian, con người phải hiểu được nhân duyên quả báo của sự vật, bởi vì mọi thứ đều ở trong Tánh không duyên khởi và tồn tại trong quá trình biến đổi. Phật Đà dạy chúng ta rằng không có sự việc nào và không có ai trên thế giới này mà không thay đổi. Ngày nay thế này, ngày mai thế kia, không có ngày nào là không thay đổi, không có sự việc nào mà không thay đổi. Đây là điều mà Phật giáo thường nói đến: khi Duyên khởi rồi, thì Tánh liền trống rỗng; khi Tánh trở nên trống rỗng, thì Duyên lại bắt đầu khởi. Dạy cho chúng ta biết nguyên lý này là để cho chúng ta hiểu được nếu chúng ta có Duyên đến rồi thì chuyện này nhất định sẽ sớm kết thúc vào một ngày nào đó. Cho dù có duyên phận hay không, trên thực tế, chỉ cần có duyên khởi, thì bản tánh của nó cuối cùng sẽ trống rỗng và nhất định sẽ kết thúc. Vì vậy, nhiều người ở thế gian cảm thấy rằng “Tôi đã đạt được vị trí này và tôi có thể tiếp tục ngồi ở vị trí này mãi mãi”, không phải vậy; “Hôm nay tôi đã có được thứ này và tôi có thể có được nó mãi mãi”, cũng không phải vậy. Nhiều thứ trên thế gian này đến cuối cùng nó đều hiển hiện sự trống rỗng.

Vậy nên Phật pháp dạy chúng ta, đối với khổ, vui sướng, thuận cảnh, nghịch cảnh, vinh nhục của nhân gian, không nên nhìn quá chân thật, nó đều sẽ có chuyển biến, nó đều là vô thường. Vì vậy “Kinh Kim Cang” dạy chúng ta hãy xem đó là mộng huyễn bào ảnh, giống như nằm mơ, tỉnh lại thì không thấy đâu nữa, tất cả đều đang trong quá trình biến hóa, nghĩa là nói cho chúng ta biết, tất cả mọi thứ ở nhân gian đều không thể có được. Trong quá khứ, khi quý vị còn trẻ, quý vị đã có rất nhiều thứ mà người khác không có, đã từng làm rất nhiều việc mà người khác không làm được, nhưng tất cả những điều này giống như mộng huyễn bào ảnh, bởi vì dựa theo căn bản mà nói nó chính là vô thường. Tại sao Phật Đà bảo chúng ta là nên Quán vô thường? Thực ra là để cho chúng ta trong tu hành thực tế có thể nhận thức được mọi thứ trong nhân gian không có ý nghĩa chân thực, hết thảy đều là hư ảo. Quý vị thấy đấy, nỗi thống khổ của con người chúng ta chính là ở chỗ chúng ta cho rằng sự việc này có thể kéo dài rất lâu, cuối cùng sau khi sự việc phát sinh biến hóa thì khóc lóc thảm thiết. “Tại sao lại thay đổi? Tại sao một người tốt lại trở nên như thế này? Tại sao trước khi ra ngoài cô ấy không có chuyện gì, nhưng sau đó lại bị tai nạn xe tông tử vong? “Tại sao người này sống với tôi nhiều năm như vậy, đột nhiên anh ấy lại bỏ rơi tôi?” Tất cả “tại sao” này, nó đều không có ý nghĩa đích thực của sự tồn tại, bởi vì định nghĩa này phụ thuộc vào sự vô thường.

Điều này khiến chúng ta phải học buông xả, kinh Phật chính là giúp chúng ta học cách buông bỏ. Nếu đã biết thứ này là giả, nó sẽ không tồn tại lâu dài, vậy tại sao không thể buông bỏ nó? Con người nên nâng cao cảnh giới của mình, không nên chấp trước đối với mọi sự vật ở nhân gian và cảm thấy “cái này nhất định là của tôi”, hơn nữa phải học cách tùy duyên tiêu nghiệp cũ. Hôm nay quý vị đã là một người trưởng thành, thì không nên tính toán chi li hoặc là không thể quên được nghiệp chướng do vô tri tạo thành khi còn trẻ. Bây giờ quý vị đã trưởng thành, không được tiếp tục làm những việc vô tri của tuổi trẻ, đây chính là tùy duyên tiêu nghiệp cũ. Không tạo tai ương mới, suy cho cùng là hãy hiểu và đúc kết cho chính mình: Dù thế giới này có mang đến cho quý vị duyên phận nào đi chăng nữa thì cuối cùng nó cũng sẽ trống rỗng. Nỗi đau nó mang lại cho quý vị cuối cùng sẽ biến mất; hạnh phúc nó mang lại cho quý vị cuối cùng cũng sẽ biến mất. Đừng bám víu vào những mối nhân duyên mà quý vị đã có lúc đó.

Tất cả mọi thứ mà chúng ta cho là có thể tồn tại, đều sẽ biến hóa. Khi yêu, người ta luôn nói “sông cạn đá mòn, chứ lòng này không bao giờ thay đổi”, quý vị có biết “sông cạn, đá mòn nghĩa là gì không? Quý vị đã bao giờ trải nghiệm qua chưa? Trong sự trống rỗng của bổn tánh này, tất cả chúng đều tạo ra sự thay đổi. Tất cả các pháp vạn hữu, tất cả hiện tượng vũ trụ, tất cả những việc quý vị nhìn thấy, quý vị nghe thấy, quý vị đã từng làm, là vì không mà có, cuối cùng đều sẽ mất đi, sau khi mất đi lại được sinh ra. Phật pháp cho chúng ta hiểu được, thế giới này sinh không mang đến, chết không mang đi, nếu chúng ta không chấp trước vào vạn vật và con người ở nhân gian, thì chúng ta sẽ tránh xa được phiền não, và liền rời xa điên đảo mộng tưởng. Giống như một ngôi nhà, nếu trống rỗng, mới có thể lưu trữ được vạn vật. Nếu nó không hoàn toàn trống rỗng, vậy thì ngôi nhà này sẽ không chứa đựng được nhiều thứ, và sẽ không có duyên khởi của vạn vật. Chỉ khi có Tánh không rồi thì mới có Duyên khởi, và chỉ khi diệt trừ đi tạp niệm trong tâm mình, thì mới có nhân duyên khác phát sinh. Thực ra nhân duyên đến cuối cùng là trống rỗng, sau khi trống rỗng lại bắt đầu có nhân duyên khác đến. Tâm không trống, thì tâm không thể dùng. Tâm rỗng rồi, mới có thể trống không, khi đó mới có thể thiện dụng bổn tánh của mình, mới tìm được Phật tánh của A Ma La Thức, thức thứ chín trong nội tâm quý vị.

Vạn pháp đều từ rỗng không sinh ra, nhiều sự việc đều từ rỗng không mà bắt đầu. Chẳng phải con người là như vậy sao? Chỉ khi nào trống rỗng rồi thì mới sinh khởi – ví dụ bây giờ quý vị đói bụng thì quý vị mới nghĩ đến ăn cơm và mới sinh ra nhiều thức ăn; nếu hôm nay quý vị mệt mỏi thì sẽ sinh ra uể oải và buồn ngủ; Nếu quý vị thiếu về một phương diện nào đó, quý vị mới đi nghiên cứu nó và sở hữu nó. Vạn pháp phát sinh từ sự trống rỗng và cũng chấm dứt từ sự trống rỗng. Quý vị có được nó, quý vị đã tìm thấy nó, và nó sẽ sớm biến mất – nó lại biến mất từ sự trống rỗng. Từ trống rỗng sinh ra và cũng từ sự trống rỗng diệt vong, từ khi sinh ra đến khi bị hủy diệt, rồi lại từ hủy diệt đến khi được sinh ra. Nó không phải là không có, mà là nó có sinh có diệt, đến và đi tự do. Thử nghĩ xem, chúng ta đang sống trên thế giới này, chỉ cần quý vị vừa nghĩ đến một chuyện vui là quý vị liền cười ngay, chuyện này đã đi vào trong tâm trí của quý vị, chỉ cần nghĩ đến nó là quý vị sẽ thấy vui, có phải là từ Không mà Có rồi không? Khi quý vị nghe điều gì đó không vui, trong chốc lát quý vị sẽ cảm thấy đau buồn. Nỗi buồn này vốn dĩ không có trong tâm quý vị, và cũng là do quý vị sinh ra; nhưng một khi quý vị đã nghĩ thông rồi, nó sẽ tự sinh tự diệt, và tự do sinh diệt.

Vậy nên “hết thảy do tâm tạo” nghĩa là nói chính bản thân con người đang tạo Nhân, chính mình đang tạo nghiệp quả, chính mình sinh ra nó, lại chính mình hủy diệt nó. Nhiều người hỏi, cái gì gọi là Tánh không? Cái gì gọi là từ Không mà sinh ra. Thực ra, một người khi đến thế giới này, trước đây vốn dĩ không có họ, đột nhiên có một người như vậy xuất hiện, rồi đặt tên, tìm cha mẹ, sau đó bắt đầu sống trên thế giới này, và cứ thế họ được nuôi dưỡng, tức là một sinh vật từ Không đến Có trong thực thể. Đây chính là điều mà Phật Đà nói với chúng ta, thực ra chúng ta rời khỏi thế giới này hay ở thế giới này đều giống nhau, đây chính là nói cho chúng ta biết không sinh không diệt.

Tại sao con người lại khó chịu? Sư phụ đưa ra một ví dụ đơn giản, trước đây trong văn phòng làm việc có năm người, đột nhiên có một trưởng phòng rời đi, còn lại bốn người và bốn người này đều nghĩ mình có thể làm trưởng phòng, sau đó trong suốt ba tháng tranh đua để được bầu chọn, họ đã làm rất nhiều công việc, mỗi người ai nấy đều vui có, buồn có, khổ có. Cuối cùng có ba người rất đau khổ vì không được chọn, người còn lại sinh tồn trong đau khổ, có được một chút tưởng chừng như hạnh phúc nhưng thực ra lại là một loại khổ lạc. Từ đó về sau, ba người này không nói không rằng. Như vậy buồn và vui này đều là do chính họ sinh ra, cho đến khi 3 tháng bầu chọn kết thúc, buồn và vui này liền chấm dứt, liền kết thúc. Con người không phải như vậy sao? Vừa mới nghĩ không thông, đột nhiên nghĩ: “Tôi như vậy không phải rất tốt sao? Tôi thế này thế nọ v.v..”, lập tức “Hi hi” liền bật cười. Cho nên mới nói tự thuyết tự thoại, tự suy tự nghĩ, tự nói một mình, tự thuyết tự thoại tức là tự nói tự trả lời thực ra là một quá trình đấu tranh tâm lý và ngụy biện, bao gồm quá trình xoa bóp tâm lý trong lòng mình.

Bồ Tát dạy chúng ta rằng đôi khi chúng ta phải nhìn thấy sự tồn tại thực sự của thế giới này và đôi khi chúng ta phải tưởng tượng sự vô ngã sau khi rời khỏi thế giới này. Thế giới này nhiều phiền não như vậy, nếu quý vị tưởng tượng một ngày nào đó quý vị sẽ rời khỏi thế giới này và không còn bản ngã nữa, liệu quý vị có còn phiền não nữa không? Nếu quý vị nghĩ về nó theo cách này, thì quý vị sẽ không còn lo lắng nữa. Cũng giống như bây giờ, “Mặc dù sống trên thế gian này, nhưng tôi không phiền não, bởi vì tôi đã rời khỏi hồng trần”. Khi quý vị thật sự nghĩ rỗng không, rằng: “Tôi đã rời khỏi hồng trần rồi”, thì thực ra từ sâu thẳm trong trái tim quý vị cũng không phải là không có dấu vết quý vị đã từng đến thế gian này, mà quý vị đã từng đến rồi, cũng đã từng có phiền não, chỉ là nó đã chấm dứt, mọi chuyện đã kết thúc, đã đạt được cảnh giới cao hơn, nên quý vị không chấp trước vào những phiền não này nữa.

 

Tập 97
TỰ TÁNH ĐƯƠNG KHÔNG , CHÂN KHÔNG DIỆU HỮU

(01/07/2020)

Nhiều vị Cao Tăng Đại Đức thường mỉm cười với cuộc đời, họ biết rằng con người đến và đi đều phải tự làm tự chịu nhân quả mà bản thân đã tạo ra. Bởi vì tự mình tạo nghiệt, tự mình phải gánh chịu, nhưng tự mình lại nghĩ ra rất nhiều cách để khiến bản thân đau khổ, khi nghĩ đến là cảm thấy khó chịu, tất cả đều do chính mình gây ra Nhân, nên tự nhận lấy nhân quả và tự tồn tại, nhân quả là tự mình gánh và tự mình chịu đựng. Vì thế “tự do sinh diệt” dần dần xuất hiện trong Phật giáo. Khi quý vị đã nghĩ thông suốt, tâm trí quý vị liền được tự do; nếu quý vị nghĩ không thông, tâm quý vị liền bị phiền não. Lấy một ví dụ đơn giản, khi sức khỏe kém, quý vị nghĩ không thông, cho rằng: “Tại sao người khác không bị bệnh, mà tôi lại bị bệnh?” Và khi quý vị đã nghĩ thông thì: “Khi họ bị bệnh tôi đâu nhìn thấy, khi họ bị bệnh họ còn đau khổ hơn tôi, là do tôi không cảm nhận được mà thôi”. Lúc này, quý vị đã nghĩ thông liền cảm thấy thoải mái. Trước tiên, hãy chữa lành những căn bệnh về thể chất và tinh thần của quý vị; rồi dần dần khi những lo lắng của quý vị được loại trừ, bệnh tật sẽ rời bỏ quý vị mà đi. Nếu quý vị ôm nỗi phiền muộn trong lòng không thể buông bỏ và cố chấp nghĩ rằng: “Người khác không bệnh, chỉ mình tôi bệnh nhiều như thế này”. Thì quý vị càng nghĩ sẽ càng đau khổ và bệnh tật sẽ ngày càng đến gần quý vị hơn, quý vị sẽ không thể loại bỏ cái Nhân gây ra bệnh và tiêu trừ nó, nên quý vị mới sống trong cái Nhân gây ra bệnh này.

Đạo Phật dạy chúng ta, sau khi quý vị loại bỏ được ý nghĩ này liền được hạnh phúc; nhưng sau một hoặc hai giờ xoay chuyển, thì ý nghĩ này có thể bắt đầu tự sinh khởi; sau khi ý nghĩ tự nghĩ ra xuất hiện, quý vị lại dựa vào loại trí tuệ “tự do sinh diệt” trong tâm để tự mình tiêu diệt nó, gọi là tự sinh tự diệt. Sự sinh khởi của tâm cũng như “Như Lai giả” dường như đã đến rồi. Khi phiền não đến, chúng ta nên làm sao đây? “Vô sở tòng lai, vô sở tòng khứ, tự tánh bổn không”, nghĩa là nói với chúng ta rằng: Phật tánh “vô sở tòng lai” chúng ta không biết nó từ đâu đến; “vô sở tòng khứ” chúng ta vốn dĩ đã có Phật tánh rồi, không phải đi tìm mà có được, nó đã có sẵn trong bổn tánh của chúng ta. Nhiều người tu tâm đi tu học khắp nơi. Thực ra, nếu quý vị tu dưỡng lương tâm tốt thì sẽ có được bồn tánh của Phật. Hãy đối chiếu với Phật ngôn Phật ngữ mà Phật thuyết, có phải đã phản ánh chân thực lương tâm bên trong của chúng ta không?

Nếu chúng ta có Phật tánh, chúng ta sẽ có được nhân tính và trí tuệ, vậy thì chúng ta liền có được bổn tánh. Thực ra, bổn tánh trong tâm chúng ta chưa bao giờ bị mất đi và cũng chưa bao giờ sở hữu nó, bởi vì nó vốn dĩ đã tồn tại. Giống như một người khi sinh ra thì mũi, tai và mắt luôn ở vị trí đó. Ví dụ, quý vị chưa bao giờ nhìn thấy sự tồn tại của chiếc mũi. Nhưng khi quý vị dùng hai tay bịt mũi lại, thì lúc này sẽ cảm nhận được tầm quan trọng của chiếc mũi vì quý vị không thể thở được. Thực ra, chiếc mũi vốn dĩ đã tồn tại, không phải vì quý vị không chú trọng đến nó mà nó đã từng bị mất đi. Cũng không phải vì quý vị chú trọng đến nó mà chiếc mũi mới tồn tại trên khuôn mặt quý vị. Cũng giống như Phật tánh trong tâm của chúng ta vậy, nó chưa bao giờ bị mất hay được sở hữu, bởi vì trong tự tánh của nó là Tánh không, nên Phật giáo mới gọi những điều này là Tánh không duyên khởi.

Tâm Kinh dạy chúng ta rằng “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Thực ra trong Không sinh Không diệt, khi sinh ra cũng là từ Không mà biến thành Sắc và từ Sắc lại biến thành Không, cũng có nghĩa là tuy có trống rỗng, nhưng thực chất không trống rỗng. Vậy là ý nghĩa gì? Chẳng hạn, trong tâm quý vị biết rằng hôm nay quý vị sẽ nghe Sư Phụ thuyết giảng, quý vị nghĩ: “Bây giờ tôi không được có bất cứ tạp niệm nào trong đầu. Tôi phải trống rỗng, trống rỗng, trống rỗng… ” Vậy quý vị đã trống rỗng chưa? Nếu trống rỗng rồi, thì khi nghe Sư phụ thuyết giảng, đương nhiên là quý vị sẽ chăm chú lắng nghe theo lời Sư phụ giảng. Vậy trong tâm quý vị đã trống rỗng chưa? Nó trống rỗng rồi. Nhưng thực chất tâm của quý vị có một điều kiện đó là quý vị không phải “hoàn không” – nghĩa là không hoàn toàn trống rỗng, bởi vì trước khi bước vào, quý vị vẫn đang suy nghĩ: “Tôi phải chăm chú lắng nghe, tôi cần học thêm nữa, và sau khi nghe tôi phải ghi chép lại, tôi phải thực hành Phật pháp vào trong cuộc sống hàng ngày”, đây là những gì quý vị đã từng nghĩ, nó không hoàn toàn trống rỗng. Đây là sự trống rỗng trong tự tánh, tuy có trống rỗng, nhưng thực chất trong tâm vẫn chưa hoàn toàn trống rỗng. Mặc dù có dập tắt, nhưng thực chất không dập tắt. Hôm nay quý vị đến đây và nghĩ: “Tôi nhất định phải chăm chú lắng nghe Sư phụ giảng.” Câu nói “Tôi nhất định phải chăm chú lắng nghe Sư phụ giảng” của quý vị, có phải đã phản ánh lên bản chất thực sự trong suy nghĩ của quý vị là vẫn còn nghĩ ngợi không? Có phải đã thực chất Vô diệt rồi không? Nếu quý vị thực sự trống rỗng, thì khi quý vị bước vào, ngay cả nghĩ cũng không nghĩ, không hề có bất cứ suy nghĩ gì cả, tức là đã Chân không – đã thực sự trống rỗng rồi; còn khi bước vào mà nghĩ “Tôi phải trống rỗng, tôi phải trống rỗng”… thì cũng giống như Thầy dạy mọi người tụng kinh vậy, nếu thật sự không thể trống rỗng được thì quý vị có thể niệm thầm trong tâm “Tôi phải trống rỗng, trống rỗng, trống rỗng…” Sau khi niệm mười lần, trong đầu quý vị thực sự đã trống rỗng rồi. Nhưng sự trống rỗng này là ép buộc bản thân không được tưởng tượng một vật nào đó hay một ý nghĩ nào đó trong tâm, là để kiềm chế bản thân không để những tạp niệm xâm nhập vào trong tâm mình và duy trì tính trong sạch của nó. Đây chính là thực chất Vô diệt, mặc dù là trống rỗng nhưng vẫn có Sắc trong sự trống rỗng đó, cho nên Không tức thị Sắc.

Thực ra không có sự khác biệt giữa Không và Sắc. Sư phụ tiếp tục đưa ra ví dụ này. Hôm nay quý vị đến nghe thuyết giảng và nói: “Tôi nhất định phải chăm chú lắng nghe và giữ cho đầu óc trống rỗng”. Suy nghĩ này thực ra cũng là một loại trống rỗng, và nó chỉ kiểm soát ngôn ngữ và hành vi của quý vị. Vì vậy, khi quý vị thực sự trống rỗng ngồi xuống và không nghĩ về những điều này, nhưng thực ra là vì trong tâm trí quý vị đã từng có suy nghĩ: “Tôi nhất định phải trống rỗng để chăm chú lắng nghe bài giảng của Sư phụ”, nên nó vẫn còn có Sắc ở trong đó.

Như thuyết duy thức đã nói, ý thức của quý vị và mọi thứ quý vị tưởng tượng hôm nay đều do tâm quý vị tạo ra. Hôm nay tâm tôi nghĩ gì, thì tâm tôi liền phát hiện ra điều đó. Lấy một ví dụ đơn giản, nội tâm giống như một tấm gương, nếu quý vị tưởng tượng một vị Phật, Bồ Tát nào đó, thì trong tấm gương nội tâm này sẽ xuất hiện một vị Phật, Bồ Tát và quý vị sẽ rất hạnh phúc, trong tâm có Phật, nhìn thấy vị Phật này dường như là có, nhưng thực chất là do quý vị tưởng tượng ra. Đây chính là Không tức thị Sắc, và đây cũng chính là tâm có thể tạo ra vạn vật. Nếu quý vị tưởng tượng trong tâm trí: “Hôm nay tôi bị quỷ ám rồi”, thì một tấm gương sạch sẽ trong tâm quý vị sẽ phản chiếu hình dạng và diện mạo của một con quỷ, và rồi quý vị bắt đầu tưởng tượng ra loại tóc rối bù đó… liền sinh ra sợ hãi. Đây chính là tâm có thể tạo ra tất cả mọi thứ. Nhưng sau khi tạo ra vạn vật, tâm cũng có thể hủy diệt vạn vật.

Vậy nên, Bồ Tát dạy chúng ta, hà cớ gì mà phải tạo tác ra pháp Không và Sắc? Hết thảy để nó tự nhiên đến, tự nhiên đi, đừng ép buộc bản thân đi làm một việc gì đó. Bởi vì cái ý thức này ép buộc nó, nên trong đó cũng có Sắc. Cái thế giới có Sắc này khiến quý vị bám chấp vào nó, khiến quý vị không thể giải thoát và khiến cho quý vị tạo tác ra hết thảy mọi sự vật, mọi hiện tượng trong Không và Sắc. Không và Sắc là gì? Vốn dĩ bản chất con người là trống rỗng, nhưng nó cũng có Sắc. Nếu quý vị nghĩ “Hôm nay mình nhất định không được suy nghĩ lung tung”, tức là đã có Sắc. Nếu tánh Không đến cuối cùng mà thật sự trống rỗng, thì thậm chí, cái ý nghĩ “Tôi không muốn nghĩ” cũng không nghĩ đến, cũng như chưa từng suy nghĩ về nó. Quý vị nghĩ cái gì? Có gì mà phải suy nghĩ. Chẳng lẽ khi quý vị đi ngang qua trước cửa ngân hàng, rồi nghĩ: “Tôi không thể trộm cướp như kẻ xấu”? Nếu một người tốt đi ngang qua ngân hàng, họ chưa bao giờ nghĩ đến đi trộm cướp đồ, đây chính là vốn dĩ trống rỗng. Vì thế, theo Phật giáo, thực ra mọi Sắc tướng và tánh Không đều chứa đựng diệu pháp. Diệu pháp là làm thế nào để chuyển hóa ý thức. Thuyết duy thức là nói đến chuyển hóa ý thức để ý thức của quý vị có thể trở thành một loại cảnh giới của Phật giáo Đại thừa, chỉ những người có thể vượt qua chính mình, có thể nâng cao cảnh giới, có thể quên mình, có thể vô ngã và có thể loại bỏ ngã tướng, thì người đó mới có thể được tính là cảnh giới Đại thừa.

Hà vi không? (Thế nào là Không?) Chúng ta thường nói “trống rỗng rồi”, vậy trống rỗng là gì? Đó là những tư tưởng trong quá khứ của quý vị đã từng nghĩ đến, tư tưởng mà trước đây nghĩ đến bây giờ không nghĩ đến nó nữa, đã quên đi những chuyện đã từng nghĩ, nó đã trở thành quá khứ, nó không còn tồn tại trong trường ý thức thứ tám của quý vị nữa, vậy thì nó là quá khứ rồi, đó chính là điều mà chúng ta nói “Hà vi không” (thế nào là Không?) – thì nó liền trống rỗng.

Lấy một ví dụ đơn giản, người mà quý vị đã từng yêu khiến quý vị đau lòng như vậy. Khi quý vị bảy, tám mươi tuổi, vì những điều này đã từng nghĩ tới, đã là quá khứ, đã quên rồi và nó không còn tồn tại trong tâm trí của quý vị nữa thì lúc này nó được xem là rỗng Không, vì quý vị đã quên chuyện đó rồi. Tương tự như vậy, dùng sự trống rỗng này, quý vị nghĩ về “Tôi có thể làm gì trong tương lai? Sau này già đi tôi phải làm thế nào?” Điều mà quý vị tưởng tượng ra như vậy có phải là trống rỗng không? Bởi vì “sau này” của quý vị chưa đến, bởi vì tương lai chưa đến, nên tương lai cũng là trống rỗng. Đây là lý do tại sao Kinh Kim Cang nói rằng tương lai không thể có được, quá khứ không thể có được. Tất nhiên, nếu quý vị tưởng tượng về một người hoặc vật nào đó trong tương lai thì nó cũng không tồn tại nữa, vì nó không có. Lấy một ví dụ đơn giản, nhiều người có trí tưởng tượng khi đi xe buýt, nhiều bạn trẻ sẽ tưởng tượng rằng “bên cạnh mình còn một chỗ trống, chốc nữa nếu có một bạn trẻ nào đó đến ngồi cạnh thì tốt biết bao và tốt nhất là người khác giới”. Đây là suy nghĩ của con người, suy nghĩ của họ đang đấu tranh với sự trống rỗng. Họ cảm thấy không có sự trống rỗng, hiện tại họ vẫn còn ở trong trạng thái không có sự trống rỗng. Họ đang bám chấp vào sự tồn tại của một số trí tưởng tượng và ý thức. Tất cả những việc chúng ta đang làm hiện tại thực ra đều không có hiện tại, bởi vì chỉ cần vừa nói đến “hiện tại” thì cũng giống như Sư phụ đang nói với quý vị bây giờ “bông hoa này đẹp lắm”. Cái ví dụ thực tế bông hoa này vẫn chưa trôi qua, nhưng câu nói này có phải đã trở thành quá khứ rồi không? Vì Sư phụ vừa nói điều đó trong ba giây trước. Tương tự quý vị biết rõ nhất khi sử dụng điện thoại, vừa gửi tin nhắn cho người bạn hai giây trước là bạn ấy đã trả lời ngay lập tức trong một giây. Vì thế mọi thứ đều trống rỗng.

Kinh Kim Cang nói rằng tương lai là trống rỗng, hiện tại cũng là trống rỗng và quá khứ lại càng trống rỗng hơn. Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng không có quá khứ trong không gian vũ trụ. Chúng ta sống đến hôm nay, chúng ta không nên nghĩ về những chuyện quá khứ nữa, bởi quá khứ chỉ là một khoảnh khắc. Cũng giống như bây giờ, quý vị biết rằng nếu quý vị mơ về kiếp trước thì đó chỉ là một khoảnh khắc, và đó đã là sự trống rỗng rồi. Không có tương lai cũng không có hiện tại, bởi vì sự trống rỗng này không đại diện cho hiện tại của quý vị, hơn nữa hiện tại lại nhanh chóng trở thành quá khứ. Vì vậy, con người không thể nắm bắt được trạng thái của mình trong sự trống rỗng này. Tại sao con người lại mơ hồ? Đôi khi họ hạnh phúc như mơ, và đôi khi họ đau khổ như sống trong địa ngục, vì họ không thể nghĩ đến tương lai, quá khứ và hiện tại. Hãy để tư tưởng con người chúng ta dần dần trôi vào tánh Không. Tại sao nhiều người lại nói “Tẩu nhập không môn, ly khai Hồng Trần”? (Bước vào cửa Phật, rời bỏ phàm trần), bởi vì điều này là Không tướng. Nếu có suy nghĩ “Tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng với thế giới này và không muốn sống ở thế gian này nữa” v.v. thì đây chính là cơ sở khiến cho con người mê hoặc điên đảo. Đó là bởi vì họ không hiểu được cấu trúc của tương lai, hiện tại và quá khứ thực sự đang chảy trong tâm mình.

 

Tập 98
NHỮNG NHÂN DUYÊN PHÁT SINH, PHẬT DẠY ĐÓ LÀ TÁNH KHÔNG

(01/07/2020)

Vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiểu được con người và vạn vật trong vũ trụ đều không có sự chi phối, không ai có thể trường tồn và không ai có thể thống trị được thế gian, không gì có thể không thay đổi nên không có cách nào kiểm soát được nó. Theo thuật ngữ hiện đại thì nó có nghĩa là “Tôi không có cách nào kiểm soát được người này, và tôi cũng không có cách nào kiểm soát được thứ này” bởi vì nó không tự nhiên mà có. Vạn vật đều do “nhân duyên sở sinh pháp” (nghĩa là tất cả đều do nhân duyên, vì hôm nay quý vị làm việc này nên mới tạo nên mối duyên này, và mối duyên này lại khiến quý vị sinh ra một mối duyên khác, gọi là “tục duyên” là sự nối tiếp liên tục của các nhân duyên với nhau. Vì thế mà con người sống trong duyên sinh duyên diệt, đây chính là Quán vô thường). Vậy nên “Ta nói mọi thứ đều là trống rỗng”, và Tánh không là bản thể của vũ trụ. Hãy thử nghĩ xem, khi quý vị cảm thấy khó chịu và nhìn thấy món đồ nào đó mà quý vị yêu thích bị người khác mua mất hoặc sự việc gì đó bị thất bại, lúc này nếu quý vị nhìn lên bầu trời sẽ cảm thấy mình thật nhỏ bé, và quý vị sẽ cảm thấy mọi thứ trong vũ trụ đều Không tướng, nghĩa là mọi hình tướng đều trống rỗng. Trên đời này có gì là sĩ diện, có gì mà không thể buông bỏ được? Hãy nhìn lên không gian vũ trụ, nó bao la và hùng vĩ biết bao, hãy nhìn lại mình xem trong lòng ta nhỏ bé đến nhường nào. Thực ra, phiền não của con người chỉ là do những nhân duyên khởi lên gây ra một số làn sóng trong lòng quý vị. Trong quá trình điều khiển các mối nhân duyên này, chỉ là chúng có một số tác động lên bản thể (bản chất con người) mà thôi. “Bạn làm tôi kích động, khiến tôi nảy sinh ngũ dục lục trần”, đó là một quá trình. Đó là lý do tại sao giới Phật giáo gọi đó là Tánh không duyên khởi.

Nếu duyên phận đã bắt đầu, quý vị phải hiểu rõ bổn tánh của nó đến cuối cùng nhất định là vô thường, là trống không, thế nên Tánh không mới có thể Duyên khởi. Giống như chúng ta đi giúp đỡ một người, chúng ta với người này nhất định là có duyên phận. Quý vị đi độ một chúng sinh, nhất định là quý vị với chúng sinh này có duyên với nhau.

“Bởi vì tôi muốn học Phật, bởi vì tôi là người học Phật, tôi học Phật giáo Đại Thừa, nên tôi nhất thiết phải đi cứu độ chúng sinh”. Vậy nên quý vị sẽ dùng trí tuệ, thời gian và năng lực của mình để giúp đỡ họ, giúp cho họ có được nhận thức rõ ràng hơn về ý nghĩa chân thật của Phật pháp. Đôi khi quý vị sẽ dùng tài vật để bố thí cho họ, sau đó nói pháp cho họ nghe, để họ được giải thoát, loại nhân duyên được sinh ra như thế chính là “Nhân duyên sở sinh pháp”, là các pháp do nhân duyên sinh ra. Một người không quen biết, cuối cùng sẽ trở thành bạn tốt của quý vị. Một người mà quý vị đã từng độ họ, họ sẽ coi quý vị là Phật, đây chính là một pháp do nhân duyên sinh ra. Tuy nhiên, sau khi duyên sinh chính là Tánh không duyên khởi, bởi vì họ dần dần hoàn thiện, dần dần hiểu được rất nhiều, dần dần càng học càng thông suốt, vì quý vị đã từng trợ giúp họ, khi quý vị làm xong chuyện này, là duyên đã từng khởi qua rồi, đến cuối cùng họ có thể ngộ ra được cái đạo lý này, khi quý vị làm xong, duyên cũng liền trống không, quý vị không thể nào cả đời dìu dắt họ như vậy. Cũng giống như những người biết lái xe như chúng ta bây giờ, ai còn có thể nghĩ đến người thầy đã từng huấn luyện chúng ta lái xe trước đây? Không nghĩ đến nữa. Duyên phận chính là một quá trình dạy cho quý vị biết, khi đã biết rồi thì nó sẽ kết thúc. Mối duyên giữa người với người đã khởi lên rồi, quý vị phải hiểu rõ đến cuối cùng bổn tánh là trống rỗng. Rất nhiều người học Phật không thể hiểu được những điều này. “Ta nói tức là không”, cũng chính là Bồ Tát đã nói rồi, Phật đã nói rồi, ngay cả lời nói đã từng nói qua cũng đều trống rỗng. Đó là lý do tại sao rất nhiều vị Đại Phật nói: “Tôi đã thuyết pháp nhiều năm như vậy, như tôi chưa từng thuyết gì cả”. Đã từng thuyết giảng qua chưa? Đã từng thuyết giảng rồi. Đã từng thuyết giảng qua vậy nó đâu rồi? Không còn nữa. Tôi đã từng giúp bạn đúng không? Đã giúp rồi. Vậy sau khi giúp rồi thì sao? Lại không còn nữa. Đây chính là Tánh không duyên khởi.

Hôm nay chia sẻ cùng đại chúng về Tánh không duyên khởi đến đây, cám ơn đại chúng.

Tiếp theo Thầy sẽ kể cho mọi người nghe một câu chuyện. Ý niệm của con người vô cùng quan trọng, nếu như quý vị có một niệm thành kính, một niệm này Nhân tuy nhỏ nhưng có được Quả lớn. Vậy nên nhiều người đừng cho rằng một ý niệm giúp đỡ người khác là tạo ra “một Nhân rất nhỏ”, thật ra là sẽ có được quả báo lớn vô cùng.

Có một lần Đức Phật đến kinh thành của một vương quốc, nơi toàn những người thuộc chủng tộc Bà-la-môn (Ấn Độ có rất nhiều kinh thành. Quốc vương và quốc dân trong thành này về cơ bản đều là Bà-la-môn giáo). Vị lãnh đạo kinh thành nghe nói sức nhiếp thụ của Đức Phật rất lớn (nghĩa là rất có sức ảnh hưởng), ông nghĩ rằng người ở thành này được Đức Phật giáo hóa vô cùng nhiều, nên trong lòng vô cùng hoảng sợ, sợ rằng vì nguyên nhân này mà giáo lý Bà-la-môn không còn áp dụng được nữa (vì giáo lý của mỗi giáo phái đều không giống nhau). Để ngăn chặn tình trạng này xảy ra với kinh thành của họ, nên ông đã ban hành trước một mệnh lệnh: “Bất cứ ai đi cúng dường và tiếp thu giáo pháp của Đức Phật sẽ bị phạt nặng năm trăm lượng bạc.” Sau khi mọi người nhìn thấy pháp lệnh, đều tiếc năm trăm lượng bạc (là một số tiền lớn vào thời đó). Thế nên, khi Đức Phật cùng các đệ tử của mình vào thành, nhà nhà ai nấy đều vội vàng đóng cửa lại. Và cứ như thế liên tục ba ngày liền, tất cả Tăng chúng đều trở về với bát rỗng vì không có ai cúng dường.

Đến ngày thứ tư, có một người hầu lớn tuổi của một vị trưởng giả Bà-la-môn, từ trong nhà bưng ra một ít thức ăn đã thối rữa chuẩn bị đổ đi, liếc mắt nhìn thấy hình tướng uy nghi trang nghiêm của Phật Đà, bỗng nhiên sinh lòng cung kính. Bà rất muốn cúng dường Phật Đà, nhưng khi thấy những đồ vật mình có trong tay thô ráp, ôi thiu, hư hỏng, làm sao bà có thể cúng dường một vị Phật cao quý như vậy, bà đang nghĩ: Mình phải làm sao đây?

Đang lúc bà do dự, Phật Đà mỉm cười tỏa sáng (nụ cười của Phật Đà, trong ánh mắt sẽ tỏa ra loại Phật quang này), Đức Phật vui mừng dùng bát đựng thức ăn thiu trên tay bà lão, và quay đầu nói với A Nan: “Này A Nan, bà lão này một lòng thành kính, do công đức thành kính cúng dường Phật nên sẽ được sinh lên cõi trời trong mười lăm kiếp để hưởng lạc, và sau mười lăm kiếp sẽ tái sinh vào cõi người với nhân duyên xuất gia tu hành.” (Phật Đà nói về nhân duyên)

Chủ nhân của bà lão này tình cờ nghe thấy, lập tức từ trong nhà bước ra và nghĩ: “Những điều Đức Phật nói thật là bất khả tư nghị!” (Có mấy ai có thể biết được rằng mười lăm kiếp sẽ được lên thiên giới và sau mười lăm kiếp lại xuống trần gian. Cuối cùng, bà ấy còn được thành toàn xuất gia?)

Đức Phật hỏi vị trưởng lão Bà-la-môn: “Này ông, ông đã bao giờ thấy những điều khó tin khác chưa?” (Đức Phật rất dễ thương, nên hỏi ông ta: “Ông đã bao giờ nhìn thấy những điều khó tin khác chưa? Ông vừa nghe điều này, liền cảm thấy không thể tin được rồi à!”)

Trưởng lão đáp: “Có đấy, có một lần chúng tôi cùng nhau đi du lịch với năm trăm cỗ xe. Vì thời tiết oi bức nên chúng tôi tìm được một cây cổ thụ để làm bóng mát. Cây này đủ lớn để chứa năm trăm xe ngựa và che mát cho cả đoàn. (Cái cây lớn đến mức năm trăm xe ngựa có thể nhét vừa dưới bóng cây đó, mà vẫn còn dư chỗ để che mát) kích thước của cây cổ thụ thật không thể tin được!” thưa Đức Phật. Người đàn ông này thưa với Đức Phật như vậy.

Đức Phật vội hỏi: “Vậy ông có biết hạt của cái cây lớn này to cỡ nào không?”

Trưởng lão đáp: “Nhỏ như hạt cải.”

Đức Phật dạy: “Đúng vậy. Đây là đạo lý Nhân nhỏ mà có được Quả lớn”. Quả báo mà bà lão nhận được cũng giống như vậy.

Nhân bố thí cúng dường chư Phật của người học Phật tuy nhỏ nhưng lòng tin trong sạch thành kính của họ lại rất lớn nên sẽ nhận được quả báo to lớn như vậy. Chúng ta khấu đầu một lạy ở Quan Âm Đường, việc này có vẻ như là một việc nhỏ, nhưng quý vị có biết rằng một lạy đó có thể phù hộ cho gia đình, cho bản thân và người mà quý vị cảm thấy cần được bảo vệ. Nếu quý vị khấu đầu vài lần và thành tâm cầu nguyện Bồ Tát, Bồ Tát đều sẽ đáp ứng tâm nguyện của quý vị. Vì một cái Nhân nhỏ như vậy — nếu hôm nay thắp đèn dầu, có thể mắt quý vị liền được miễn một nhát dao phẫu thuật hoặc mổ vì đục thủy tinh thể; nếu hôm nay thành tâm khấu đầu lạy Phật, có thể gia đình quý vị liền tránh được nhiều tai họa. Đây chính là Nhân nhỏ Quả lớn.

Sau khi nghe lời Phật dạy, trưởng lão cảm thấy lời Phật nói rất có lý, lời Phật nói không dối nửa lời. Ông lại được nhìn thấy thân Phật tỏa sáng rực rỡ và vô cùng uy nghiêm nên nhanh chóng kêu gọi mọi người xung quanh đó: “Ôi! Thiên nhân đạo sư, Phật đã xuất hiện trước mặt chúng ta. Lời dạy của Ngài có thể dẫn dắt chúng ta thoát khỏi phiền não, mọi người hãy mau chóng đến đây!” Bởi vì khi vị trưởng lão này (một vị lớn tuổi, nói chung là một người rất có uy tín trong kinh thành) kêu gọi mọi người, thì tất cả mọi người liền bước ra khỏi nhà, đồng thời bị thu hút bởi ánh sáng và sự uy nghiêm của Đức Phật (tức là khi quý vị nhìn thấy một người rất trang nghiêm, thì quý vị sẽ rất kính trọng họ), Đức Phật liền ngồi xuống và giảng pháp cho họ.

Mọi người có mặt ở đó ai nấy đều pháp hỷ xung mãn sau khi được nghe pháp và tiếp đó họ lần lượt đi nộp phạt. (Cho nên tại sao ngày xưa, khi vừa nghe được pháp rất nhiều người liền chứng đắc quả vị? Bởi vì con người ngày xưa họ rất thành thật và tốt bụng. Ngày xưa đâu cần luật sư? “Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy” (quân tử nói một lời, bốn ngựa khó đuổi). Chính là nói một lời khi đã phát ra thì không thể thu lại, cũng ý rằng, lời nói của người quân tử rất uy tín, không dễ đổi thay. Con người thời nay luật sư ký tên rồi mà họ vẫn còn chối, không thừa nhận, không thành thật. Những người ở đó lần lượt đi nộp phạt để cúng dường Phật và nghe lời Phật dạy. Lãnh đạo kinh thành Bà-la-môn cảm thấy rất kỳ lạ: “Tiền là thứ mà người người đều yêu thích, vì sao mọi người lại sẵn lòng chịu tổn thất nhiều tiền nộp phạt như vậy để được cúng dường?” Việc này nhất định phải có nhân duyên lớn.” (Vì bản thân ông cũng chưa từng được nghe qua Đức Phật thuyết pháp.) Lúc bấy giờ, vị lãnh đạo kinh thành cũng cảm động trước sự việc này, ông kính cẩn mời Đức Phật đến cung điện thuyết pháp, nên toàn thể người dân trong kinh thành đều được thọ nhận lời dạy của Đức Phật.

Vì lòng thành kính của bà lão nên Đức Phật đã bố thí với nụ cười tỏa ra ánh sáng (Nụ cười của Đức Phật có thể khiến tất cả chúng sinh nhiếp thụ và cảm nhận được lòng từ bi), nhất là vì nhân duyên tỏa ra ánh sáng của Đức Phật, nên xóa bỏ được sự nghi ngờ của mọi người (có người khi nói chuyện, người khác liền tin họ, vì tia sáng phát ra từ mắt họ là sự chân thật và không dối lừa. Đức Phật dùng ánh mắt và nụ cười của Ngài để giải tỏa những nghi ngờ của mọi người về Phật về Pháp. Đây là cách giảng dạy tùy theo tình huống mà dùng phương tiện thiện xảo (chúng ta đi vào chùa nhìn tôn tượng của Đức Phật rất trang nghiêm. Chưa từng có một bức tượng nào mà nhìn thấy Đức Phật cười. Nhưng quý vị thấy đấy, để cứu độ chúng sinh Đức Phật liền mỉm cười). Tiếp theo đó, Đức Phật tiếp tục rải mưa pháp và dạy cho tất cả chúng sinh con đường đi đến giải thoát, đây chính là phá hoặc trừ nghi, từ thể khởi dụng (diệt trừ mê lầm nghi ngờ bắt đầu từ thân).

Câu chuyện này dạy chúng ta rằng nếu muốn cứu người, chúng ta phải nhìn thấy tính hiền lành vốn có thực sự trong lòng người khác. Đừng nhìn những suy nghĩ khiến quý vị không vui trong tiềm thức thứ bảy và thứ tám của họ, và đừng cố tình đoán xem người khác nghĩ gì. Nếu quý vị chưa có trí tuệ, kinh nghiệm và khả năng phán đoán đúng đắn, thông thường chắc chắn quý vị sẽ đoán sai. Đức Phật muốn chúng ta biết có lòng từ bi và bản thân không cố chấp để giúp chúng sinh hóa giải những chấp trước trong lòng họ. Vì sự hợp tan chia ly là điều không thể tránh khỏi, đừng lãng phí cuộc đời mình vào những việc mà việc đó chắc chắn sẽ làm mình hối hận. Đến thời điểm hiện tại chúng ta không cố gắng học Phật, đã làm lãng phí biết bao nhiêu tuổi thanh xuân của mình. Ngày ngày chúng ta sống trong khóc than, truy cầu và tham muốn, rốt cuộc những gì chúng ta nhận được là sự mất mát và tuyệt vọng. Vì vậy người học Phật đừng lãng phí cuộc đời mình vào những việc mà việc đó chắc chắn sẽ làm mình hối hận. Đừng làm những điều mà bản thân không thể làm được. Nếu một người cứ nhất quyết làm cho mình đẹp đẽ hoàn hảo thì đó chỉ là vẻ ưa chuộng bề ngoài. Danh tiếng cùng tôn quý đến từ tài năng thực sự và kiến ​​thức thực tế, khi có được đức hạnh rồi thì tự nhiên sẽ được hoan nghênh.

Hy vọng mọi người cố gắng học Phật, tu tâm cho tốt, thật thà chất phác, từng bước vững chắc để dấn thân vào cuộc hành trình vĩ đại hướng về Phật của chúng ta. Cảm ơn đại chúng.

 

Tập 99
BÀN VỀ KIẾN PHẦN VÀ TƯỚNG PHẦN

(04/07/2020)

Được rồi, hôm nay Thầy sẽ tiếp tục giảng cho mọi người về “Bạch Thoại Phật Pháp”.

Sư phụ nhớ lần trước Thầy có khai thị cho quý sư về tâm lý học của Phật giáo. Trên thực tế, quan điểm triết học và tâm lý học của Phật giáo đã được hình thành cách đây 2.500 năm. Từ xa xưa, vì chúng sinh có sự huân tập cũng như đã trải qua một sự thẩm thấu, một quá trình xông ướp bởi nghiệp vô minh và hạt giống này do tác dụng của tự tâm gieo sâu trong thức, nên dần dần tạo ra rất nhiều nghiệp vô minh. Thế nên liền phát sinh thuyết Nhất nguyên là “Năng” duyên và thuyết Nhị nguyên là “Sở” duyên, trong đó mê hoặc đối lập với thuyết Nhị Nguyên này. “Năng” có nghĩa là tôi có khả năng cảm nhận và tôi có khả năng làm, nó là chủ thể có tác dụng nhận thức; “Sở” có nghĩa là trạng thái và hoàn cảnh mà tôi cảm nhận hôm nay, nó là khách thể (đối tượng) bị nhận thức. Thật ra, nhiều người học Phật vì muốn loại bỏ đi mê hoặc đối lập với thuyết Nhị nguyên này, nên họ dùng cảm giác “Năng” kiến trong tâm mình (hôm nay tôi có khả năng cảm nhận được một điều gì đó, họ dùng tâm “tôi có khả năng” của chính họ để làm điều này) và hoàn cảnh “Sở” kiến tôi cảm nhận (tức là tôi có thể cảm nhận được những thay đổi trong hoàn cảnh này và tôi có thể cảm nhận được những thay đổi trong tâm mình). Giữa hai sự đối lập này biến sinh ra con đường Thiền tu đều trống rỗng, phải cả hai đều trống rỗng. Nói cách khác, tâm của quý vị phải rỗng Không ngay cả khi quý vị đang làm việc gì đó và quý vị cũng phải cảm thấy trống rỗng khi tiếp xúc với môi trường bên ngoài. Sư phụ sẽ tiến hành phân tích sâu hơn với mọi người về vấn đề này.

Phật giáo Đại Thừa có hai tông phái tư tưởng: một là Duy thức, một là Trung quan. Duy thức chính là kiến giải của Duy thức tông, họ cho rằng vạn vật trên thế gian đều do ý thức điều khiển chính, điều này trên thực tế liền phù hợp với kiến giải đầu tiên của Phật giáo Đại Thừa. Phật Đà đã từng khai thị với chúng ta rằng “vạn pháp đều do duy thức mà thay đổi”, bởi vì ý thức của quý vị đã thay đổi, nên tâm của quý vị mới có thể thay đổi. Lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay quý vị nghĩ “Tôi mua thứ này giá rất hời”, tiếp theo đó tâm quý vị liền biến đổi, liền cảm thấy rất vui; Nếu hôm nay quý vị cảm thấy tốn rất nhiều tiền để mua một món đồ mà giá không hời, vậy thì tâm của quý vị liền sinh ra một loại biến hóa khác. Trên thực tế, sự theo đuổi ý thức chủ quan của con người là rất mãnh liệt, luôn cho rằng ý thức chi phối toàn bộ những thay đổi trong tâm thái của chính mình. Nếu con người chịu thiệt, ví dụ như bị tổn thất tiền, có người sẽ hối hận cả đời “Ai da, lúc tôi bao nhiêu tuổi đã từng mất hàng chục nghìn”; Vậy thì có người liền trả lời: “Ai da, chi tiền để loại bỏ thiên tai”, ý thức của họ chuyển đổi thì cuộc sống và toàn bộ quan niệm về con người của họ cũng sẽ thay đổi. Vậy nên Phật Đà nói vạn pháp đều là do Duy thức mà thay đổi, hết thảy mọi thứ đều do tâm thái của quý vị phát sinh biến hóa.

“Tam giới đô duy tâm sở hiện” (Tam giới đều do tâm biểu hiện) cũng có nghĩa là, ngày nay bất kể chúng ta sống ở cõi nào trên thế giới này, thì tâm hiện tại, tâm tương lai và tâm quá khứ của quý vị, thực ra tất cả mọi thứ đều do tâm thức của quý vị đang chuyển biến. Đây chính là “Tam giới duy tâm sở hiện” mà Sư phụ lần trước nói với mọi người, nghĩa là việc nâng cao cảnh giới cũng phụ thuộc vào ý thức của quý vị để thay đổi. Hôm nay vạn pháp – bất luận là pháp gì, tất cả vạn vật ở nhân gian đều là sự thay đổi trong ý thức của quý vị, và nó làm thay đổi tâm thái của quý vị. Quý vị cảm thấy điều này làm cho quý vị hạnh phúc, trên thực tế thì điều này rất đau khổ, nhưng ở thực tại thì quý vị lại cảm thấy hạnh phúc. Hôm nay quý vị cho rằng sự việc này là một điều xui xẻo, theo cách nhìn nhận của mọi người thì họ rất hâm mộ quý vị về điều này, nhưng bản thân quý vị lại cảm thấy không vui, thực ra quý vị đang tiếp nhận cảm giác không vui này. Có người rất không thích làm lãnh đạo, cảm thấy rất phiền phức, họ cho rằng làm một người quần chúng bình thường thì sẽ không có phiền não gì, nhưng một khi họ được bầu chọn làm người gương mẫu hay lao động gương mẫu, ý thức của họ thay đổi liền cảm thấy rất phiền phức, nên mỗi ngày đi làm đều xụ mặt không vui, khác hẳn với trước đây thường hay cười. Tất cả mọi thứ đều do ý thức của quý vị tạo ra.

Hôm nay Thầy lại tiếp tục nhấn mạnh một số khai thị về thuyết Duy thức cùng quý vị, cũng là để nói cho mọi người biết, Tam giới không phải do một môi trường đặc biệt nào đó tạo ra, chúng không được hình thành bởi một loại Vô duyên thể, tức là không phải do một khối không duyên không phận vô điều kiện mà được hình thành như vậy, thực ra nó cũng là do nội tâm nội hàm của chúng sinh biến hiện, bởi vì đó là nghiệp lực trong bổn tánh của chúng sinh. Vì sao thường hay nói người này thiện có thiện nghiệp, ác có ác nghiệp? Nghiệp lực này không có nghĩa là hoàn toàn đều là ác hoặc hoàn toàn đều là thiện, mà do tâm của quý vị tạo ra hoàn cảnh bên ngoài. Lấy một ví dụ đơn giản, cái tâm này của quý vị là một tấm gương, hôm nay quý vị chiếu kiến điều thiện, thì trong tâm liền có thiện. Chiếu kiến điều ác, trong tâm liền có ác niệm.

Điều này nhằm nói với mọi người rằng, tâm sẽ thay đổi, tâm sẽ tạo ra nghiệp cho quý vị. Vậy nên cho dù Tam giới có hiển hóa ra sao trong tâm quý vị, thì cũng do chính quý vị tạo thành. Đây là điều mà Sư phụ thường nói với mọi người, đau khổ cũng là do quý vị tạo thành, hạnh phúc cũng là nghiệp của chính quý vị tạo thành. Nhiều người đau khổ trách móc người khác, chính mình làm sai lại đi trách người khác, còn khi hạnh phúc đến thì đều nói mình làm đúng. Thật ra đúng hay sai chỉ là những khái niệm trừu tượng. Bởi vì có một số sự việc đúng với hiện tại nhưng trong quá khứ lại là sai, do thời đại hiện nay đã khác nên sự việc này đúng với hiện tại. Có một số việc là sai ở hiện tại, nhưng đúng vào thời đại quá khứ. Nhiều điều là như vậy đấy, chỉ là do tâm thức của quý vị thay đổi mà thôi. Ví dụ, bây giờ Thầy nói với quý vị việc này có thể làm, và tâm thức quý vị nói: “Được rồi, tôi đang làm việc này”. Một lát sau Thầy lại nói việc này không thể làm, lúc này bổn tánh của quý vị đã và đang thay đổi, thảy đều do tâm tạo ra, quý vị liền cảm thấy: “Đây là sai, tôi không thể làm”. Rõ ràng trước đây có thể làm, hiện tại lại không thể làm, đây chính là ý thức của quý vị đã và đang thay đổi.

Vì vậy, những biểu hiện trong Tam giới đều là nghiệp do bản thể tạo ra, hay còn gọi là tự tướng – là chân tướng của chính mình; chúng ta biểu hiện nó theo cách thông thường ở bên ngoài của mình (tức là nếu hôm nay nội tâm quý vị có ý niệm, thì nó sẽ xuất hiện ở hoàn cảnh bên ngoài trong nội tâm của quý vị), nó được gọi là cộng tướng hay còn gọi là phổ quát. Phần trước Sư phụ đã nói với mọi người về sự đối lập của thuyết Nhị nguyên. Thuyết Nhị nguyên này là “Năng” và “Sở”. Lần trước Thầy đã nói với mọi người rằng những thay đổi trong hoàn cảnh là tồn tại một cách khách quan, còn những thay đổi trong tâm là tính năng động ​chủ quan. Môi trường tồn tại một cách khách quan gọi là Tướng phần (khách quan); nếu tâm của quý vị là tính năng động chủ quan thì quý vị đã hiểu nó, gọi là Kiến phần (chủ quan). Ví dụ: “Ồ, sao hôm nay trời lại mưa rồi?” Nhiều người tưởng rằng mưa thì không tốt; nhưng vì nơi này hạn hán và đã lâu không mưa. Đối với người khác họ sẽ nghĩ là “Trời mưa là điều tốt, được tưới nước cam lồ rồi”. Thế thì tâm là kẻ chủ quan. Nếu quý vị cho rằng hôm nay mưa là tốt thì nó là cam lồ, nhưng nếu tâm quý vị cho rằng hôm nay mưa là xấu, thì đó là Kiến phần (chủ quan), bởi vì chính quý vị có thể nhìn thấy được quan niệm, những gì thấy và làm của bản thân. Điều tuyệt vời của thuyết Duy thức là ở chỗ nó chia Tâm thức của con người thành nhiều loại: những gì quý vị nhìn thấy bằng mắt, những gì quý vị nghe bằng tai, những gì quý vị cảm nhận bằng mũi, lưỡi, cơ thể, ý thức của chính mình, cũng như ý thức Mạt-na (thức thứ bảy) và ý thức A-lại-da (thức thứ tám). Thực ra, những điều này sẽ trở thành một kiểu nhận biết cá thể, hoặc cũng có thể trở thành một kiểu nhận biết tổng thể, nó chính là Tướng phần và Kiến phần

Nhìn từ một góc độ thống nhất, dù là Kiến phần hay Tướng phần thì tất cả đều là một thân tâm biến hiện ra. Đôi khi là tâm bên ngoài đóng vai trò, đôi khi là tâm bên trong đóng vai trò. Tâm bên ngoài là điều kiện để thay đổi, còn tâm bên trong là cơ sở để thay đổi. Lấy một ví dụ đơn giản, hai người bạn thường cãi nhau về một số việc nào đó, vậy họ có muốn làm bạn với nhau tiếp tục nữa không? Hình tướng bề ngoài cho mọi người biết là họ “cãi nhau”; còn hình tướng bên trong thì: “Ai da, vấn đề là không có tính nguyên tắc, chỉ là một số quan điểm bất đồng mà thôi”, cuối cùng sẽ không có thay đổi cơ bản nào khởi lên trong tâm họ, điều đó có nghĩa là hai người bạn có thể tiếp tục là bạn của nhau. Dù tình trạng bên ngoài có gây nhau, cãi nhau đến mấy, nhưng bản thân vẫn cho rằng điều đó không quan trọng: “Chúng ta vẫn là bạn tốt của nhau”. Đây chính là Nội tướng tức là hình tướng bên trong của quý vị.

Vì thế, cái thấy và hình tướng thực ra là do tâm hành động, và tâm là một thể. Tâm bên ngoài quý vị nhìn thấy màu sắc, hình dạng, quan điểm hoặc kích thước của một vật nào đó, hoặc mắt quý vị thấy vật này thật khủng khiếp, và tai quý vị nghe người khác nói, “Ồ, thật xấu hổ, tất cả mọi người đang nói về tôi.” Đó là phần thị giác, chỉ là một phần trong Kiến phần và Tướng phần của quý vị mà thôi. Điều thực sự làm thay đổi quý vị chính là phần chủ quan trong nội tâm của quý vị. Nếu quý vị cho rằng vấn đề này quan trọng thì nó quan trọng. Vì vậy, dù người khác có nói với quý vị những lời độc ác bao nhiêu đi nữa, hay họ có nói gì về vấn đề này, nếu tâm quý vị không coi trọng nó, thì chuyện này sẽ không được coi trọng. Cũng giống như trước đây nhiều người từng làm trong công xưởng đã đến gặp xưởng trưởng và nói: “Thưa xưởng trưởng, tình trạng dột nước trong xưởng rất nghiêm trọng”. Nếu xưởng trưởng không để ý đến vấn đề này thì sự việc này cũng không quan trọng. Nếu xưởng trưởng nói: “Ồ, sao để như vậy được?” Vậy thì chuyện này lập tức được xem trọng. Thực ra là một tâm, Kiến phần và Tướng phần đều thuộc về một thể. Vì vậy, cũng giống như nằm mơ, trong giấc mơ con người chúng ta sẽ theo bản năng cho rằng những thứ mình nhìn thấy là thật, và cho rằng những thứ này tồn tại độc lập với nhau. Theo tâm lý học, nếu hôm nay quý vị có một giấc mơ đẹp, đi đến một nơi nào đó và cảm thấy rất hạnh phúc thì quý vị cho rằng đây là điều tồn tại trong giấc mơ; thực ra khi quý vị tỉnh dậy, chuyện vui vẻ mà quý vị nhìn thấy trong mộng cùng cảnh giới nhìn thấy toàn bộ đều đã bị biến mất, không còn nữa. Vậy thì giấc mơ này và trước khi quý vị tỉnh giấc, nó là một tổng thể không thể tách rời. Hãy thử nghĩ xem, nếu giấc mơ không tiếp tục thì quý vị sẽ thức dậy rồi; nếu giấc mơ này có thể tiếp tục và khiến quý vị luôn vui vẻ thì quý vị sẽ rất hạnh phúc trong hoàn cảnh đó, và đó cũng là “Kiến phần” của chính quý vị. Bởi vì kiến ​​giải của quý vị đã làm cho quý vị vui và quý vị cho rằng đây là thật nên quý vị liền hạnh phúc.

Tướng chỉ là một vẻ bề ngoài, để cho quý vị hiểu, để cho quý vị biết. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị thấy người này nhìn chằm chằm vào mình và quý vị cảm nhận anh ta rất thích quý vị, chỉ cần quý vị có cái Tướng phần này, (tức là có đối tượng nhận biết này), dùng Kiến phần của chính mình để lý giải nó, “Tôi biết anh ta thích tôi”, khi đó quý vị sẽ sinh ra một loại yêu thích, đây chính là biện chứng, là một khái niệm trong tâm lý học. Khi còn bé Thầy từng nghe qua một câu chuyện cười, nói một người đàn ông có rất nhiều vết rỗ trên mặt, không biết đã tìm bao nhiêu cô bạn gái rồi, nhưng đều bị người ta bỏ. Kết quả là vào một ngày nọ, có người giới thiệu cho cậu ấy một giáo viên mẫu giáo, sau khi hai người gặp nhau, cậu ta liền nói với cô: “Ngày mai chúng ta còn có thể gặp nhau nữa không?”, cô giáo viên đáp: “Được rồi, tối mai được không? Đừng quá muộn, trước khi trời tối chứ? 5 giờ. Chúng ta vẫn gặp nhau ở chỗ cũ”. Người đàn ông kia mừng như mở hội. Trên thực tế về tâm lý học mà nói, tâm ý của cậu ta đạt được thỏa mãn, cậu ta nhìn thấy cái tướng này, tức là tai nghe được cô giáo viên muốn hẹn với mình và mắt đã nhìn thấy “Cô ấy nhìn tôi hài lòng, nên tối mai mới đồng ý hẹn gặp lại”, cái Tướng phần và Kiến phần này, chính là “Tôi nghĩ cô ấy vẫn còn chấp nhận tôi”. Qua ngày hôm sau, trời còn chưa tối, cô giáo dẫn theo một đám học trò ở trường mẫu giáo tới, người đàn ông kia vừa nhìn cô liền thốt lên: “Cô dẫn theo nhiều học trò như vậy tới đây làm gì? Chúng ta yêu đương…” Cô giáo không thèm đếm xỉa tới cậu ta, liền hướng về phía các bạn nhỏ và nói: “Các em hãy ngẩng đầu lên nhìn chú này một chút.” Sau khi bọn nhỏ nhìn xong, cô giáo nói: “Nếu bây giờ các em không chịu tiêm phòng, sau này lớn lên, sẽ giống như chú này có đầy vết rỗ trên mặt.” Cái Tướng này của cậu ta là cái Tướng mà làm cho cậu ta hiểu lầm, là cái Tướng không có nhận biết; Phần tức là ý thức phân biệt nội tâm của cậu ta sinh ra ảo giác. Đây chính là tâm lý học, cậu ta là ý thức trực quan, không có khúc chiết – tức là ý thức khúc quan.

Vậy nên Sư phụ nói với mọi người, Phật Đà dạy chúng ta rằng ngoại tướng có thể làm ảnh hưởng đến nội tâm của chúng ta, tức là tâm quý vị đang chuyển động, thì những gì quý vị nhìn thấy cũng đang chuyển động trong tâm quý vị, và những gì quý vị không thấy cũng đang vận hành trong tâm quý vị. Phật Đà dạy cho chúng ta biết: “Tâm sinh tắc cảnh sinh”, chỉ cần tâm có sinh khởi, cảnh giới liền sinh khởi, hôm nay quý vị khởi sinh phiền não, liền có phiền não; “Tâm diệt tắc cảnh diệt”, hôm nay quý vị nghĩ chuyện này không còn nữa, thì nó sẽ biến mất. “Cảnh sinh tắc tâm sinh”, khi quý vị nhìn thấy hoàn cảnh này, tâm của quý vị sinh khởi ra một số ý tưởng, vậy thì tâm của quý vị liền khởi sinh ra; “Cảnh diệt tắc tâm diệt”. Lấy một ví dụ đơn giản, buổi tối ở một nơi nông thôn vắng vẻ, quý vị không nghe thấy tiếng động gì, đột nhiên từ một nơi rất xa có một chiếc xe ô tô chạy tới, đường nông thôn rất tối, và không có ánh đèn nào cả, quý vị nhìn từ xa thấy chiếc xe hơi này chỉ có một bóng đèn, bởi vì bóng đèn còn lại đã bị hỏng, quý vị chỉ nhìn thấy một ánh đèn từ rất xa cứ chập chờn, hơn nữa vì khi xe chạy ven đường có rất nhiều cây cối, nên ngọn đèn này lúc sáng lúc tắt, trong tâm quý vị có thể sẽ khởi sinh: “Ôi chao, có phải là đã nhìn thấy vong linh gì rồi không?” Thật ra đó chỉ là một chiếc xe ô tô có một bóng đèn, chạy ngang qua rất nhiều cây cối nên nó nhấp nháy – đây chính là tâm quý vị khởi sinh ra. Khi nó chạy đến trước mặt quý vị: “Ôi, là một chiếc xe chỉ có một bóng đèn”, cảnh không còn nữa, tâm cũng diệt mất rồi. Cũng giống như mối hận thù của quý vị đối với một người ngày hôm nay vậy: quý vị hận họ, đợi đến khi họ bước tới và nói: “Chuyện này không phải tôi nói mà người khác nói đấy, bạn đừng hiểu lầm tôi”, cái cảnh này của quý vị liền bị tiêu diệt.

Vì vậy Đức Phật nói tâm con người: “Tâm tức là cảnh, cảnh tức là tâm”. Hoàn cảnh chính là tâm của quý vị, và tâm của quý vị chính là hoàn cảnh. Nên khi chúng ta chú ý đến một điều gì đó trên thế gian này, có thể tâm chúng ta vẫn còn đó. Khi mắt chúng ta nhìn thấy, tâm liền rung động; khi tai chúng ta nghe thấy, tâm lại rung động. Đó là lý do tại sao nói “Nếu không nhìn thấy, thì sẽ không cảm nhận được”. Vậy nên không nhìn thấy thì tâm sẽ không bị vướng mắc, nếu không nghe người khác nói, quý vị liền có cảm giác trống rỗng, trong tâm liền có sự trống rỗng. Hơn nữa cảm giác trống rỗng trong một thời gian dài sẽ tạo ra một môi trường tích cực với năng lượng tích cực trong tâm quý vị, đó gọi là Không cảnh. Mặc dù Không cảnh không giống với Sắc cảnh ở phàm trần, Sắc cảnh tức là hôm nay tôi đã thấy rất nhiều bữa tiệc, rất nhiều người, rất nhiều cửa hàng và ánh đèn neon, nên tôi rất hạnh phúc, nhưng Không cảnh là một cảnh giới cao quý ở trong tâm. Bởi vì khi một người thường để tâm ở trạng thái trống rỗng sẽ không gặp phiền não, còn một người lăn lộn trong thế giới phàm trần phiền não sẽ không rời họ. Vậy nên, chúng ta cam nguyện tu tâm tu đến trạng thái Không cảnh, vì loại cảnh giới này mới là căn nguyên siêu thoát lục đạo trong tương lai của chúng ta.

 

Tập 100
TÂM VẬT NHẤT NGUYÊN, PHẢN QUY BỔN TÁNH
(Khi tâm và vật tập trung thống nhất sẽ quay về tính cách vốn có ban đầu)

(04/07/2020)

Điều quan trọng nhất trong việc tu tâm là trau dồi cương lĩnh. Bận rộn tu tâm cả buổi, vậy rốt cuộc cương lĩnh của tu tâm là gì? Đó là như như bất động. Theo truyền thống cổ xưa đã từng có câu: “Cảm nhi toại thông, tịch nhiên bất động”. Thực ra là để cho chúng ta hiểu: ngày nay, đối với mọi sự việc, trước tiên chúng ta phải có cảm giác và phải dụng tâm mà làm, chỉ cần chúng ta chậm rãi cảm nhận, chậm rãi làm thì suy nghĩ của chúng ta sẽ dần trở nên nghiêm túc, ý nghĩ sẽ thay đổi và làm sáng tỏ mọi việc; “tịch nhiên bất động”, nghĩa là tâm quý vị sẽ như như bất động sau khi yên lặng. Vậy nên, một người có thể yên tĩnh thì họ sẽ không có hành động gì; nếu tâm của một người đã rung động thì họ sẽ có hành động. Hai câu này thực chất đã tóm tắt lại lý luận cơ bản về “Tâm vật nhất nguyên” trong triết học văn hóa truyền thống cổ xưa. “Tâm vật nhất nguyên” là gì? Nó có nghĩa là tâm lý và vật thể thực ra được kết hợp thành một, cả hai đều xuất phát từ tâm, đây là lý luận cơ bản. Trên thực tế, điều này nói về tự tánh và bản tánh của sinh mệnh, nó là tịch nhiên bất biến và nó là như như bất động. Nghĩa là nói cho chúng ta biết bản chất nội tại của con người vốn là bất di bất dịch, lẽ ra chúng ta nên giữ vững và không nên ồn ào. Người như như bất động sẽ không cãi vã, người như như bất động sẽ không giở trò hay xích mích với người khác. Vậy nên phải hiểu rằng bổn tánh sẽ không bao giờ thay đổi. Chỉ khi quý vị tịnh lại, quý vị mới cảm nhận được sự tồn tại của bổn tánh. Khi quý vị gặp phiền não sẽ không thể tìm thấy được bổn tánh của mình. Khi dục vọng của quý vị phình trướng, quý vị sẽ mất đi bổn tánh và Phật tánh của mình. Vậy nên chỉ có sự yên lặng mới có thể làm cho người ta bất động.

“Như như bất động, cảm nhi toại thông”. Sư phụ đưa ra một ví dụ, khi chúng ta để mắt và lực chú ý vào một vật thể nào đó, chúng ta sẽ thấy được vật thể này vô cùng rõ ràng tường tận. Lỗ tai của chúng ta cũng sẽ “cảm nhi toại thông”, nói cách khác thực ra chỉ cần quý vị dụng tâm, quý vị muốn nghe giọng nói của ai thì có thể nghe được giọng người đó nói chuyện, mắt của quý vị muốn nhìn ai, quý vị có thể nhìn thấy được người đó. Lấy một ví dụ đơn giản, trước đây chúng ta muốn xem một ai đó thật không dễ dàng, hiện tại có dễ dàng không? Bây giờ quý vị muốn nhìn ai, chỉ cần lên mạng, cái gì cũng thấy được. Quý vị nghĩ đến ai, chỉ cần mở mạng Internet ra lập tức có thể nhìn thấy. Đây không phải là “cảm nhi toại thông” sao? Tai chúng ta có thể lắng nghe bất cứ ai chúng ta muốn, “Hôm nay tôi không muốn nghe bạn nói, bạn không dễ thương, tôi không nghe nữa. Tôi muốn nghe Sư phụ giảng, nên tôi nghe Sư phụ thuyết giảng”, quý vị liền có thể nhắm vào giọng nói của người mà quý vị muốn nghe. Thực ra là để nói cho chúng ta biết, khi chúng ta dùng nội tâm chú ý vào một việc nào đó, chỉ cần dụng tâm cùng thành ý đạt tới trình độ nhất định, sẽ có một loại năng lực nhận thức. Đây chính là lý do chỉ cần tâm thành tắc linh. Ngày nay chúng ta quỳ trước Bồ Tát, chỉ cần thành tâm thành ý, thì chúng ta sẽ có khả năng cảm nhận được rằng Bồ Tát biết chúng ta đang cầu xin Ngài, khi đó chúng ta liền có thể hiểu được “cảm nhi toại thông”. Mọi người có hiểu Sư phụ nói gì không? Đó là khi quý vị đã cảm nhận được một điều gì đó, khi toàn bộ tinh thần và sinh lực của quý vị đều tham gia, toàn bộ sự chú ý đều dùng để phán đoán một điều gì đó, thì sự nhạy cảm của quý vị sẽ đến. Ví dụ, khi quý vị không bao giờ đề phòng người bạn này, thì quý vị sẽ không có chút nhạy cảm gì. Nhưng nếu có người nói với quý vị: “Hôm nay bạn phải cẩn thận, anh ấy sẽ nói xấu bạn trước mặt nhiều người, cho nên hôm nay bạn tuyệt đối không nên xúc phạm với anh ấy. Nếu bạn nói hơi xúc phạm tới anh ấy, anh ấy sẽ ngay lập tức mắng bạn trước mặt mọi người”. Lúc này đến bữa tiệc quý vị sẽ đặc biệt cẩn thận, sợ chọc giận anh ta, vì thế cũng không dám nói chuyện với anh ta. Có phải quý vị có cái “cảm nhận” như vậy rồi không? Đây chính là điều Sư phụ nói với mọi người, một người chỉ khi có được tĩnh lặng mới có thể phát hiện ra bảo bối, một người chỉ khi sinh lực của họ đều chú tâm vào một điểm nào đó, họ mới có thể cầu xin Bồ Tát quan tâm từ bi đối với họ, họ có thể cảm nhận được.

Sư phụ đã từng kể một câu chuyện nhỏ trong Pháp hội, kể rằng có một người cha trước khi đi làm không còn kịp giờ, ông ta vì tìm đồng hồ đeo tay, tìm tới tìm lui không thấy, nên nổi giận ném đồ đạc tứ tung. Con trai ông sợ hãi đến nỗi ngồi một góc không dám lên tiếng. Cuối cùng đứa trẻ nói: “Bố ơi, đồng hồ ở đây ạ.” Ông bố đáp: “Bố vừa mới tìm ở chỗ này mà!” Ông cảm thấy kỳ lạ, chiếc đồng hồ bị đè dưới bộ quần áo, làm sao đứa trẻ này biết được nhỉ? Người cha hỏi: “Con trai à, làm sao con biết được chiếc đồng hồ ở đây?” đứa trẻ nói: “Bố ơi, con ngồi đây yên lặng không nói gì, vì vậy con mới nghe được tiếng kim giây đang chạy.” Đó là những gì nói với chúng ta, một người tĩnh lặng có thể sinh tuệ và yên tĩnh mới có thể khám phá được hoạt động bên trong nội tâm của chính mình. Trong lòng quý vị đang suy nghĩ gì, có đôi khi quý vị không thể nào khống chế được. Chỉ có sự yên tĩnh, mới có thể biết được mình đang suy nghĩ điều gì. Có đôi khi yên tĩnh lại, cảm thấy “Sao mình có thể nghĩ như thế? Sao mình lại nghĩ lung tung thế nhỉ? Sao mình lại nghĩ về người khác như vậy?”, chính mình cũng cảm thấy hổ thẹn, bởi vì trí tuệ đã xuất hiện sau khi quý vị đã an tịnh. Vậy nên để nghiệm chứng Phật pháp, quý vị chỉ có thể cảm nhận được sự tồn tại của Phật giáo bằng cách dựa vào sự yên tĩnh, như như bất động. Người an tĩnh có thể nhìn thấy Phật, người an tĩnh có thể cảm nhận được Phật ở trong tâm họ, có thể cảm nhận được trí tuệ trong bổn tánh. Vì sao tĩnh có thể sinh tuệ – yên tĩnh có thể sinh ra trí tuệ? Tại sao phải tịch diệt chứ? Thực ra tịch diệt chính là Niết-bàn và đã triệt ngộ chân lý. Vậy thì, trong Phật giáo truyền thống tịch mịch bất động và như bất động chính là Niết-bàn, là một loại trí tuệ, một sự nâng cao về cảnh giới và là một chân lý.

Thầy lại nói thêm với mọi người rằng khi Niết-bàn rồi (nếu người này đã Niết-bàn thì sẽ không còn nữa; ngôi nhà mà quý vị yêu thích không còn nữa nghĩa là nó đã tịch diệt rồi), thì tất nhiên tâm quý vị sẽ như như bất động. Ví dụ, ban đầu quý vị lo lắng về ngôi nhà này, nhưng cuối cùng ngôi nhà đã bị người trong gia đình bán đi, không còn nữa, vậy thì quý vị cũng sẽ buông bỏ nỗi lo này; Quý vị lo lắng vấn vương về một người bạn, cuối cùng cũng có người nói với quý vị rằng: bạn đã nghĩ về người đó cả đời, hơn nữa họ đã đi rồi, có phải khi đó quý vị sẽ như như bất động và buông xuống rồi không? Đạo Phật dạy chúng ta con người đến cuối cùng cũng sẽ tịch diệt, và tất cả sẽ không còn nữa. Tại sao hiện tại quý vị lại phải vướng mắc? Tiền bạc của quý vị sẽ dùng hết, một ngày nào đó ngôi nhà của quý vị sẽ không còn là của quý vị nữa, thân xác của quý vị cũng không còn là của quý vị nữa, mọi thứ mà quý vị sở hữu sẽ mất đi, vậy tại sao quý vị lại giữ nó trong tâm trí mình? Vậy nên, Phật giáo nói về sau này, chìa khóa trí tuệ của nó nằm ở chỗ “Đáng lẽ tôi phải yên tĩnh, tôi không nên động tâm này, bởi vì tâm nguyên thủy của tôi đáng lẽ phải như như bất động, dù là nhà hay người, nó cũng phải như như bất động đối với tôi.” Nó giống như sự thức tỉnh ban đầu. Vậy nên không thể vì một việc, vật hay người nào đó mà khơi dậy lòng mong muốn của bản thân, phải biết rằng tất cả đều là khổ-không-vô thường. Sư phụ sẽ lấy một ví dụ đơn giản. Khi đứa trẻ mới vừa lên 5 và hiểu được chút chuyện, có người nói với nó rằng: “Khi đến thế giới này con chẳng có gì cả. Bây giờ con còn muốn gì?” Có lẽ đứa trẻ này sẽ nghĩ: “Phải đấy, con chẳng có gì cả.” Đợi đến khi đứa trẻ này lớn lên có nhà, có xe, có vợ, có con… có đủ mọi thứ trong đời, lúc đó nó liền không thể buông bỏ được nữa.

Vậy nên phải hiểu được nguyên lý tịch diệt, nói cách khác đó là Quy Nguyên – Quy về 0. Vì thế, sao gọi là “Nguyên Đán”? Đó là một khởi đầu mới, Nguyên nghĩa là Quy Nguyên. Điều này nói với chúng ta rằng chỉ cần quý vị có tâm tĩnh lặng, thì thực ra quý vị sẽ thấy không có ai hay sự vật nào trên thế giới này đang thay đổi mà nó vẫn như cũ, như như bất động. Lấy một ví dụ đơn giản, hôm nay ở đây có những đồng tu nam ngồi bên dưới đã kết hôn, chỉ cần quý vị ngồi ở phía dưới nghe giảng, quý vị nói vợ tôi ở nhà, tôi không có gì đáng ngại. Như vậy thì hãy suy nghĩ một chút, nếu quay về thời hai mươi, ba mươi năm trước quý vị ở một mình, lúc không có cái gia đình này, có phải là quý vị ngồi ở đây chỉ có một mình không? Hôm nay có giống như ba mươi năm trước không? Tâm quý vị không động, không có sự thay đổi. Vậy thì quay về trước đây, lúc quý vị sinh ra chỉ có một mình, lúc chết cũng không có ai đi cùng quý vị, có phải là 1-1 rồi không? Có phải từ nguyên thủy đến kết thúc đều là một? Vì thế gọi là Quy Nguyên.

Vậy nên Sư phụ nói với mọi người những điều này, quý vị lấy cái tâm tĩnh lặng từ nhỏ ra, cuối cùng ra đi, tâm của quý vị trở về tĩnh lặng, vẫn là cái tâm đó. Nó giống như lời của một bài hát: “Tôi vẫn là tôi ban đầu”, quý vị không có gì để mất, và khi quý vị một mình ra đi, quý vị mất gì cơ chứ? Thế giới này vẫn như cũ buổi sáng mặt trời mọc, buổi tối mặt trời lặn. Con người chúng ta cũng vậy, bởi vì tịch diệt không phải là một thứ định tử, nó diệt rồi lại có, có rồi lại diệt. Phật Đà trong Duy thức luận dạy cho chúng ta biết, tâm của con người là biến hóa, hôm nay có được sẽ biến hóa. Vậy nên quý vị phải dùng tâm như như bất động của mình để nhận biết nó, để lý giải nó, biết nó là như như bất động, đến cuối cùng vẫn là Quy Nguyên, có như thế tâm quý vị mới không khởi lòng tham, không khởi tâm hận, không khởi tâm ngu si, quý vị liền có được một loại cảm giác vượt qua thời-không.

Có thể quý vị sẽ không có cảm giác này, Sư phụ sẽ giải thích cho quý vị. Hai người kiện nhau năm năm, mỗi lần nghĩ đến vụ kiện này liền khó chịu, vẫn chưa giải quyết được việc khó này, làm sao bây giờ? Không có cảm giác vượt qua không gian và thời gian. “Kiện tiếp cũng không hẳn là thắng, nên thôi, đi nói chuyện với họ, chúng ta tự giải quyết chuyện này coi như xong, đừng lên tòa nữa”. Lúc này đối phương đồng ý, tất cả mọi người mệt mỏi trong một thời gian dài, sau khi sự việc được giải quyết trong chốc lát, có phải cảm giác thời-không đã được rút ngắn rồi không? Vậy nên, có đôi khi hai vợ chồng kiện nhau, không đi hầu tòa, hai bên đều phái luật sư, vẫn không chịu gặp nhau, không thương lượng, vì không gặp mặt nhau, nên cảm giác khoảng cách của hai người rất xa, có khoảng cách về thời gian và không gian; Nhưng, một khi nghĩ thông suốt, không thể tiếp tục như vậy nữa, họ liền gọi điện thoại, “Chúng ta ra ngoài nói chuyện một chút được không?”, đối phương cũng muốn thương lượng, hai người giải thích mọi chuyện rõ ràng, có phải đã rút ngắn thời-không rồi không? Có phải lập tức hai người liền quay lại với nhau không? Vậy nên có được cảm ứng liền vượt qua thời-không.

Đây là điều mà giới Phật giáo nói đến, chỉ khi mọi cảm giác và rung động mà quý vị có ở bên ngoài và bên trong hay còn gọi là ngoại duyên và nội duyên đều là những cảm ngộ, thì khi đó quý vị mới đạt được giác ngộ; Nếu không có cảm ngộ thì làm sao có giác ngộ? Khởi sinh một loại cảm ngộ về một chuyện nào đó, chính là cảm giác, khi đó quý vị mới có được giác ngộ. Vậy nên, con người chúng ta sống trên thế giới này, tư duy và tưởng tượng của chúng ta đều rời khỏi bản thể, kinh Phật thường xuyên bảo chúng ta quay về với bản thể, bản thể của chúng ta là Phật tánh của chúng ta. Con người đôi khi cãi nhau không giống người, con người khi đau khổ cũng không giống người, bởi vì họ đã rời khỏi bản tính, bản tính chính là Phật tánh của họ. Phật Đà nói: “Chúng sinh đều có Phật tánh”, vì hiện tại đã mất đi Phật tánh, nên mới đánh nhau, mắng chửi như động vật, đã rời khỏi bản tính nguyên thủy của chúng ta.

Vậy nên bất cứ ai làm việc gì cũng phải thực sự hiểu rằng: “Hôm nay tôi làm việc này, cuối cùng cũng sẽ trở về bản thể của chính tôi.” Hôm nay quý vị mắng người khác, cuối cùng người ta sẽ mắng lại quý vị, vẫn là trả về cho quý vị; Hôm nay quý vị đánh người, người ta sẽ tìm người đánh lại quý vị; Hôm nay quý vị hại người, nhất định sẽ bị họ hại lại; Hôm nay quý vị ở trước mặt người khác nói xấu người ta, họ cũng sẽ ở trước mặt người đó nói xấu quý vị. Điều này chính là trở về bản tính của quý vị, trở về bản thân, bản thể của quý vị. Mọi người thử nghĩ xem, con người cả đời có phải như vậy không? Hại nhau đến cuối cùng thì sao? Không còn gì nữa, mất hết rồi. Một người sinh ra từ thời thơ ấu, trải qua cả đời, cuối cùng bước vào tuổi già, vẫn là một. Một mình lẻ loi đến thế giới này, cuối cùng cũng lẻ loi một mình rời đi, mọi người nói cho tôi biết có phải là đã trở về bản thể, trở về bản tính của quý vị, và lặng lẽ biến mất rồi không? Khi về già, an an tịnh tịnh nằm ở trên giường, im hơi lặng tiếng, người này liền biến mất. Sau đó lại đầu thai, lại bắt đầu từ khi còn bé, linh hồn này không có thay đổi, tâm của họ đang yên tĩnh, sau đó lại dần dần bắt đầu đầu thai lại – một lần nữa bắt đầu. Hơn nữa thay đổi là những gì quý vị nhìn thấy trong bản thân của quý vị. Trên thực tế rất nhiều người nói “Tôi đã thay đổi rồi”, thay đổi này chính là Tánh không của quý vị đang thay đổi, bản thể của quý vị không thay đổi, như như bất động. Vậy nên rất nhiều người nói: “Ôi, sao tôi lại không nhận thức được chính mình?”, đúng rồi, bởi vì quý vị bị nhiễm ngoại trần quá nhiều, nghiệp chướng của quý vị quá nặng, nên quý vị không thể thay đổi được tật xấu của chính mình, bản chất của bản thân quý vị đều đã thay đổi, không giống như con người ban đầu. Chỉ cần thay đổi ngoại trần, thay đổi tật xấu của quý vị, vậy thì quý vị vẫn còn có bản tính như như bất động của mình.

Cảm giác của linh hồn luôn đóng một vai trò nào đó trong cơ thể con người chúng ta, nên con người chỉ cần có linh hồn thì sẽ có cảm xúc. Như người ta thường nói “Bạn mất hồn rồi” tức là con người này của quý vị đã không có cảm xúc nữa. “Sao thậm chí đến điều này bạn cũng không hiểu?” “Ồ, thật là, tôi quên mất rồi.” Quý vị đánh mất rồi. Phật giáo so sánh bản tính của chúng ta giống như nước biển. Khi bị gió từ thế giới bên ngoài thổi vào, bản tính của chúng ta sẽ dậy sóng. Đây chính là “Cảm nhi toại thông”. Bởi vì quý vị cảm nhận được những thay đổi của môi trường bên ngoài nên quý vị mới dần dần cảm nhận được: thứ nhất là sự tồn tại bản tính tâm linh của quý vị; thứ hai là quý vị sẽ cuốn theo làn sóng. Nhưng quý vị vẫn có thể nhìn thấy được bản tính của mình. Nếu không có gió thì sẽ không có sóng. Vậy thì khi quý vị vẫn tĩnh lặng như trước, tâm sẽ trở về với đại dương tĩnh lặng. Vậy nên Bồ Tát dạy chúng ta như như bất động. Tại sao phải để gió thổi và tại sao lại dậy sóng? Là vì ​​tâm của quý vị đang chuyển động? Suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta vốn dĩ không suy nghĩ nhiều, nhưng do môi trường ảnh hưởng tác động nên khiến chúng ta suy nghĩ rất nhiều. Lấy một ví dụ đơn giản, quý vị luôn có mối quan hệ tốt với người này, nhưng chỉ cần có một người nói với quý vị rằng anh ta ở bên ngoài đã nói xấu quý vị, thì lúc này tâm quý vị sẽ bắt đầu dậy sóng và quý vị sẽ không thể dùng lời nói, suy nghĩ và hành vi như trước đây để cảm hóa và giúp đỡ người bạn này. Điều này là do tâm của quý vị bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh nên đã chuyển động và quý vị sẽ sản sinh ra rất nhiều năng lượng tiêu cực. Tương tự như vậy, khi quý vị nghe người khác nói người đồng nghiệp này rất tốt với quý vị, thầm cầu nguyện và làm điều gì đó cho quý vị, lúc này trong lòng quý vị sẽ có năng lượng tích cực. Đây cũng là một loại dậy sóng, ngưng tất cả cơn sóng trên thế gian cuối cùng sẽ có xu hướng bình yên như biển lặng. Sau khi suy nghĩ và cảm xúc của một người bình tĩnh lại, thì suy nghĩ và cảm xúc của người đó sẽ yên ổn. Một khi có sự cãi vã thì họ sẽ mất đi lý trí; khi họ không cãi nhau nữa sẽ bình tĩnh trở lại, lúc đó cảm xúc hỷ nộ ái lạc của họ liền “tịch nhiên bất động”.

Tập 101
TRỪ TÂM CẤU NHIỄM, HÀNH TỨC THANH TỊNH
(Chỉ cần loại bỏ dơ bẩn trong tâm, hành vi sẽ trở nên vô cùng sạch sẽ)

(04/07/2020)

Niềm vui, nỗi buồn của con người đều xuất phát từ tâm, vạn vật do tâm tạo ra. Tâm thức của quý vị đang thay đổi, tâm thức của quý vị nghĩ rằng “Tôi hiện tại rất yên tĩnh, tôi hiện tại rất yên tĩnh”, có thể quý vị liền được yên tĩnh. Tâm của quý vị nghĩ rằng “Sao tôi lại bực bội như vậy, tôi không kiểm soát được nữa”, thì thật sự quý vị sẽ không kiểm soát được chính mình. Đây chính là tâm của quý vị. Vậy nên, những suy nghĩ, sự phân biệt và quan niệm bên trong của quý vị sẽ gây ra những làn sóng trong tâm quý vị. Giống như một đứa trẻ khi sinh ra nó không có suy nghĩ gì, tâm của nó tĩnh lặng như đại dương. Nhưng khi lớn lên, giữa những thăng trầm của cuộc đời, đứa trẻ ngày càng tiếp xúc với nhiều thứ hơn, nên ý thức chủ quan của nó bắt đầu thay đổi, ý thức thứ sáu bắt đầu trưởng thành. Khi ý thức thứ sáu của nó dần dần phát triển và sau khi trưởng thành, nó dần biến thành thói quen tư duy, vì thế nó liền sinh ra hỷ nộ ái lạc. Tại sao gọi là thói quen tư duy? Trước đây các nhà khoa học đã làm một thí nghiệm. Họ nói với một đứa trẻ con “khóc” đi, nhưng họ lại làm bộ mặt “cười”. Tiếp đó họ nói với trẻ: “Con cười đi, bây giờ con bắt đầu cười đi”, nhưng họ lại làm bộ khóc cho trẻ xem. Đứa trẻ này căn cứ vào cách dạy đó, nó sẽ khóc khi họ nói “cười” và nó sẽ cười khi họ nói “khóc”. Đây là một loại tư duy theo thói quen, đây là ý thức thứ sáu đang chậm rãi phát triển. Về sau quý vị tiếp nhận tư duy theo thói quen nào hay còn gọi là “hậu thiên”, quý vị liền sinh ra hỷ nộ ái lạc đó.

Ý thức thứ sáu của con người thực ra là một loại giác quan thứ sáu. Chúng ta thường nói giác quan thứ sáu là một điểm đan xen của sự tổng hợp cảm xúc. Tình cảm của con người vô cùng phức tạp, vừa có hận, vừa có si, vừa có tham, có đôi khi lại cảm thấy rất hạnh phúc. Vì sao có người mặt dày? Khi họ lừa dối người khác, mà họ vẫn đang nghĩ: “Không phải là tôi cũng đã từng bị người ta lừa dối sao? Cho nên việc tôi lừa dối anh ta là điều hiển nhiên rồi”. Tất cả những điều này, khi ý thức của quý vị – bao gồm ý thức bẩn và sạch này tồn tại trong ý thức thứ sáu, thực ra quý vị phải học cách sắp xếp cũng như hóa giải những khúc mắc, chỉnh đốn sạch sẽ các cảm xúc trong ý thức thứ sáu của mình một cách nhanh chóng trước khi chúng tiến vào ý thức thứ bảy, phải quay trở về tự tánh, trở về bản thể. Phật pháp nói đó là tìm về bổn tánh của chính mình, chỉ khi tìm về bổn tánh của chính mình, quý vị mới có thể có được Phật tánh.

Sư phụ hiện đang nói với mọi người về tư tưởng. Có nhiều điều quý vị vốn dĩ không nghĩ đến, bởi vì những lời Sư phụ nói đã khơi dậy tư duy của quý vị. Nếu Sư phụ không nói về vấn đề này, quý vị sẽ không nghĩ về nó từ khía cạnh này, đúng không? Một khi nghe Thầy nhắc đến, quý vị liền nghĩ về điều đó từ khía cạnh này, quý vị sẽ sinh tâm phân biệt đối với lời nói của Sư phụ. Một số người cảm thấy điều Sư phụ nói là đúng, trong khi những người khác cho rằng điều đó là sai. Vậy có phải đã sinh ra ý thức phân biệt đối với lời Sư phụ nói rồi không? Vậy nên bắt đầu từ “nói đúng” và “nói sai” đó chính là “cảm nhi toại thông”. Tất cả đều bắt đầu từ cảm giác. Cảm giác này của con người khiến suy nghĩ của họ dần dần thay đổi theo quan niệm nào đó về cảm giác. Ví dụ, khi tôi nhìn thấy một người nào đó, ban đầu tôi không nghĩ anh ta ăn giỏi như vậy, tiếp theo đó mỗi lần gặp nhau, tôi đều thấy anh ta ăn rất nhiều. Vậy nên, tôi dần dần bắt đầu suy nghĩ và cảm nhận được khái niệm “Ôi! Sao người này lại ăn nhiều vậy?” Mỗi lần gặp nhau đều cảm thấy “Sao lại ăn nhiều vậy” vậy thì cái “nhiều vậy” này là một khái niệm. Khi đó trong lòng tôi sẽ có sự thay đổi, ngay khi nhìn thấy anh ta, liền khởi lên một khái niệm gọi là “ăn nhiều”. Vậy nên sau khi ý nghĩ thứ nhất khởi ra, người học Phật phải biết chuyển hoá, tức là sau khi ý nghĩ thứ nhất đã khởi ra và trước khi ý nghĩ thứ hai chưa bắt đầu hình thành (giữa hai ý nghĩ với nhau) thì nhất định phải nhận thức rõ ràng, đây là một thế giới hư ảo, để dùng ý nghĩ sau chuyển hóa ý nghĩ trước của mình.

Sư phụ phải đưa ra ví dụ cho mọi người rồi, vì bài giảng rất sâu sắc. Ví dụ, hôm nay khi quý vị đang nghĩ về một vấn đề nào đó trong Phật pháp, chẳng hạn như việc ăn chay, “Ăn chay là tốt, nhưng tại sao người ăn chay lại ăn rau? Rau xanh cũng có sinh mệnh, và thực vật cũng vậy”. Được rồi! ý thức đầu tiên của quý vị đã bắt đầu suy nghĩ qua rồi”. Ý thức thứ nhất là “Ăn chay là tốt”; ý thức thứ hai là “Ăn chay thì thực vật cũng có sự sống, vậy chúng ta đang ăn thực vật có phải vậy không?” Đây chính là ý thức thứ hai. Trước khi ý niệm thứ hai bắt đầu, quý vị phải thấy rõ đây là thế giới hư ảo, tức là phải nghĩ rằng niệm thứ hai là sai lầm. Quý vị phải nhận biết cái ý nghĩ: “Chúng ta không sát sinh mà ăn chay” nên niệm thứ hai của quý vị – nghĩa là phải theo sát cái ý nghĩ này, phải hoàn toàn quay trở lại lý thuyết cơ bản về “Nhất Nguyên”, tức là quay trở lại cái lý luận “ăn chay là tốt” mà quý vị vừa nhận ra ngay từ ban đầu, và không nên khởi sinh ra giả tưởng thứ hai, sau đó thay thế suy nghĩ thứ hai bằng suy nghĩ đúng đắn thứ ba. Đây là lý do tại sao khi một số người cãi nhau, sau khi thốt ra lời chửi mắng đầu tiên, họ liền nhận ra lời chửi mắng đó là sai và tiếp đó họ sẽ nói một câu nhẹ nhàng hơn để không tiếp tục cãi nhau với người khác nữa. Khi quý vị nghe người khác nói điều gì đó không tốt về quý vị, suy nghĩ đầu tiên của quý vị là “Sao tôi lại tệ rồi? Họ lại nói những điều vô nghĩa về tôi”. Khi ý nghĩ thứ hai của quý vị muốn đi chỉ trích và tranh cãi với họ, khi suy nghĩ này vẫn chưa xuất hiện trước đó, phải lập tức nghĩ đến: “Tôi phải nghĩ thông, tôi phải hủy bỏ ý nghĩ thứ hai của mình”, thì quý vị sẽ nghĩ ngay “Ai cũng bị người khác phán xét”, và sử dụng năng lượng suy nghĩ tích cực quay trở về bản thể để hủy bỏ ý nghĩ thứ hai, trên thực tế, nó có nghĩa là “tịch nhiên bất động “. Tức là quay về ý nghĩ ban đầu và đừng để ý nghĩ thứ hai làm quấy nhiễu ý nghĩ ban đầu của mình, đây gọi là “tịch nhiên bất động”. Tức là, khi một người đã bình tĩnh lại, dù có mắc lỗi ở một câu nói nào thì cũng không nên bù đắp ở câu thứ hai, càng bù càng tệ, được gọi là “tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông”.

Khi ý nghĩ thứ nhất vừa mới bắt đầu khởi lên, quý vị có thể ngay lập tức tìm thấy bổn tánh của sự vật và tìm thấy Phật tánh, sau đó chuyển suy nghĩ của quý vị đến trạng thái thanh tịnh bất động. Đó là gì? Hãy giữ suy nghĩ của mình ở nơi sạch sẽ nhất, kiểm soát trạng thái tâm lý của chính mình. Đây chính là “Chỉ quan” (ngừng quan sát) mà giới Phật giáo thường nói, bảo quý vị đừng tiếp tục nhìn nữa. Bảo quý vị “chỉ ngữ” (ngừng nói) đừng nói nữa. Đây là tham thiền, đây là tâm nhẫn nhục trong sáu Ba-la-mật. Tư tưởng quan niệm của nhà Phật nói rằng, khi ý nghĩa vừa khởi lên thì phải có tu dưỡng, phải có tâm tinh tấn nhẫn nhục, lại phải có công đức tĩnh lặng. Rõ ràng biết rằng dục niệm sẽ khiến quý vị bốc hỏa, cãi vã, nên dùng tâm bình tĩnh tĩnh lặng của mình để kìm nén cơn giận đang dâng trào trong lòng và điều chỉnh nó, từ đó hình thành tâm nhẫn nhục. Phật pháp nói đi nói lại, suy cho cùng vẫn là dạy cách làm người, nếu quý vị có khả năng thấu hiểu nội tâm này, quý vị có còn tranh cãi với người khác không? Có còn cãi nhau với người khác nữa không? Từ xưa đến nay đã có rất nhiều Cao Tăng Đại Đức chính là dựa vào nội hàm, nội tu, thiền định, để bài trừ biết bao tâm cống cao ngã mạn, bài trừ biết bao tham sân si mạn nghi khi còn tu tập ở thế gian này. Đây chính là tâm bên trong phải giống như Kim Cang Bát Nhã, như như bất động.

Hôm nay Thầy muốn kể cho mọi người nghe một câu chuyện về Phật Đà. Chúng ta biết rằng Quả khổ của đời này bắt nguồn từ ác nghiệp của đời trước, thiện nghiệp đời này có thể chiêu cảm được thiện quả của đời sau. Chính là:

Muốn biết nhân đời trước.

Xem hưởng quả đời này.

Muốn biết quả tương lai.

Xét nhân gieo hiện tại.

Có một lần, khi Phật Đà đang tuyên truyền chân lý với các đệ tử Tỳ-kheo ở trong tinh xá, thì từ ngoài cửa có một thiếu nữ được những kẻ ngoại đạo phái đến để phỉ báng Phật Đà bước vào. Thiếu nữ này đi thẳng đến trước chỗ ngồi của Phật Đà, cô ấy một tay chỉ vào bụng mình, tay còn lại chỉ vào Phật Đà nói: “Sa Môn, ông làm cho tôi đau khổ quá! Ông đã thông đồng lén lút qua lại với tôi làm cho tôi mang thai, nhưng ông lại không điếm xỉa gì đến tôi. Tôi đi khắp nơi tìm ông nhưng tìm không thấy, thì ra ông trốn ở chỗ này ung dung an lạc. Tại sao ông không quan tâm đến gia đình, mà lại đi thuyết giảng những lời vô dụng này? Rốt cuộc bây giờ ông cũng đã được tôi tìm thấy, ông sắp xếp thế nào đây?”

Tất cả đại chúng đang ngồi yên lặng nghe pháp đều bị sốc khi nghe những gì thiếu nữ nói. Mọi người đều cảm thấy kỳ lạ, cúi đầu trong im lặng, không ai nói gì. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mục Kiền Liên, người có thần thông không chút hoang mang liền phát huy thần thông từ chỗ ngồi, biến hóa thành một con chuột, chạy vào trong áo thiếu nữ, cắn đứt dây thừng buộc trong bụng. Thế là, một cái chậu rửa mặt giấu ở bên trong bụng của cô rơi xuống đất. Lúc này, các đệ tử có mặt chứng kiến ​​cảnh đó đều vui mừng và mọi ngạc nhiên nghi ngờ đột nhiên biến mất, đồng thời mắng thiếu nữ rằng: “Đồ tội nhân, vọng hưng phỉ báng, vu khống bậc thầy vô thượng chính giác của Nhân Thiên! Chỉ có đất vô tri mới chứa ác vật như ngươi.” “Đúng đấy! Đúng đấy!” Mọi người có mặt ở đấy đều hô lên như vậy.

Vừa dứt lời, mặt đất đột nhiên nứt ra, ngọn lửa dữ dội phun trào, thiếu nữ rơi vào trong chiếc cày bùn lớn. Vua A Tỳ Thế chứng kiến tình cảnh này, trong lòng kinh hãi, xin chỉ thị của Phật Đà, ông hỏi: “Thưa Phật Đà, thiếu nữ này hiện tại đang ở đâu?”

Phật Đà đáp: “Tâu bệ hạ, nơi mà thiếu nữ này rơi xuống bây giờ được gọi là Đại địa ngục A Tỳ Nê Lê”.

Vua A Tỳ Thế lại hỏi: “Thưa Phật Đà! Con không hiểu. Người phụ nữ này không phạm tội sát sinh hay trộm cắp mà chỉ phạm tội vọng ngữ. Làm sao có thể đọa vào địa ngục A Tỳ được?”

Phật Đà liền khai thị: “Tâu bệ hạ! Có ba loại pháp mà Như Lai nói đến: thượng, trung, hạ. Trong đó có thân, khẩu, ý”.

“Thưa Đức Phật! Xin hỏi Ngài, loại nào là nặng, loại nào là trung và loại nào là nhẹ?”

Phật Đà khai thị: “Hành động của ý niệm là nặng nhất, hành động của lời nói là trung bình, hành động của thân là nhẹ. Tội nghiệt mà người phụ nữ này gây ra chính là thuộc về khẩu nghiệp.”

Xá Lợi Phất ngắt lời liền hỏi Phật Đà: “Thưa Phật Đà, vậy tại sao người phụ nữ này lại đến vu khống Phật Đà?”

Đức Phật nói với Xá Lợi Phất: “Trong các kiếp quá khứ, vào thời Đức Như Lai còn trụ thế ở thế gian, có hai Pháp sư Phàm và Thánh. Thánh sư tên Vô Thắng, bởi vì tu hành tinh tấn, chứng đắc lục thần thông, cho nên tất cả người tu hành đều cung kính Ngài; vị Phàm sư còn lại chỉ là một pháp sư bình thường tên là Thường Quan, kém xa pháp sư Vô Thắng về công phu tu hành. Hơn nữa, tập khí thế tục của vị pháp sư này rất nặng, thường cáu kỉnh, bởi vậy người khác đối với Ngài đều không coi trọng lắm. Vào thời điểm đó, có một trưởng lão địa phương tài phú chấn động ở vương thành (nghĩa là một trưởng lão rất giàu có trong kinh thành), và trong nhà có một hiền phụ rất nổi tiếng (nghĩa là có vị phu nhân vô cùng đức hiền) tên là Thiện Huyễn Nữ, bà vừa đức hạnh vừa xinh đẹp. Thiện Huyễn Nữ đối với người tu hành đều tôn kính cúng dường, nhất là đối với pháp sư Vô Thắng bà càng đặc biệt cung kính hơn, bà luôn chọn những món ăn ngon nhất để cúng dường hàng ngày. Đây là vì pháp sư Vô Thắng tu hành công phu tinh tấn, từ đó đạt được phúc báo xứng đáng. Cái nhìn của người bình thường thường có Sắc, có tâm phân biệt và không bình đẳng, Thiện Huyễn Nữ đối với người tu hành tuy rằng có tâm cung kính cung dường, nhưng cái nhìn của bà đối với người tu hành vẫn có tâm phân biệt, không thể đối đãi bình đẳng như nhau. Bởi vậy đối với người tu hành tương đối kém như pháp sư Thường Quan, thì vị Thiện Huyễn Nữ này không có vẻ thành kính như vậy (vì bà ấy có tâm phân biệt khác nhau đối với các pháp sư), tuy bà ấy cũng cúng dường như nhau, nhưng trên phương diện hành động cử chỉ thì có khuyết điểm chăm sóc không chu toàn, thường xuyên hiện ra những điều không cung kính. Điều này đối với người trước khi chưa chứng được quả vị và còn có tâm chấp trước đối với thế gian hư ảo không thực như pháp sư Thường Quan đương nhiên sẽ cảm thấy bất bình, nên tin đồn được lan truyền. Vị pháp sư Thường Quan này gặp ai ông cũng luôn có chút bịa đặt nói Thiện Huyễn Nữ cùng Vô Thắng pháp sư có mối quan hệ thầm kín, cũng cùng là đồ vật cúng dường nhưng trong lòng lại có sự phân biệt.”

Đức Phật nói đến đây dừng lại một lúc, rồi lại nói với Xá Lợi Phất: “Ông có biết pháp sư Thường Quan kia là ai không?”

“Thưa Đức Thế Tôn, con không biết.”

“Đã từng có một đời chính là tiền thân của ta. Hiện tại tuy rằng đã thành tựu quả vị Phật, nhưng tai ương còn chưa dứt hết, vì vậy vẫn phải chịu phỉ báng bởi chậu rửa mặt giả bụng bầu.

Câu chuyện này nói cho chúng ta biết, nghiệp báo vô cùng đáng sợ. Vậy nên người tu hành chúng ta nhất định phải chú trọng tu hành khẩu nghiệp.

Một người nếu muốn thành Phật thì phải rèn luyện tấm thân kim cang bất hoại của mình, thân này trên thực tế chính là tâm của chúng ta. Muốn “khứ chỉ thành khí, khí tức tinh hảo”, điều này có nghĩa là người học Đạo, phải loại bỏ dơ bẩn trong tâm mình, đừng để nó bị nhiễm ô, tức là “khứ tâm cấu nhiễm, hành tức thanh tịnh hĩ”, có nghĩ là chỉ cần loại bỏ dơ bẩn trong tâm, thì hành vi sẽ trở nên vô cùng sạch sẽ. Vậy nên trước khi chưa học Phật, con người thường hay nổi giận. Sau khi học Phật, chúng ta hiểu rõ lý lẽ rồi thì sẽ không tức giận, bởi vì con người khi không hiểu rõ lý lẽ mới phát ra “lửa vô minh”. Tuy nhiên bất cứ sự tức giận nào đều biểu hiện vi phạm tinh túy của Phật pháp. Thế nên người học Phật chân chính sẽ không nổi giận, người học Phật chân chính sẽ không quá khẳng định cái nhìn của bản thân, nghĩa là phải trừ bỏ chấp trước, có như thế cả đời mới ít hối hận.

Cảm ơn đại chúng. Được rồi, chúng ta hẹn gặp lại trong chương trình tiếp theo.

 

Tập 102
BẤT NGÔN TỊCH TĨNH NIẾT BÀN

(08/07/2020)

Được rồi, hôm nay Thầy sẽ tiếp tục thuyết giảng với mọi người về “Bạch Thoại Phật Pháp”.

Cảnh giới cao nhất của Phật giáo là tịch nhiên bất động (tịch: nghĩa là an tĩnh; nhiên: nghĩa là tự nhiên). Con người phải thanh tịnh thì mới có thể định trụ, bất cứ việc gì khi đã thanh tịnh đều có thể trụ lại được. Lấy một ví dụ đơn giản, nếu quý vị có thể đến một nơi và an định ở đó thì nơi này nhất định phải rất yên tĩnh và thanh tịnh. Người ta thường trở nên rất có trí tuệ sau khi họ bình tĩnh; con người sẽ mất đi trí tuệ khi họ bị kích động. Nếu một người bị kích động mạnh, chửi bới, cãi vã hay nghĩ không thông, thì khi đó trí tuệ liền rời xa họ. Vậy nên, con người sau khi giữ bình tĩnh sẽ có được trí tuệ. Con người sau khi nhẫn nhục sẽ “thoát thai hoán cốt” (thay da đổi thịt). Quý vị thử nghĩ xem, nếu quý vị có thể kiềm chế tức là quý vị đã chịu đựng được những điều mà người khác không thể chịu đựng được; hãy nghĩ xem, quý vị có thể làm được những việc mà người khác không thể làm, có phải là quý vị đã “thoát thai hoán cốt” rồi không? Vậy nên người có Phật tánh họ có thể nhẫn nại, có thể có được trí tuệ, bình tĩnh, thanh tịnh và tâm của họ trụ lại được.

Nhiều bậc Cao Tăng Đại Đức tu tâm bằng cách “Bất ngôn nhi thiện ứng” tức là có những việc dùng ngộ tánh (nhận thức) là được, không nhất thiết phải nói ra.

Hãy nhìn xem, một người suốt ngày ríu rít đi giải thích với người khác, người này có phải là người có trí tuệ không? Vì vậy, “Bất ngôn nhi thiện ứng” cũng có nghĩa là bất kể chuyện gì xảy ra trong nhân gian, đều có thể dùng tâm thiện ứng phó, đáp lại sẽ có được cảm ứng thiện. Lấy một ví dụ đơn giản, nhiều người ngồi thiền, thật không dễ dàng gì mới kìm nén được hết ngày, thế nhưng đến tối sau khi xuất quan (xả thiền), họ lại bắt đầu nói những điều vô nghĩa, họ không thể nén lòng nín nhịn được nên “ngôn đa tất thất” (nói nhiều sẽ có sai lầm). Văn hóa truyền thống cổ xưa có câu: “Ngôn đa tất thất”, có những lời khi nói ra thà không nói còn hơn, vì một khi đã nói ra, quý vị sẽ không tìm thấy được trí tuệ của chính mình. Khi quý vị an tĩnh, yên tĩnh và bình tĩnh, thì trí tuệ sẽ ở bên cạnh quý vị, quý vị mới có thể tìm thấy được tâm thiện lương và thanh tịnh trong bản chất nội tâm của mình. Hãy thử nghĩ xem, một người có thể thanh tịnh có phải là họ có khả năng tìm được sự thanh tịnh rồi không? Tất cả đều tùy thuộc vào chính mình, từng bước một, vững vàng bước đi trên con đường trí tuệ.

Người học Phật thường nói: “Hôm nay tôi có linh cảm rồi, chính Bồ Tát đã nói chuyện với tôi”, có một số người ngồi thiền được nghe Bồ Tát nói chuyện với họ, là có, nhưng không được đắc chí. Quý vị có thể nhìn thấy Phật thì quý vị cũng có thể nhìn thấy ma quỷ. Trong lòng quý vị có rất nhiều ma tánh, quý vị không thể yên lặng chút nào, cũng không thể tìm thấy bất kỳ sự cảm ứng nào trong bổn tánh của quý vị. Câu nói này cho chúng ta biết rằng nếu con người không thể tĩnh tâm và trong tâm không thể có an định thì sẽ không tìm được bổn tánh của mình. Người không tìm được bổn tánh của mình sẽ không có cảm ứng gì. Người có cảm ứng là người có trí tuệ. Trước đây nói thông minh là gì? Đó chính là tai thông mắt minh và phản ứng nhanh nhạy. Nhưng sau đó, nhiều người lại tự mãn, nên ma khảo liền tìm đến họ. Khi quý vị nghĩ mình tài ba lắm, thì những thử thách liền bắt đầu ập đến. Ai đó nói xấu quý vị, nếu quý vị không vượt qua được khảo nghiệm bị người ta nói xấu mà nhảy dựng lên, liền cảm thấy không thể nhịn được, không thể yên tĩnh, thì quý vị sẽ không tìm thấy được bổn tánh của mình, tiếp đó quý vị sẽ không có bất kì cảm ứng gì. Một số người nghĩ rằng họ đã nhìn thấy Bồ Tát hay nhìn thấy điều gì đó, và sau đó họ cảm thấy tự mãn. Khi người khác nói vài lời không hay về họ, họ lập tức nhảy cẫng lên, cuối cùng bị ma ám dẫn đến bị tâm thần phân liệt. “Ah? Tôi mà như thế này sao? Tôi là ai vậy?” Quý vị sẽ không bao giờ tìm thấy chính mình, vĩnh viễn đánh mất đi Phật tánh và ngộ tánh của mình.

Vậy nên người đắc Đạo thực sự họ chỉ vô ngôn vô thanh (im lặng), họ không có lời nào, họ không muốn lên tiếng, tất cả đều ở trạng thái im lặng không lời. Vì thế đôi khi người ta nói “Lúc này im lặng còn hơn nói ra thành lời”, nếu quý vị đã hiểu được đối phương rồi, thì có cần phải nói ra nữa không? Ví dụ hôm nay ở công ty mất một món đồ gì đó, có người nói một đồng nghiệp lấy, chỉ cần quý vị nhận thấy rằng đồng nghiệp này chưa bao giờ lấy đồ thì quý vị không cần phải hỏi câu tiếp theo “Cậu đã lấy rồi đúng không?” Nếu quý vị không nói, thì lúc này im lặng còn hơn là nói ra. Biết rõ chắc chắn không phải cậu ta lấy, không có khả năng đó, thì đây chính là một loại tâm lý cảm ứng. Người có cảm ứng là người có trí tuệ. Vì thế, vô ngôn vô thanh, vô hành vô tranh, nghĩa là nếu quý vị không nói không rằng, không có hành động hay tranh chấp nào, thì quý vị liền tiếp cận với tánh Không nguyên thủy. Bởi vì mọi thứ trên thế gian này đều trống rỗng và vốn dĩ là hư ảo không có thật. Quý vị còn muốn tìm vật chất thực chất nào trong không khí nữa không? Vật chất thực chất đó nó không có trong không khí. Nó là cấu trúc của các phân tử khác nhau trong hư không.

Niết Bàn là thanh tịnh. Người Niết Bàn là người khai ngộ, người khai ngộ là người thanh tịnh, người thanh tịnh sẽ không xụ mặt với người khác, người không thanh tịnh động một tí là biểu lộ sắc mặt với người ta. Trong xã hội này, quý vị không thể đạt được tịch tĩnh viên mãn, trái tim quý vị luôn đập rộn ràng (vì vậy chúng ta thường gọi là “trái tim đập rộn ràng”), khiến quý vị nhảy cẫng lên, khiến quý vị không thể bình yên và không thể sống suông sẻ trong thế gian này, vậy thì quý vị sẽ đánh mất trí tuệ của mình, bởi vì trí tuệ sẽ luôn đi kèm với sự tĩnh lặng, nó không làm bạn với ồn ào bực dọc, cũng không làm bạn với phiền não.

Tịch tĩnh viên mãn là không tranh giành với thế gian. Quý vị thử nghĩ xem, một người thờ ơ không tranh giành với thế gian thì chẳng lẽ họ không có được sự yên lặng sao? Nếu quý vị trêu chọc họ, họ sẽ mỉm cười và nói: “Đây là thế giới con người”; nếu quý vị mỉa mai họ, họ liền đáp: “Trên thế giới này có nhiều người, mỗi người ở mỗi cảnh giới khác nhau, mọi người nên nổ lực tu luyện.” Quý vị không còn tranh với thế gian, bởi vì trong tâm quý vị đã đạt đến trạng thái “vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”. Tất cả mọi thứ cho thấy quý vị đã đạt được một cảnh giới trong tâm, quý vị cũng đã hiểu được “vô khổ tập diệt đạo” rồi. Vậy nên “Vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố”. Chính trong sự mê cảm khốn cảm này mà con người đánh mất bản chất của chính mình, cho rằng mình đúng, cho rằng mình có linh cảm trong tâm, và cho rằng mình đã tiếp cận với tánh Không nguyên thủy, thật ra cái tánh Không này của quý vị vẫn còn đang trong trạng thái ảo diệt.

Có đôi khi vô ngôn là một loại cảnh giới cao của sự yên tĩnh. Ở thế gian này có rất nhiều chuyện xảy ra trong cuộc sống, quý vị đi bình luận nó làm gì? Những chuyện này vốn dĩ không có tiêu chuẩn nhất định, ông nói ông có lý, bà nói bà có lý, chuyện vợ chồng cãi nhau, đánh nhau, quý vị nói xem ai mà không có đạo lý? Quý vị cãi nhau với con cái, con quý vị cũng đều nói ra muôn vàn đạo lý. Những đạo lý này quý vị có thể chấp nhận được không? Không thể chấp nhận được. Vậy con quý vị có thể chấp nhận không? Nó cũng không thể chấp nhận. Vậy quý vị nói xem là nói cái lý lẽ gì? Vì thế vô ngôn chính là một loại cảnh giới cao. Vô ngôn là gì? Vô ngôn chính là một loại nhìn thấu, hiểu rõ đối với xã hội, nhìn rõ thế giới này là giả, là hư ảo, không cần thiết phải đi giải thích. Người khác vu khống quý vị, phỉ báng quý vị, nếu quý vị chưa bao giờ làm những việc như vậy, quý vị có cần phải đi giải thích không? Ví dụ như từ nhỏ đến lớn phẩm chất của quý vị rất tốt, chưa từng trộm đồ, đột nhiên bị người ta vu khống, nói quý vị trộm đồ, quý vị có cần thiết phải đi giải thích với họ không?

Vậy nên yên tĩnh là một loại cảnh giới cao. Cao Tăng Đại Đức tu càng tốt, thì bát phong xuy bất động (tám gió thổi không động), bổn tánh như như bất động, họ có thể hiển thị rõ tâm đắc đạo Kim Cang Bồ Đề. Phật và Bồ Tát đạo đều là thanh tịnh, trống vắng, như như bất động. Một người nếu như có thể định trụ được, thì người này chính là như như bất động. Một người gặp chuyện liền nhảy cẫng lên, gặp chuyện liền ầm ĩ, vậy thì người này cuối cùng giống như cỏ lau nổi trên mặt nước. Tại sao con người lại lỗ mãng, tại sao con người lại động một chút là nhảy cẫng lên? Bởi vì khi tâm vừa động, thì sẽ có hành động, có nhiều điều một khi đã động tâm rồi, hành vi liền bắt đầu động theo. Vậy nên rất nhiều người vì không khống chế được cái tâm động của mình, nên mới gây ra hành động làm thương tổn chính mình cùng thương tổn người khác.

Vì vậy học cách kiểm soát chính mình, phải tu đến mức vô tư, vô vi, “Chuyện gì tôi cũng chưa từng làm qua, chuyện này tôi chưa từng nghĩ tới, tôi đã làm những điều tốt mà không nghĩ đến”, tĩnh lặng bất động, như như bất động. Nếu như quý vị không hề nghĩ đến nó mà có thể làm việc thiện, về căn bản chưa từng nghĩ tới “Tôi muốn làm một việc nào đó”, vì muốn đạt được một loại mục đích nào đó, vậy thì quý vị chính là vô vi (không có hành vi), sẽ có khả năng thành công trong việc tu đạo. Nếu như quý vị vì tu đạo thành đạo mà dốc sức ngồi thiền, tu khổ hạnh, đồng thời muốn biết tương lai, muốn biết quá khứ của mình và quý vị đang muốn tìm kiếm những thứ trong thế giới hư ảo mà ở đó đã từng có quý vị, vậy thì quý vị đã đánh mất đi tâm thiền định của mình trong thế giới hư ảo này, loại thần thông quý vị đạt được cũng là hư ảo không thật, cuối cùng mang đến cho quý vị chỉ là một loại ảo giác. Lấy một ví dụ đơn giản, hiện tại quý vị nghĩ đến một việc nào đó khi còn bé, đã từng cãi nhau với người khác, đi mách với thầy cô, hoặc đã từng làm tổn thương bạn học, những việc này có phải bây giờ nhớ lại giống như một loại ảo giác không? Chỉ vì muốn tranh giành danh lợi với người khác mà làm tổn thương, vu khống người ta, thì sự yên tĩnh liền cách quý vị rất xa. Một đứa trẻ rất chững chạc, nó sẽ không dễ dàng làm tổn thương người khác. Một người có tu dưỡng, có giáo dưỡng, họ đã sớm rời xa ngu si. Một người có thể không nói chuyện, có thể dụng tâm làm mọi việc là họ đã có được ngộ tánh, nên họ nhận được bất kỳ cảm ứng nào đều là chính xác. Còn một người dốc sức theo đuổi bất kì cảm ứng ở nhân gian, “Tôi cảm giác được chuyện này” “Ôi chao, tôi cảm giác được…” Cả ngày tâm luôn loạn động, ý nghĩ lung tung, niệm đang lừa dối lương tâm của mình, cuối cùng không phải bị chấp trước thì cũng bị ma ám.

Cho nên vô tư, vô vi, yên tĩnh, trong giới Phật pháp gọi là “Cảm nhi toại thông”. Người đang truy cầu tương lai, quá khứ, hiện tại, họ sẽ mất đi hiện tại, không thể đạt được tương lai, cũng sẽ liên lụy đến quá khứ của chính họ. Rất nhiều người ngay cả hiện tại đang làm gì cũng không biết, thì làm sao họ có thể làm chủ tốt tương lai của mình và làm sao có thể hiểu được quá khứ của mình đây? Vậy nên rất nhiều người sống đến ngày hôm nay, quý vị bảo họ nói một chút về quá khứ của họ, toàn bộ đều trong hư ảo, họ không biết nói cái gì. Có người quý vị bảo họ giải thích, bảo họ khi cộng tu nói về cảm nhận của mình, thì họ nói ra một đống hư vinh trong quá khứ. Vậy nên, nếu một người không thể có được “tâm bao thái hư” (tấm lòng rộng lớn ôm trọn cả hư không, bao trùm cả vũ trụ), thì họ sẽ mất đi trí tuệ. Tâm bao thái hư là gì? Đó là cái gì cũng đã qua, cái gì cũng là hư ảo, tất cả hành trình ở nhân gian mà chúng ta trải qua đều có thể bao dung nó, liếc mắt có thể nhìn thấu thế giới vạn vật, nó đều là hư ảo không thực. Nghĩ thông suốt, nghĩ minh bạch, đã nhìn rõ, đây được gọi là Chiếu Kiến ngũ uẩn giai không.

 

Tập 103
TÂM LÀ CĂN NGUYÊN CỦA CHÂN NHƯ PHẬT TÁNH

(08/07/2020)

Tâm bao thái hư là gì? Đó là cái gì cũng đã qua, cái gì cũng là hư ảo, tất cả hành trình ở nhân gian mà chúng ta trải qua đều có thể bao dung nó, thoạt nhìn có thể nhìn thấu được thế giới vạn vật, nó đều là hư ảo không thực. Nghĩ thông suốt, nghĩ minh bạch và nhìn thấu nhìn rõ, đây được gọi là chiếu kiến ngũ uẩn giai không. Giống như khi quý vị đứng ở một nơi xa và nhìn về phía trước một bãi cỏ trống thì quý vị mới thấy được những thứ ở cách đó vài trăm mét, mà tầm nhìn không bị cản trở và có thể nhìn bao quát được toàn cảnh. Quý vị sẽ không bao giờ có thể nhìn thấy được cảnh giới thực sự của cái thế giới Sắc này nếu hôm nay quý vị chất đầy những thứ hỗn tạp trên bãi cỏ. Ngày nay nếu như chúng ta không thể chiếu kiến ngũ uẩn giai không, sẽ bị hư ảo che khuất, sẽ bị tạp niệm, tạp tư duy làm hấp dẫn quý vị. Vì chúng ta có quá nhiều thứ hỗn độn chất đầy trên bãi cỏ, nên chúng ta không thể nhìn thấy bất cứ vật gì cách xa hàng trăm mét. Bởi vì quá nhiều thứ hỗn độn và tạp niệm đã che khuất đi trí tuệ của chúng ta, khiến chúng ta rời xa cảnh giới thực sự mà lẽ ra chúng ta phải có trong suy nghĩ của mình. Chúng làm cho chúng ta mù quáng và chỉ nhìn thấy được lợi ích trước mắt của mình mà không nghĩ đến việc nên làm như thế nào để vứt bỏ những lợi ích trong tương lai, đồng thời dùng thiện niệm, thiện lợi ích chân chính làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vậy nên học Phật chỉ đơn thuần cầu điều chưa xảy ra, cầu thần thông, thì thực ra đó chính là “duyên mộc cầu cá” (trèo cây tìm cá). Muốn sửa đổi những hành vi xấu, tính cách xấu, tạp niệm tồn đọng trong nội tâm của mình ở quá khứ, quý vị phải có dũng khí đấu tranh chống lại những tạp niệm và thế giới quan phi lý trong lòng, để thay đổi bản chất của nó và chuyển hóa chính mình, giúp bản thân thoát thai hoán cốt. Có được Phật tánh đích thực, đó mới là loại tâm mà quý vị có thể thực sự nương tựa vào để ngộ ra những nguyên tắc cơ bản của Phật giáo. Khai ngộ là tâm khai ngộ, nên phải do tâm ngộ. Vừa rồi Sư phụ đã giảng cho mọi người toàn bộ về cương lĩnh của việc tu tâm.

Tiếp theo, Sư Phụ sẽ tiếp tục giảng cho quý vị biết, niệm kinh là một phần quan trọng của việc học Phật và tu tâm. Như chúng ta đã biết, bước đầu tiên trong việc học Phật và tu tâm là niệm kinh, niệm kinh phải niệm cho đến khi tâm niệm dừng lại, nghĩa là niệm đến trong lòng không có tưởng niệm, không có tưởng tượng, phải niệm đến tâm có thể niệm kinh mà niệm niệm đều có Phật thì sẽ tức thì được giải thoát. Nghĩa là đọc đến về sau: “Tôi không có dựa vào hay ỷ lại, mà cái tâm niệm kinh khởi lên trong tôi một cách tự nhiên”, ngay cả ý nghĩ niệm kinh cũng phải không có. Ví dụ như rất nhiều người niệm kinh: “Tôi muốn niệm 49 biến Lễ Phật Đại Sám Hối Văn, tôi muốn sám hối nghiệp chướng nào đó của tôi, tôi đã làm sai điều gì, tôi đang sám hối nó”, trong 49 biến này, mỗi một biến kinh đều đem những việc không tốt của mình ra nghĩ một lần, quý vị nói xem quý vị đọc những biến kinh này có thể sạch sẽ được không? Hôm nay quý vị nói: “Tôi muốn niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn để tiêu trừ nghiệp chướng trên thân tôi, tôi sẽ không nghĩ đến những nghiệp chướng này, tôi sẽ niệm tốt Lễ Phật Đại Sám Hối Văn”, nhất tâm niệm Phật, như vậy đọc ra kinh văn sạch sẽ hơn hay là niệm mỗi một biến kinh trong đầu đều nghĩ đến chuyện vừa rồi làm sai, cảm thấy mình rất ghê tởm thì loại nào sạch sẽ hơn? Đây chính là tâm niệm. Vậy nên niệm kinh phải ngay cả ý niệm niệm kinh của mình cũng không được có: “Tôi đang niệm kinh, tôi muốn tiêu trừ nghiệp chướng của tôi”, đến ý niệm như vậy của quý vị cũng không được có, thì quý vị chính là “Hồi quang phản chiếu”, nghĩa là ánh sáng của Bồ Tát sẽ chiếu đến trên thân quý vị, quý vị ngay lập tức giác ngộ, thân chứng Như Lai bổn tánh. Bởi vì Phật tánh sâu trong nội tâm của quý vị và kinh văn mà quý vị niệm là hợp nhất rồi, chứ không phải xen lẫn những lý niệm và sự vật dơ bẩn cần sám hối trong đó. Đây chính là “Hoa khai kiến phật ngộ vô sinh” mà người học Phật thường nói: Hoa khai kiến phật; Ngộ chính là khai ngộ. Vô sinh của từ Vô sinh pháp nhẫn, nghĩa là không sinh ra bất cứ thứ gì. Niệm kinh phải niệm đến vô năng niệm, vô sở niệm: “Tôi không vì một chuyện nào mà niệm kinh”, đây mới là niệm Phật Tam muội (nhất tâm).

Hôm nay Sư phụ đã giảng với quý vị như vậy, sau này quý vị có thể đạt được tiến bộ lớn trong việc niệm kinh. Tại sao có người niệm kinh, niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn mà rưng rưng nước mắt? Không phải họ đang niệm kinh, mà họ đang suy nghĩ về những điều xấu của mình, họ đang nghĩ tại sao mình lại như thế này, tại sao mình lại như thế kia, họ không thể giải thoát được, chưa hiểu được giáo lý của đạo Phật, thì làm sao đạt được trí tuệ Tam Muội? Vì vậy, niệm kinh đơn giản nhưng thực ra không đơn giản, niệm kinh tức là niệm tâm. Thế nên, khi niệm kinh quý vị nên niệm cho đến khi kinh văn không còn ở trong tâm nữa. Nếu kinh văn không ở trong tâm quý vị thì nó ở đâu? Nó ở sâu trong toàn bộ nội tâm của quý vị, chứ không phải ở cái tâm bên ngoài. Vì thế, khi miệng niệm kinh, thì trong tâm cũng phải niệm kinh. Vậy nên, nếu miệng đã niệm kinh rồi thì trong tâm cũng phải có kinh. Nếu miệng niệm kinh mà trong tâm không có kinh văn thì đó không phải là giác ngộ, đó không phải là hoa khai kiến Phật (hoa nở thấy Phật), mà đó là tiểu hòa thượng niệm kinh “hữu khẩu vô tâm” (nghĩa là niệm kinh bằng miệng chứ không phải bằng tâm). Vậy nên niệm kinh phải dụng tâm, lại phải trong tâm có kinh văn thì mới được.

Người học Phật chủ trương phá bỏ vọng tưởng của chính mình. Con người sống trên thế giới này đều sẽ có vọng tưởng: “Tôi muốn trở thành người như thế nào trong vài năm nữa?” Mỗi ngày đều tưởng tượng ra những điều viển vông và chạy theo danh vọng, giàu sang, địa vị trong Hồng Trần nhân gian, điều này sẽ khiến cảnh giới của quý vị tan biến không còn và bị biến mất nhanh chóng. Người theo đuổi danh vọng, theo đuổi sự vật hư ảo họ sẽ sớm mất đi lý trí. Miệng của họ hay mắng hay nói lung tung để đạt được mục đích của mình và họ sẽ dùng mọi thủ đoạn.

Trước Chân Như Phật tánh (cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sinh không diệt), thế giới hư không sẽ được Phật soi sáng không dấu vết. Phật Đà đã dạy chúng ta từ lâu rằng toàn bộ vũ trụ là một thế giới hư ảo, trên trái đất này lại càng hư ảo hơn, không thể tìm thấy một điều chân thật. Cũng giống như con người, những gì quý vị theo đuổi trong suốt cuộc đời cuối cùng sẽ không phải là của quý vị. Bồ Tát từ bi thường giảng tâm ở đâu và tâm nên ở đâu khi niệm kinh, nghĩa là nói cho chúng ta biết quý vị nên đặt tâm ở đâu khi niệm kinh. Nhiều người vừa nhắm mắt là niệm lấy niệm để, tâm quý vị ở đâu? Miệng quý vị vừa mấp máy, có thể thuộc lòng một biến Lễ Phật Đại Sám Hối Văn, nhưng không biết mình đang niệm gì”. Tâm ở đâu? Bởi vì chỉ có tâm mới có thể kiểm chứng và thân chứng được Phật tánh chân thật nguyên thủy. Niệm kinh không dụng tâm tức là “hữu khẩu vô tâm”(miệng niệm kinh nhưng tâm không niệm). Vậy nên niệm kinh thật ra phải niệm chạm đến tâm chân thật Như Lai, tức là “Hôm nay tôi dụng tâm niệm kinh” có như thế, quý vị mới có thể tụng niệm toát ra được tất cả trí tuệ và đức hạnh mà quý vị vốn có. Niệm xong một biến kinh phải khai ngộ. Niệm xong một biến kinh phải biết tâm mình ở đâu. Niệm xong một biến kinh phải biết chuyện kế tiếp mình nên làm như thế nào, trí tuệ đức năng của quý vị liền xuất hiện. Đây chính là niệm đến sau này, phải bình đẳng tánh trí, đại viên kính trí, quý vị ở nhân gian làm bất cứ việc gì mới có thể “diệu quan sát trí” (có được trí tuệ quan sát vi diệu). (Nếu không có trí tuệ thì quý vị có thể quan sát được gì? Cái gì cũng nhìn không hiểu, cho quý vị xem rồi cũng không hiểu, nói cho quý vị biết quý vị cũng không hiểu, nên cần phải có trí tuệ quan sát vi diệu), phải có Bồ Tát thường trú trong tâm của quý vị, cuối cùng quý vị mới có thể “thành sở tác trí” (Là một Trí tuệ mà gốc là các Thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Con mắt có vô minh làm cho ta say đắm, nhìn giả thành thật).

Sự ô nhiễm vô minh của nhân gian làm cho trong lòng chúng ta sinh ra vọng tâm (vọng tâm của nhiều người đều phát sinh từ sâu trong nội tâm, những chuyện không ngờ đến đều phát sinh từ nội tâm mà ra: “Ôi, tốt nhất là việc này đột nhiên gặp phải một người tốt đến giúp tôi thì hay quá rồi”. Quý vị thấy đấy, tất cả đều xuất phát từ sâu thẳm bên trong nội tâm. Chẳng hạn, nhiều người thích đổi nhà: “Ôi nhà mình tệ quá, tốt hơn hết là đột nhiên có một người vì mâu thuẫn trong gia đình mà có thể đổi nhà cho tôi, để tôi có thêm chút diện tích, để tôi có thể đổi được ngôi nhà tốt hơn một chút, để tôi có thể chiếm được lợi thế nhiều hơn”. Vọng tâm của họ đều sinh khởi từ sâu trong nội tâm, bởi vì nó không thực tế), và rồi trí tuệ đức năng của quý vị liền trở thành ý thức. Vì sao? Điều mà quý vị cho là thông minh như: “Tốt hơn hết là tôi nên đổi nhà với anh ta, để nhà anh ta nhỏ hơn một chút còn nhà của tôi lớn hơn một chút”. Ý thức này trở thành ý thức của quý vị, tiếp đó cái ý thức này sẽ khiến quý vị sinh ra vọng tưởng vô minh, quý vị liền cảm thấy: “Chuyện này có gì đâu, người như thế này cũng có đấy. Tưởng vậy thôi chứ thật sự không phải? Anh ấy không muốn sống trong một ngôi nhà lớn vì cảm thấy trống trải và không thoải mái. Anh ta muốn nhỏ một chút, ấm áp một chút. Hãy nhìn xem, ngôi nhà của chúng ta thật nhỏ bé và ấm áp”, anh ấy sẽ nghĩ như vậy, nên vô minh vọng tưởng sẽ khởi lên. Sau đó, vọng tưởng này biến thành vọng tâm của quý vị đang bị lay động và nghĩ: “Có người như vậy không?” Anh ta bắt đầu chi tiền để đăng báo, và vọng tâm của anh ta lại bị “phục huân vô minh” (phục huân tức là hun đúc lặp đi lặp lại, huân tức là chuyện này không có nhưng cứ nghĩ đi nghĩ lại trong lòng). “Có khả năng… có khả năng…” Thực ra, như quý vị đã biết, trúng xổ số chính là kiểu thiếu hiểu biết lặp đi lặp lại, là cái đạo lý này). “Phục huân vô minh” của vọng tâm cho chúng ta biết rằng nếu quý vị cứ suy nghĩ về một điều gì đó, và sâu thẳm trong ý thức, quý vị sẽ nghĩ rằng điều này là thật nó có thể xảy ra. Nhiều người nói: “Tôi mua xổ số. Tôi mua một năm, hai năm, ba năm, bốn năm… Tôi mua mười năm xem có trúng hay không”. Tâm của quý vị rung động, quý vị liền sinh ra hành động, quý vị sẽ tiêu tiền không ngừng để làm việc này. Đó là câu “gieo Nhân gì thì gặt Quả nấy”. Vì quý vị đã gieo trồng Nhân này nên cái Quả mà quý vị nhận được sẽ là thất vọng, theo đạo Phật gọi là “Nhân trả Quả”. Rồi “Quả nối tiếp Nhân”, vì không trúng nên lại mua tiếp, lại gieo nhân: “Không thể được, lần sau tôi nhất định trúng”, lúc đó Quả lại nối tiếp với cái Nhân này. Nếu quả nối tiếp với cái Nhân này thì cái Quả mà quý vị tiếp nhận sẽ tạo ra một cái Nhân khác. Lấy một ví dụ đơn giản, nếu quý vị cãi nhau với anh ta, cuộc cãi vã lẽ ra đã kết thúc, vì lần trước quý vị “nợ” anh ấy, nên lần này anh ấy mắng quý vị, xem như hai người hòa nhau, và lần sau hai người lại hỗ trợ lẫn nhau không sao cả. Thế nhưng quý vị lại mắng anh ta, lại tiếp tục gieo Nhân mắng anh ta, lần sau quý vị lại tiếp tục đợi anh ta mắng quý vị. Đây gọi là “Quả nối tiếp Nhân”. Sau đó Quả nhận được lại sinh ra cái Nhân khác. Bước tiếp theo là “Nhân khởi Quả”, Nhân mà quý vị đã gieo, rồi quả báo lại bắt đầu sinh khởi, đó gọi là “Nhân khởi Quả” – quả báo do nhân đã gieo tạo ra. Nên quý vị mới không chịu phục tùng, mà tiếp tục đấu tranh với họ. Đây là điều mà Sư phụ đang nói với quý vị. Nhiều người đã ra tòa và thắng kiện. Vụ kiện kéo dài ba năm cuối cùng cũng đã thắng, vui mừng rồi. Tiếp đó bên kia lại kháng cáo, lại tiếp tục kiện tụng thêm ba năm nữa, đây gọi là nhân quả báo ứng. Cho nên gieo nhân chắc chắn sẽ sinh ra quả báo, rồi Quả sẽ trả Nhân. Sau khi phán quyết được thông qua, quý vị dành được phần thắng; bên kia lại kiện quý vị, và sau khi họ kiện quý vị, quý vị cũng kiện lại họ, tiếp đó quý vị thắng; bên kia lại bắt đầu tấn công và gây rối quý vị… vì quả báo lại gieo xuống vạn Nhân ác, đây gọi là Nhân Nhân Quả Quả. Vì vậy, một người khi sống ở đời, chỉ cần làm điều ác với người khác hoặc gây rắc rối với người khác, thì sẽ gặp vô vàn phiền não. Liên tục lây nhiễm vào ý thức của quý vị câu “Tôi nhất định sẽ thắng, kiện cũng đã kiện được ba năm rồi, nên đối với tôi, tôi không sợ, tôi kiện thêm ba năm nữa thì đã sao”, quý vị liên tục lây nhiễm vào ý thức của mình và khiến trong ý thức của quý vị khởi sinh ra hư ảo – “Tôi chắc chắn sẽ thắng”; khi vọng niệm khởi lên – “Làm sao mà tôi kiện không thắng họ? Luật sư của tôi càng kiện càng giỏi!” vọng tưởng dẫn đến tự cho rằng đúng sai và bản thân nghĩ rằng: “Cái này nhất định là đúng phải không? Tôi đã kiện nó trong nhiều năm, tôi không thể bỏ cuộc, tôi nhất định phải thắng”. Toàn bộ quá trình đã khơi dậy hoang tưởng, tự cho rằng bản thân đúng sai, đây chính là chức năng hình thành của thức thứ bảy.

 

Tập 104
BỐ THÍ ĐÍCH THỰC

(08/07/2020)

Đâu là sự khác biệt giữa chân tâm và vọng tâm? Mọi người phải biết rằng chân tâm thì như như bất động, chân tâm là bất động, còn vọng tâm thì không ngừng sinh diệt. Nghĩa là gì? Nghĩa là nếu quý vị chân thành nói: “Tôi tử tế với bạn, và tôi sẽ luôn tốt với bạn như thế”, thì điều này sẽ không thay đổi; nếu một người giả tạo với người khác, nghĩa là hôm nay đối xử tốt với họ, nhưng mai thấy lợi ích không còn nữa liền lập tức thay đổi, thế nên nó là có sinh có diệt. Nếu anh ta có ý tốt với quý vị, sau hai ngày anh ta thấy không có ích lợi gì cho anh ta nên ngay lập tức cái ý tốt đó đã bị tiêu diệt; hai ngày sau anh ta lại cảm thấy quý vị tốt với anh ta và có lợi cho anh ta, anh ta lại bắt đầu có ý định tốt với quý vị, rồi sau đó lại dập tắt. Còn người thật sự tử tế với người khác thì có tâm như như bất động, gọi là chân tâm; vọng tâm gọi là sinh diệt bất kỷ (vô tận).

Thức thứ sáu sẽ chịu sự tác động của hoàn cảnh bên ngoài. Hoàn cảnh bên ngoài của ý thức thứ sáu là gì? Đó là năm thức – mắt, tai, mũi, lưỡi và thân. Vì mắt quý vị đã nhìn thấy nên ý thức thứ sáu của quý vị bắt đầu thay đổi; vì tai quý vị nghe người khác nói nên ý thức của quý vị bắt đầu thay đổi; giống như mũi, lưỡi, thân. Vậy nên chính môi trường bên ngoài đã tác động đến ý thức thứ sáu của quý vị, nên ý thức thứ sáu của con người là không chính xác: “Tôi nghĩ anh ấy rất tốt, tôi cảm thấy anh ấy rất tốt.” Quý vị biết anh ấy đến mức nào? Quý vị hiểu anh ta ra sao? Quý vị đã từng thân thiết với anh ta như thế nào? Quý vị đã từng có tình bạn thân thiết với anh ta đến mức nào? Tất cả những điều này đã trở thành hư ảo, khiến cho thức thứ sáu có thể thay đổi bất định. Vậy nên, có nhiều người cả đời ý thức của họ vẫn không định được.

Chư Phật, chư Bồ Tát nói với chúng ta rằng, những thứ có thể nhìn thấy được, không phải nhìn bằng mắt, mà Phật dạy chúng ta hãy nhìn bằng tâm, không nên nhìn bằng mắt. Chư Phật bảo chúng ta nói, không phải dựa vào miệng để nói mà phải dùng tâm để nói. Hãy dùng tâm nói chuyện với người khác, họ sẽ hiểu được lời quý vị nói ra là quý vị đang nói thật lòng. Những gì quý vị nhìn thấy bằng mắt chỉ là một mặt hư ảo, giả tạo, nhưng quý vị dùng tâm chân thành của mình để khiến người khác cảm nhận được loại tình yêu đó, điều này trong giới Phật giáo gọi là Tham thiền. Tham Thiền có nghĩa là gì? Hiểu và biết rõ những điều này một cách sâu sắc. Thiền là dùng tâm Như Lai chân thật để nhận ra Phật tánh sâu thẳm trong tâm mình. Đây là Pháp Môn Tâm Địa của Phật giáo.

Để học Phật và làm người, chúng ta phải biết cách làm thế nào để giao tiếp với người khác bằng tâm và làm thế nào để giao tiếp với người khác bằng cảm xúc thật của mình. Khi Sư phụ nói đến đây thì Thầy nhớ lại một câu chuyện. Một người mẹ rất tiết kiệm, thật không dễ dàng gì để nuôi dạy con trai mình trưởng thành, và cậu con trai sau này đã trở thành một người chủ doanh nghiệp rất giàu có và thành đạt. Có một hôm, bà mẹ đi khám răng, con trai chở bà đến bệnh viện nha khoa trên chiếc Mercedes-Benz sang trọng. Trên người cậu ta mặc toàn quần áo hàng hiệu, hút thuốc lá hạng sang ngồi bên cạnh bà, trong khi bà mẹ mặc quần áo rất đơn giản. Bác sĩ nói với bà về kinh phí bọc răng và làm răng sứ. Đại loại như một cặp răng sứ loại tốt là giá bao nhiêu? Loại thường, loại giả là giá bao nhiêu? Sau khi tư vấn người mẹ đáp: “Tôi muốn loại thường nhất, rẻ nhất.” Tất cả các bác sĩ đều nhìn con trai bà. Người con trai đang hút điếu xì gà cao cấp bên cạnh, không nói một lời nào. Tất cả các bác sĩ và y tá trong lòng đều mắng anh ta: Con trai giàu có như vậy mà không nỡ lắp răng tốt hơn cho mẹ mình. Lúc này bà mẹ run rẩy nói: “Tôi trả tiền.” Bà mẹ lấy trong túi ra một chiếc khăn tay, sau đó dùng đôi tay run rẩy chậm rãi cởi từng lớp một, rồi lấy ra hai ba tờ tiền một trăm đồng, nói rằng muốn tự trả phí làm răng của mình (Vì loại tốt giá trên nghìn đồng, nên bà không làm). Con trai bà ngồi bên cạnh không nói một lời nào, vẫn hút thuốc như không có chuyện gì xảy ra. Các bác sĩ, y tá có mặt ở đấy cũng đều mắng anh ta, họ thầm nghĩ: Sao con mà bất hiếu vậy, giàu có đến thế mà không nỡ làm cho mẹ mình một bộ răng. Sau khi trả tiền xong, cậu ta cùng mẹ ra ngoài và lên chiếc Mercedes của mình. Sau khi đỡ mẹ lên xe, cậu ta nói với mẹ: “Mẹ ơi đợi một lát, con quên lấy đồ.” Vừa bước vào, cậu con trai đã nói với bác sĩ và y tá: “Tôi biết mọi người đều mắng tôi, mọi người nghĩ rằng tôi rất bất hiếu. Vì tính mẹ tôi là cả đời tiết kiệm, nên tôi tùy thuận theo mẹ tôi. Thưa bác sĩ, hãy làm loại răng tốt nhất cho mẹ tôi, phí bao nhiêu tôi trả, nhưng đừng để mẹ tôi biết”. Nói xong cậu ta đặt tiền ở đó rồi lái xe chở mẹ rời đi.

Câu chuyện này dạy chúng ta rằng con người nên tử tế với người khác, không chỉ bề ngoài mà còn bằng cả tấm lòng, dùng tâm mới có thể làm cảm động người khác. Lời nói phải dùng tâm, việc làm phải dùng tâm, thì cái tâm này của quý vị mới có thể thật sự có tác dụng. Vậy nên tu luyện là tu sửa bản chất của chúng ta. Tu tâm, tu tâm chính là trau dồi bổn tánh này của chính mình; tu tâm, tu tâm là để chúng ta có thể hiểu được tâm của người khác. Chỉ khi có thể hiểu được tâm của người khác, thì quý vị mới có được Phật tánh đích thực của riêng mình.

Tiếp theo, Thầy sẽ kể cho mọi người một câu chuyện.

Sau khi A Bàn Đề Quốc tuyên hóa, (tức là truyền lệnh cho vua, giáo hóa dân chúng gọi là tuyên hóa), Tôn giả Katyayana trên đường trở lại Xá Vệ Quốc nghe Phật Đà thuyết pháp, nhìn thấy một vị phu nhân cầm trong tay một bình nước, ngồi ở bờ sông lớn tiếng gào khóc.

Vị Tôn giả Katyayana này vừa nhìn thấy, bất giác trong lòng ông thản nhiên cảm thấy thương xót. Ông sợ lão phu nhân này vì thất vọng chuyện gì đó mà nhảy xuống nước tự sát, bởi vậy mà ông lập tức tiến lên hỏi: “Thưa phu nhân, chuyện gì khiến bà đau lòng đến mức phải gào khóc ở đây vậy?”

“Không cần ông quan tâm! Tôi nói cho ông biết thì có ích lợi gì?” Người phụ nữ khóc càng lớn hơn.

“Thưa bà, hãy nói cho tôi biết, tôi là đệ tử của Đức Phật và tôi có thể giúp bà giải quyết nhiều vấn đề đau khổ.”

“Ông không có cách nào đâu. Hãy nhìn xem thế giới này thật bất công và sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo như thế nào. Tôi là một người nghèo số khổ, tôi đã phải chịu đựng cả cuộc đời. Tôi đã bị cái nghèo hành hạ đến mức không muốn sống nữa.” Người phụ nữ nói xong, có vẻ như bà sắp nhảy xuống nước.

Tôn giả Katyayana vội vàng tiến về phía trước giữ chặt bà, với sắc thái vô cùng từ bi và cảm thông, ông khuyên bà: “Bà à, xin bà đừng buồn, người nghèo trên thế gian này rất nhiều, không phải một mình bà đâu. Hơn nữa người nghèo không nhất định là khổ hay bất hạnh, và người giàu cũng không nhất định là họ có được niềm vui. Bà xem những người giàu có, họ có nô tỳ và điền trạch, hàng ngày họ vẫn vì phiền não tham dục, sân hận mà chịu khổ. Làm người chỉ cần sống bình an là tốt rồi, nghèo khó có đáng để chúng ta đau buồn như vậy không?”

Người phụ nữ sốt ruột vùng vẫy nói: “Ông là một vị Sa Môn xuất gia, ông có thể nhìn thoáng được thế tình này, nhưng tôi thì không. Ông nên biết rằng, tôi là nô lệ của phú hào lớn nhất nơi này, quanh năm suốt tháng làm nô dịch, cơm áo không chu toàn, không có tự do, còn người chủ tâm ác của tôi thì tham lam và độc ác, nếu chúng tôi làm sai điều gì, ông ấy không đánh thì cũng mắng, khiến chúng tôi muốn sống cũng không được, muốn chết cũng không xong. Nghĩ đến đây nỗi đau khổ khó khăn đều do sự nghèo khó của mình gây ra, thì làm sao bảo tôi không buồn vì nghèo cơ chứ?”

“Này phu nhân, đã như vậy rồi, xin bà đừng buồn. Tôi có thể bày cho bà một cách thoát nghèo và làm giàu được không?”

“Là phương pháp gì vậy?” Bà lão lau nước mắt và nhìn Tôn giả Katyayana hỏi.

Tôn giả Katyayana nói: “Phương pháp này rất đơn giản. Vì bà đang phải chịu cảnh nghèo khó nên bà có thể bán cái nghèo của bà cho người khác”.

“Hả? Nghèo đói mà có thể bán cho người khác sao? Đừng có ăn nói vớ vẩn như vậy. Nếu cái nghèo có thể bán cho người khác thì trên thế giới này sẽ không có người nghèo, ai lại sẵn lòng mua cái nghèo cơ chứ?”

Tôn giả Katyayana đáp: “Hãy bán nó cho tôi và tôi sẽ mua nó”.

“Nghèo đói có thể bán và ông cũng có thể mua nó. Nhưng làm sao để bán nó?”

Lúc này Tôn giả khai thị: “Phải bố thí đấy bà, bà nên biết rằng, người giàu và người nghèo ở đời đều có nhân duyên riêng. Sở dĩ người mà nghèo là vì đời trước họ không bố thí và tu phước, người mà sở dĩ giàu có là vì đời trước họ sẵn lòng bố thí và tu phước. Vì thế, bố thí và tu phước là cách tốt nhất để bán nghèo mua phú quý.

Sau khi nghe điều này, người phụ nữ trở nên trí tuệ khai mở và nghĩ: “Cho đến hôm nay mình mới hiểu được cách làm giàu”. Nhưng sau đó bà lại nhăn mặt hỏi: “Thưa Tôn giả, ông nói rất đúng. Tôi thật sự hiểu được phương pháp làm giàu này. Tuy nhiên, ông thấy đấy tôi rất nghèo, tôi chẳng có gì cả. Ngay cả chai nước trên tay tôi cũng là của người chủ yêu tiền như mạng sống của mình, vậy ông nói xem tôi làm sao có thể bố thí cho ông đây?”

Tôn giả Katyayana đưa bát khất thực của mình cho người phụ nữ và nói: “Bố thí không nhất thiết là cần đến tiền, khi nhìn thấy người khác bố thí, bà khởi tâm hoan hỷ cũng được. Bây giờ bà có thể rót nước vào trong bát khất thực này, xem như bà bố thí cho tôi vậy?”

Lúc này, người phụ nữ đã thực sự hiểu được ý nghĩa của việc bố thí và liền làm theo lời dạy. Sau này vì công đức cúng nước mà bà vãng sinh vào cõi Trời Đao Lợi hưởng lạc.

Đạo Phật không phân biệt giàu nghèo, ai cũng có thể bố thí và phụng hành. Bố thí không nhất thiết chỉ dành cho người giàu, bởi bố thí trong Phật giáo không chỉ có nghĩa là bố thí tiền của, mà khi thấy người khác làm việc từ thiện, quý vị tôn trọng họ, không ghen ghét, không sân hận họ, và lại khởi tâm vui mừng, đây cũng gọi là bố thí, vì công đức của quý vị cũng giống như công đức của người bố thí. Tại sao con người chúng ta không làm được một hành động tử tế đơn giản như vậy?

Đời người chúng ta đang ở giữa chông gai, nếu tâm chúng ta không vọng động hấp tấp thì chúng ta sẽ không bị tổn thương; khi chúng ta vừa có vọng niệm thì tâm chúng ta sẽ bị chính mình làm tổn thương. Nếu tâm động tức thân vọng động, sẽ làm tổn thương thân thể, tổn thương xương cốt, không có điều tổn thương nào mà không làm hại đến tâm chúng ta. Vì vậy, hiểu được mọi nỗi khổ đau trong cuộc đời và học cách âm thầm vận dụng Phật pháp để quan tâm, chăm sóc và chúc phúc cho người khác đó chính là một hình thức bố thí vô hình.

Được rồi, cảm ơn đại chúng, bài giảng hôm nay xin tạm dừng tại đây. Chúng ta hẹn gặp lại vào lần sau. Cảm ơn đại chúng.

 
Lên đầu trang