Bạch Thoại Phật Pháp – Quyển 1
<Bộ 12 Quyển>

(白话佛法一)

1. Học Tập Trí Tuệ Viên Dung Trong Đạo Phật

QUYỂN 1 – TẬP 1
HỌC TẬP TRÍ TUỆ VIÊN DUNG TRONG ĐẠO PHẬT

Đầu tiên, Sư Phụ muốn nói với mọi người rằng mục đích của việc học Phật là để khôi phục lại trí huệ và đức năng vốn sẵn có của chúng ta. Chúng ta cần hiểu rằng, việc tu hành không phải là một việc dễ dàng. Cần phải dùng sự chân tâm cùng với hành vi của bản thân để tu hành. Phải học cách tu tập để loại bỏ những vô minh và tập khí trên thân của chính mình. Đừng để những thói quen không tốt đó lưu lại trong tâm của chúng ta và trên thế gian này, phải học cách chống lại và loại bỏ tính ích kỷ của mình, loại bỏ tư tâm tạp niệm. Cần phải sửa đổi cách nghĩ, cách nói, cách nhìn và cách làm của bản thân đối với những sai lầm của nhân sinh vũ trụ. Tu tâm là cần phải tu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh quan trọng hơn bất cứ điều gì, khi mà tâm thanh tịnh rồi thì tất cả những vọng tưởng, chấp trước, tà tri, tà niệm sẽ không còn; tâm tịnh có thể sinh ra trí huệ. Tâm thanh tịnh rồi, thân thanh tịnh, tâm – thân thanh tịnh, thì cảnh giới của con người cũng thanh tịnh.

Tất cả mọi người đều bình đẳng:  Sự bình đẳng được xây dựng trên nền tảng nào là một điều rất quan trọng. Trên thế giới này không có sự bình đẳng tuyệt đối. Trên thực tế, rất khó để nói rằng tất cả mọi người đều bình đẳng. Thật ra, sự bình đẳng này được xây dựng trên cơ sở của tâm linh nguyên thủy, phải dùng tâm để quán chiếu và cân bằng. Tâm bình đẳng là phải dùng tâm lý của hậu thiên để điều chỉnh và bù đắp.  Phải học cách dùng trí huệ để hóa giải những chướng ngại của tâm. Ví dụ như: Từ trong phạm vi lớn ngoài xã hội có người thì họ rất may mắn và giàu có, nhưng cũng có người thì lại rất thê thảm, nghèo khó và bần cùng cho đến phạm vi nhỏ trong một gia đình, vợ và chồng hy sinh nhiều hay ít, thật ra đều là khảo nghiệm đối với tâm bình đẳng.

Hiếu Thân Tôn Sư:  Tại sao lại đặt lòng hiếu thảo và tôn kính Sư phụ cạnh nhau? “Một ngày làm Sư phụ, cả đời làm Cha”. Quý vị phải hiểu đạo lý này. Tại sao lại mang Thân và Sư để cùng nhau? Quý vị phải biết rằng, Sư Phụ đã dùng tinh thần và linh hồn của bản thân để chăm sóc quý vị, dùng trường khí của bản thân để giúp đỡ và bảo hộ đại chúng, đây thật sự không phải là một việc dễ dàng. Có những điều mà ngay cả cha mẹ cũng không có cách nào làm được nhưng Sư Phụ có thể làm được. Dù cha mẹ đã nuôi dưỡng chúng ta, nhưng Sư Phụ chính là người dẫn dắt chúng ta trên con đường Phật đạo, cứu độ linh hồn và cuộc đời của chúng ta. Nhiều người bị bệnh tâm linh, cha mẹ họ có thể sẽ không cứu được họ, nhưng Sư Phụ có thể cứu được họ, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát cứu độ chúng sinh. Chữ “Sư” ở đây không nhất thiết chỉ Sư phụ Lư Quân Hoành, mà là chỉ tất cả các chư Phật và chư Bồ Tát dẫn dắt chúng ta đi theo con đường chánh  đạo.

“Hiếu kính” là đức tính, là phẩm chất đạo đức, chỉ duy nhất tính đức này mới có thể mở ra tự tánh của chúng ta. “Đạo làm Sư phụ”là lời chỉ dạy của Đức Phật Thích Ca, “Đạo làm Sư phụ”được xây dựng trên nền tảng của “Hiếu đạo”. Không có “Hiếu đạo” thì đừng bàn đến “Sư đạo”. Mọi người nhất định phải tôn sư trọng đạo, chỉ có tôn sư trọng đạo mới có thể đạt được thành tựu trong Đạo Nghiệp.

Kiến Hoà Đồng Giải: Chính là xây dựng nhận thức chung, giữa người với người phải dùng chân tâm để đối đãi, đừng dùng vọng tâm, bởi vì vọng tâm của con người biến hóa vô thường, chỉ có bắt đầu dùng chân tâm thì mới có thể kiến hoà đồng giải, trong chân tâm không có vọng niệm. Phải học cách buông bỏ tất cả những phân biệt, chấp trước của bản thân. Ví dụ: Hôm nay, hai đệ tử trong lúc nói chuyện quan điểm không giống nhau, ý kiến không giống nhau, vậy thì làm cách nào để thực hiện “kiến hoà đồng giải” làm thế nào để đạt được sự đồng thuận? Phải dùng trí huệ của Bồ Tát để hóa giải bất đồng. Nếu như quý vị học được điều này, bất kể là đi đến đâu cũng có thể hóa giải được mâu thuẫn. Đây là một môn học rất sâu sắc của tri thức. Kỳ thật, đây chính là đạt được sự nhận thức chung. Khi quý vị gặp phải vấn đề, có nhận thức chung mới có thể thực hiện hoá giải.

Ở đây phải nhấn mạnh 1 chút:

Về chữ “giải”, ở đây không phải là nói quý vị kiềm chế bản thân, không nên kiềm chế cảm xúc cơn giận mà phải học cách hóa giải nó.

Hóa giải là cảnh giới cao nhất, chứ không phải là khắc chế hay kìm nén. Chúng ta có chữ “Nhẫn” , chính là việc gì cũng cần phải nhẫn. Thật ra, nhẫn nại chỉ là tạm thời, nhẫn không phải là cảnh giới cao nhất. Đại chúng đều xem qua bộ phim Ninja Rùa, nhẫn đến cuối cùng anh ta đặt lên tim mình một con dao, sẽ có một ngày anh ta dùng con dao này để làm tan nát trái tim mình. Lúc đại chúng bất đồng ý kiến, phải học cách làm thế nào để hóa giải, đầu tiên có thể nói ra quan điểm, sau đó dùng trí huệ để hóa giải mâu thuẫn.

Bây giờ Sư phụ xin giải thích với đại chúng một chút về chữ “Hòa” trong “Hòa vi quý”. “Hòa” mọi người đều biết là “hòa nhã, ôn hòa”. “Hòa” chính là nói tất cả đều phải lấy chữ “hòa” làm điểm xuất phát. Nhiều người không biết và nghĩ rằng từ “hòa hợp” có nghĩa là bạn và tôi sống hòa thuận, chung sống hòa bình v.v… Nếu quý vị có một điểm xuất phát thật tốt để giải quyết vấn đề thì mọi việc đều có thể được giải quyết một cách dễ dàng cho nên điểm xuất phát là rất quý giá. Chỉ có “hòa” mới dần dần đưa tư tưởng kiến giải và phương thức sống của chúng ta xích lại gần nhau hơn.

Phật pháp khó nghe: cũng có thể nói: “Sư phụ tốt  khó gặp, chánh pháp khó nghe”. Trong Thời Kỳ Mạt Pháp này, nhiều người đi khắp nơi Bái Bồ tát, thắp hương hoặc Bái Sư. Quý vị có biết trên thế giới hiện có bao nhiêu người tín ngưỡng theo Phật giáo không? Nhưng có đươc bao nhiêu người trong số họ thực sự hiểu được tầm quan trọng của việc niệm kinh? Quý vị cũng biết có rất nhiều người họ thường nói rằng họ có lBái Bồ Tát, có tin tưởng v.v…Trước đây Quý vị đều nghe Sư Phụ có nói qua việc Bái Phật nhưng không niệm Kinh, nếu nói nặng một chút, nghiêm trọng một chút tức là bằng với việc không Bái Phật. Đến tên của Bồ Tát cũng không biết, cái gì cũng không hiểu, thì làm sao có thể có được sự gia trì và giúp đỡ của Bồ Tát? Sư Phụ thường nói với Đại chúng một ví dụ: Giả sử tôi rất thích và sùng bái một trường đại học. Nhưng bản thân tôi lại không học bài và cũng không đọc sách, thì làm sao có thể thi đậu vào ngôi trường này? Cho nên cần phải hiểu đạo lý này.

Phật pháp khó nghe: Trong Thời Kỳ Mạt Pháp này, Quý vị muốn đạt được chân lý của Bồ Tát, muốn có thể nhận được sự gia trì của Quán Thế Âm Bồ Tát, thì phải tìm được Phật pháp Chân Chánh. Ngày nay học Bồ Tát khó, học Phật lại càng khó hơn. Bồ Tát là “ngộ” và “trí huệ”, mà Phật là “giác ngộ”- là đấng Đại triệt đại ngộ (tức là: giác ngộ tối thượng). Khi Quý vị đã khai ngộ rồi, đạt được chánh  đẳng chánh  giác, thì Quý vị chính là Bồ Tát. Muốn thành Phật thì nhất định phải chứng đắc Vô Thuợng Chánh Đẳng ChÁnh GiÁc.

Nhiều người cứ nghĩ rằng bản thân cúi đầu lạy lạy, đọc một ít kinh sách chính là đã nghe được Phật Pháp.  Xin hỏi Quý vị là: Quý vị đã đọc loại sách nào và đã nghe loại Pháp gì? Đều cần phải hiểu được đạo lý trong đó. Như Sư phụ thường nói với đại chúng, khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp ở Ấn Độ, Ngài thường xuyên dẫn các đệ tử của Ngài theo bên cạnh Ngài và Ngài cho họ gõ cửa từng nhà cầm y bát khất thực để xin ăn, để từ đó mà nuôi dưỡng Phật tâm. Nguyên lý là: Thứ nhất là làm cho những người tại gia có thể bố thí, phát tâm từ bi. Khi nghe thấy tiếng gõ cửa, họ sẽ nói: “Ồ! Hoà thượng tới rồi, A Di Đà Phật!” và sau đó họ đem đồ ăn cho hòa thượng, đây chính là nuôi dưỡng tâm bố thí. Thứ hai,  rất nhiều hòa thượng là hoàng thân quý tộc, thương nhân. Sau khi nghĩ thông, họ xuống tóc mặc áo cà sa, Phật Tổ chính là muốn bồi dưỡng tâm từ bi của họ, làm cho họ tự buông bỏ chính mình, buông bỏ tâm ngạo mạn, muốn cho họ nhận thức được bản thân chỉ là một người bình thường, cùng bình đẳng như tất cả chúng sinh. Hiện tại Quý vị thấy có ngôi chùa nào mà các Hòa Thượng đi khất thực trên đường không? Đừng nghĩ rằng xưa kia có một vị lão Pháp sư nào đó đã nói như vậy hay một vị Lão hành giả nào đó đã tu hành như vậy cho nên chúng ta phải đi theo con đường của họ, thực ra tu hành là cần tìm ra chân ngã và Phật tánh của chính mình.

Cách tu tâm hiện nay cần phải thay đổi, phải biết rằng điều cần phải sửa ở đây không phải là Phật Pháp mà là “phương pháp”, tu vi ở nhân gian phải dùng tâm để mà tu. Trong thời Kỳ Mạt pháp, chúng ta phải học Phật giáo Đại thừa – để cứu độ chúng sinh. Chỉ khi độ người, ta mới có được trí huệ và sức mạnh thực sự. Tại sao sau khi Sư phụ mở thiên nhãn và chỉ trong thời gian ngắn mà Sư Phụ cứu được nhiều người đến như vậy? Và có thể có được năng lực mạnh đến như vậy? Tất cả đều do tu hành mà thành, là do Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi ban tặng. Quý vị chỉ cần nỗ lực độ người, cứu người, đem Chánh  đạo – Chánh  pháp này truyền cho đại chúng, Bồ Tát sẽ ban cho quý vị năng lượng gấp bội, quý vị cần phải hiểu rõ những đạo lý này. Vào thời kỳ Mạt pháp, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ hóa thân thành nhiều hình tướng khác nhau để cứu độ mọi người, bây giờ Sư Phụ cũng đang cứu độ mỗi người, khuyên đại chúng đều niệm kinh, làm cho mọi gia đình đều chuyển biến tốt đẹp, độ người hoằng pháp lợi sinh.

Vô thượng chánh  đẳng, chánh  giác: Chính là Phật – Bồ Tát. Pháp môn mà hiện nay Sư Phụ đang dạy quý vị chính là cần phải học vô thượng, chánh  đẳng, chánh  giác, chính là pháp môn đến từ Phật – Bồ Tát, chính là cảnh giới căn tu  cao nhất. Quán Thế Âm Bồ Tát thường xuyên ở bên cạnh Sư Phụ nói chuyện, dạy Sư Phụ làm thế nào để cứu độ người trên Đài Phát Thanh. Quý vị có biết hiện tại có rất nhiều Pháp môn đều được lưu truyền một cách bí mật. Bây giờ Sư Phụ muốn khai mở trí huệ của mỗi người và cho đại chúng biết Quán Thế Âm Bồ Tát tế thế cứu nhân như thế nào. Nếu xảy ra lũ lụt trên một hòn đảo nhỏ, máy bay bay đến, hàng không tới thì họ chỉ cứu một số người thôi hay là họ cứu tất cả mọi người? Tuy nhiên, trong quá trình cứu tất cả mọi người thì sẽ gặp rất nhiều vấn đề, chẳng hạn như một số người già, yếu, bệnh tật, khuyết tật khi đi qua hàng không thì vô tình bị rơi xuống nước hoặc có người thì bệnh tim tái phát v.v.., đây là những người thực sự đáng thương không có duyên phận, cũng giống như những người chưa được nghe Phật Pháp. Việc cứu người thực sự là cần phải thông qua Văn – Tư – Tu (tức là: Nghe pháp – Tư Duy  – Tu Hành) của Phật pháp. Mọi người thử nghĩ xem, có phải có những Đại Pháp Sư đang phổ độ chúng sinh hay không? Họ đang quang minh chính đại phổ độ chúng sinh.

Cho nên phải nhớ kỹ cái gì là “Chánh”, “正”? “Chánh” là sự hoà hợp của âm dương ngũ hành mà thành. Bây giờ Sư phụ sẽ nói thêm đôi điều về chữ “chánh”. Nét ngang trên cùng là “kim”, nét ngang dưới cùng là “thuỷ”, nét dọc ở giữa là “mộc”, nét dọc ngắn bên trái là “hoả”, nét ngang ngắn bên phải là “thổ”. Cho nên chân chánh vô thượng, chánh  đẳng chánh  giác cũng chính là kết quả viên mãn của trí huệ, chính là chỉ cho chúng ta như thế nào để tìm ra con đường chân chánh.

Mọi người phải nhớ rằng trong Thời Kỳ Mạt Pháp, những điều “chánh” nhất định sẽ chịu được thử thách, bách thí bách linh, cho nên nhất định phải hoằng dương Phật Pháp. Nếu quý vị có năng lượng để tiếp thu, thì có thể hiểu được những giáo lý Phật giáo này. Còn nếu không có năng lượng thì không thể hiểu được, cho dù được ám truyền cũng vô dụng. Công lực không giống nhau, tu hành ở kiếp trước cũng không giống nhau cho nên năng lượng tiếp thu cũng không thể giống nhau. Trong thời kỳ mạt Pháp, chúng ta phải tìm ra Đạo đúng đắn nhất, thiết thực nhất và có thể giải quyết các vấn đề của bản thân nhất. Nếu một người ở thời kỳ Mạt pháp không để cho Quán Thế Âm Bồ Tát bảo hộ và cứu độ họ, không muốn làm cho số phận của mình thay đổi tốt đẹp hơn thì chỉ có thể nói người này thật đáng thương.

Kết quả của trí huệ viên mãn : Chính là đối với chân tướng của nhân sinh vũ trụ không có một chút mê hoặc. Nói về hiện nay một chút, nếu chúng ta có thể bình tĩnh mà suy nghĩ, quan sát; sau đó có thể hoá giải vấn đề một cách viên mãn thỏa đáng thì đó chính là trí huệ viên mãn. Trí tuệ không viên mãn thì xác suất thành công chỉ bằng một nửa, trí huệ viên mãn thì việc gì cũng có thể thành công.

Hãy nhớ rằng, dù là con cái hay trưởng bối, nếu quý vị hiếu thuận trưởng bối, kính già yêu trẻ, thì tương lai sau này con cái của Quý vị cũng sẽ hiếu thảo với Quý vị, đây gọi là báo ứng, gọi là báo ứng ở nhân gian. Nhiều người cho rằng báo ứng chỉ đến sau khi chết, thực ra thì lúc đang còn sống là đã bắt đầu báo ứng nhãn tiền rồi. Hãy nhìn bộ dạng dơ dáy của những người nằm bên đường xin ăn, đây chẳng phải là báo ứng nhãn tiền sao?  Là quả báo sao? Phải biết rằng báo ứng kiếp này rất nhanh, theo sát quý vị như hình với bóng, bất luận là làm gì quá đáng sẽ có báo ứng nhãn tiền. Nếu làm việc xấu trong giới hạn thì kiếp sau báo ứng, nếu làm việc xấu vượt quá giới hạn thì lập tức sẽ bị báo ứng ngay. Vì vậy, làm bất cứ điều gì cũng không được vượt quá giới hạn, nếu không sẽ gặp tai họa.

Có một số người tu tâm, tâm rất chân thành, lương tâm rất tốt, đến chùa nào họ cũng lạy Bồ Tát. Nếu kiếp này không tìm được một Sư phụ tốt, tìm không thấy mục tiêu thì cũng chỉ là một người tín Phật. Ví dụ như: Mỗi ngày lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng chưa có nhận thức chính xác về Quán Thế Âm Bồ Tát, không biết học hỏi trí huệ của Quán Thế Âm Bồ Tát và tiếp nhận trường khí của Quán Thế Âm Bồ Tát để tu hành cho mình, mà bản thân mình ngày ngày ở nhân gian chịu khổ, chịu nạn nhưng mãi không hề biết vì lý do gì? Cũng có rất nhiều người đến khi tai họa ập đến, mới biết bái Phật mới chạy đến ôm chân Phật. Nếu không tìm được một người Sư phụ tốt hay một mục tiêu chính xác thì làm sao quý vị có thể giải quyết những vấn đề mà quý vị phải đối mặt trong kiếp này?

Tu tập, cần phải “phước huệ song tu”. Làm việc thiện là tu Phước  , Huệ   chính là trí huệ, trí huệ không phải người bình thường có thể tu thành, đây là vấn đề quan trọng nhất, có trí huệ thì vấn đề gì cũng có thể giải quyết được. Muốn có trí huệ thì chỉ có thể niệm kinh và làm công đức. Có tu hành giới luật mới đạt được định, có định mới khai được trí huệ, thân tâm nhất định phải an định. Cho nên nói: “Nhân giới đắc định, nhân định khai huệ”  (dựa vào giới luật để đạt được định, dựa vào định để khai mở trí tuệ ). Phật giáo có ngũ giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Đừng nghĩ rằng chỉ những người học Phật mới thọ Ngũ giới, là một người bình thường cũng không thể tùy tiện giết hại động vật, tà dâm, trộm cắp, v.v…. Hy vọng đại chúng có thể hiểu rõ và thấu triệt được  đạo lý ở trong đó. Tại sao chư Phật và chư Bồ Tát không chủ trương việc uống rượu? Bởi vì uống rượu có thể gây ra thương tổn lớn cho con người, khiến con người mất đi lý trí, đầu óc không tỉnh táo, tinh thần sa sút. Nhiều cơ quan chính phủ đã dán biểu ngữ : Uống rượu gây rối là phạm tội. Điều này cho thấy Phật Pháp là Chánh Pháp. Sở dĩ đạo Phật có thể thâm nhập nhân tâm, có thể hiểu và lý giải được là vì chỉ có những điều Chánh mới được đại chúng ủng hộ và kính yêu.

Phá mê khai ngộ: Mê là gì? Danh, lợi, tửu (rượu), sắc, tài, khí, tham, sân, si. Nếu một người có lòng tham thì dục vọng của họ không bao giờ được thỏa mãn, cuối cùng sẽ đọa vào cõi ngạ quỷ. Tham ái là căn nguyên của mọi tội ác. Nếu tham mà không đạt được thì sẽ sinh ra tâm sân hận, khởi lên phiền não cuối cùng sẽ rơi vào địa ngục. Nếu một người rất ngu ngốc chỉ biết kiếm tiền hoặc làm hại người khác, mà không biết cách giúp đỡ người khác, thì trong tương lai sẽ đầu thai thành súc sinh. Súc sinh chấp trước vào bản tướng, luôn luân hồi trong cõi súc sinh. Ngu si chính là không có trí tuệ.  Sư phụ giảng cho đại chúng là chánh  pháp, chánh đạo, chánh  tín, chánh  niệm, chánh  thời, để mọi người có thể phá mê khai ngộ, học cách rời xa sự đau khổ của bản thân và tìm được hạnh phúc thực sự của chính mình.

Lời cảm ngộ xuất phát từ tận đáy lòng của đệ tử: Sư phụ tốt khó gặp, hôm nay chúng con có thể gặp được Sư phụ Lư Quân Hoành là phước báo lớn của chúng con ở kiếp này và cũng do thiện căn và phước đức nhiều đời nhiều kiếp, nhân duyên chín muồi, rất khó có được. Đây là cơ duyên. Nên chúng con phải trân quý mối duyên này, tinh tấn tu hành, học tập tấm lòng Đại Từ Dại Bi Vô Lượng của Sư phụ, đoạn trừ phiền não, phát Bồ Đề Tâm, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, theo Sư phụ Hoằng Dương Phật Pháp, phổ độ chúng sinh, người người pháp hỷ tràn đầy, ai nấy cũng đều có thể đạt được thành tựu chân chính và viên mãn công đức.

QUYỂN 1- TẬP 2
CHƯ ÁC MẠC TÁC ,CHÚNG THIỆN PHỤNG HÀNH
(Đừng làm các việc ác nên làm các việc lành)

Đầu tiên, Sư Phụ muốn nói với mọi người rằng mục đích của việc học Phật là để khôi phục lại trí huệ và đức năng vốn sẵn có của chúng ta. Chúng ta cần hiểu rằng, việc tu hành không phải là một việc dễ dàng. Cần phải dùng sự chân tâm cùng với hành vi của bản thân để tu hành. Phải học cách tu tập để loại bỏ những vô minh và tập khí trên thân của chính mình. Đừng để những thói quen không tốt đó lưu lại trong tâm của chúng ta và trên thế gian này, phải học cách chống lại và loại bỏ tính ích kỷ của mình, loại bỏ tư tâm tạp niệm. Cần phải sửa đổi cách nghĩ, cách nói, cách nhìn và cách làm của bản thân đối với những sai lầm của nhân sinh vũ trụ. Tu tâm là cần phải tu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh quan trọng hơn bất cứ điều gì, khi mà tâm thanh tịnh rồi thì tất cả những vọng tưởng, chấp trước, tà tri, tà niệm sẽ không còn; tâm tịnh có thể sinh ra trí huệ. Tâm thanh tịnh rồi, thân thanh tịnh, tâm – thân thanh tịnh, thì cảnh giới của con người cũng thanh tịnh.

Tất cả mọi người đều bình đẳng:  Sự bình đẳng được xây dựng trên nền tảng nào là một điều rất quan trọng. Trên thế giới này không có sự bình đẳng tuyệt đối. Trên thực tế, rất khó để nói rằng tất cả mọi người đều bình đẳng. Thật ra, sự bình đẳng này được xây dựng trên cơ sở của tâm linh nguyên thủy, phải dùng tâm để quán chiếu và cân bằng. Tâm bình đẳng là phải dùng tâm lý của hậu thiên để điều chỉnh và bù đắp.  Phải học cách dùng trí huệ để hóa giải những chướng ngại của tâm. Ví dụ như: Từ trong phạm vi lớn ngoài xã hội có người thì họ rất may mắn và giàu có, nhưng cũng có người thì lại rất thê thảm, nghèo khó và bần cùng cho đến phạm vi nhỏ trong một gia đình, vợ và chồng hy sinh nhiều hay ít, thật ra đều là khảo nghiệm đối với tâm bình đẳng.

Hiếu Thân Tôn Sư:  Tại sao lại đặt lòng hiếu thảo và tôn kính Sư phụ cạnh nhau? “Một ngày làm Sư phụ, cả đời làm Cha”. Quý vị phải hiểu đạo lý này. Tại sao lại mang Thân và Sư để cùng nhau? Quý vị phải biết rằng, Sư Phụ đã dùng tinh thần và linh hồn của bản thân để chăm sóc quý vị, dùng trường khí của bản thân để giúp đỡ và bảo hộ đại chúng, đây thật sự không phải là một việc dễ dàng. Có những điều mà ngay cả cha mẹ cũng không có cách nào làm được nhưng Sư Phụ có thể làm được. Dù cha mẹ đã nuôi dưỡng chúng ta, nhưng Sư Phụ chính là người dẫn dắt chúng ta trên con đường Phật đạo, cứu độ linh hồn và cuộc đời của chúng ta. Nhiều người bị bệnh tâm linh, cha mẹ họ có thể sẽ không cứu được họ, nhưng Sư Phụ có thể cứu được họ, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát cứu độ chúng sinh. Chữ “Sư” ở đây không nhất thiết chỉ Sư phụ Lư Quân Hoành, mà là chỉ tất cả các chư Phật và chư Bồ Tát dẫn dắt chúng ta đi theo con đường chánh  đạo.

“Hiếu kính” là đức tính, là phẩm chất đạo đức, chỉ duy nhất tính đức này mới có thể mở ra tự tánh của chúng ta. “Đạo làm Sư phụ”là lời chỉ dạy của Đức Phật Thích Ca, “Đạo làm Sư phụ”được xây dựng trên nền tảng của “Hiếu đạo”. Không có “Hiếu đạo” thì đừng bàn đến “Sư đạo”. Mọi người nhất định phải tôn sư trọng đạo, chỉ có tôn sư trọng đạo mới có thể đạt được thành tựu trong Đạo Nghiệp.

Kiến Hoà Đồng Giải: Chính là xây dựng nhận thức chung, giữa người với người phải dùng chân tâm để đối đãi, đừng dùng vọng tâm, bởi vì vọng tâm của con người biến hóa vô thường, chỉ có bắt đầu dùng chân tâm thì mới có thể kiến hoà đồng giải, trong chân tâm không có vọng niệm. Phải học cách buông bỏ tất cả những phân biệt, chấp trước của bản thân. Ví dụ: Hôm nay, hai đệ tử trong lúc nói chuyện quan điểm không giống nhau, ý kiến không giống nhau, vậy thì làm cách nào để thực hiện “kiến hoà đồng giải” làm thế nào để đạt được sự đồng thuận? Phải dùng trí huệ của Bồ Tát để hóa giải bất đồng. Nếu như quý vị học được điều này, bất kể là đi đến đâu cũng có thể hóa giải được mâu thuẫn. Đây là một môn học rất sâu sắc của tri thức. Kỳ thật, đây chính là đạt được sự nhận thức chung. Khi quý vị gặp phải vấn đề, có nhận thức chung mới có thể thực hiện hoá giải.

Ở đây phải nhấn mạnh 1 chút:

Về chữ “giải”, ở đây không phải là nói quý vị kiềm chế bản thân, không nên kiềm chế cảm xúc cơn giận mà phải học cách hóa giải nó.

Hóa giải là cảnh giới cao nhất, chứ không phải là khắc chế hay kìm nén. Chúng ta có chữ “Nhẫn” , chính là việc gì cũng cần phải nhẫn. Thật ra, nhẫn nại chỉ là tạm thời, nhẫn không phải là cảnh giới cao nhất. Đại chúng đều xem qua bộ phim Ninja Rùa, nhẫn đến cuối cùng anh ta đặt lên tim mình một con dao, sẽ có một ngày anh ta dùng con dao này để làm tan nát trái tim mình. Lúc đại chúng bất đồng ý kiến, phải học cách làm thế nào để hóa giải, đầu tiên có thể nói ra quan điểm, sau đó dùng trí huệ để hóa giải mâu thuẫn.

Bây giờ Sư phụ xin giải thích với đại chúng một chút về chữ “Hòa” trong “Hòa vi quý”. “Hòa” mọi người đều biết là “hòa nhã, ôn hòa”. “Hòa” chính là nói tất cả đều phải lấy chữ “hòa” làm điểm xuất phát. Nhiều người không biết và nghĩ rằng từ “hòa hợp” có nghĩa là bạn và tôi sống hòa thuận, chung sống hòa bình v.v… Nếu quý vị có một điểm xuất phát thật tốt để giải quyết vấn đề thì mọi việc đều có thể được giải quyết một cách dễ dàng cho nên điểm xuất phát là rất quý giá. Chỉ có “hòa” mới dần dần đưa tư tưởng kiến giải và phương thức sống của chúng ta xích lại gần nhau hơn.

Phật pháp khó nghe: cũng có thể nói: “Sư phụ tốt  khó gặp, chánh pháp khó nghe”. Trong Thời Kỳ Mạt Pháp này, nhiều người đi khắp nơi Bái Bồ tát, thắp hương hoặc Bái Sư. Quý vị có biết trên thế giới hiện có bao nhiêu người tín ngưỡng theo Phật giáo không? Nhưng có đươc bao nhiêu người trong số họ thực sự hiểu được tầm quan trọng của việc niệm kinh? Quý vị cũng biết có rất nhiều người họ thường nói rằng họ có lBái Bồ Tát, có tin tưởng v.v…Trước đây Quý vị đều nghe Sư Phụ có nói qua việc Bái Phật nhưng không niệm Kinh, nếu nói nặng một chút, nghiêm trọng một chút tức là bằng với việc không Bái Phật. Đến tên của Bồ Tát cũng không biết, cái gì cũng không hiểu, thì làm sao có thể có được sự gia trì và giúp đỡ của Bồ Tát? Sư Phụ thường nói với Đại chúng một ví dụ: Giả sử tôi rất thích và sùng bái một trường đại học. Nhưng bản thân tôi lại không học bài và cũng không đọc sách, thì làm sao có thể thi đậu vào ngôi trường này? Cho nên cần phải hiểu đạo lý này.

Phật pháp khó nghe: Trong Thời Kỳ Mạt Pháp này, Quý vị muốn đạt được chân lý của Bồ Tát, muốn có thể nhận được sự gia trì của Quán Thế Âm Bồ Tát, thì phải tìm được Phật pháp Chân Chánh. Ngày nay học Bồ Tát khó, học Phật lại càng khó hơn. Bồ Tát là “ngộ” và “trí huệ”, mà Phật là “giác ngộ”- là đấng Đại triệt đại ngộ (tức là: giác ngộ tối thượng). Khi Quý vị đã khai ngộ rồi, đạt được chánh  đẳng chánh  giác, thì Quý vị chính là Bồ Tát. Muốn thành Phật thì nhất định phải chứng đắc Vô Thuợng Chánh Đẳng ChÁnh GiÁc.

Nhiều người cứ nghĩ rằng bản thân cúi đầu lạy lạy, đọc một ít kinh sách chính là đã nghe được Phật Pháp.  Xin hỏi Quý vị là: Quý vị đã đọc loại sách nào và đã nghe loại Pháp gì? Đều cần phải hiểu được đạo lý trong đó. Như Sư phụ thường nói với đại chúng, khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp ở Ấn Độ, Ngài thường xuyên dẫn các đệ tử của Ngài theo bên cạnh Ngài và Ngài cho họ gõ cửa từng nhà cầm y bát khất thực để xin ăn, để từ đó mà nuôi dưỡng Phật tâm. Nguyên lý là: Thứ nhất là làm cho những người tại gia có thể bố thí, phát tâm từ bi. Khi nghe thấy tiếng gõ cửa, họ sẽ nói: “Ồ! Hoà thượng tới rồi, A Di Đà Phật!” và sau đó họ đem đồ ăn cho hòa thượng, đây chính là nuôi dưỡng tâm bố thí. Thứ hai,  rất nhiều hòa thượng là hoàng thân quý tộc, thương nhân. Sau khi nghĩ thông, họ xuống tóc mặc áo cà sa, Phật Tổ chính là muốn bồi dưỡng tâm từ bi của họ, làm cho họ tự buông bỏ chính mình, buông bỏ tâm ngạo mạn, muốn cho họ nhận thức được bản thân chỉ là một người bình thường, cùng bình đẳng như tất cả chúng sinh. Hiện tại Quý vị thấy có ngôi chùa nào mà các Hòa Thượng đi khất thực trên đường không? Đừng nghĩ rằng xưa kia có một vị lão Pháp sư nào đó đã nói như vậy hay một vị Lão hành giả nào đó đã tu hành như vậy cho nên chúng ta phải đi theo con đường của họ, thực ra tu hành là cần tìm ra chân ngã và Phật tánh của chính mình.

Cách tu tâm hiện nay cần phải thay đổi, phải biết rằng điều cần phải sửa ở đây không phải là Phật Pháp mà là “phương pháp”, tu vi ở nhân gian phải dùng tâm để mà tu. Trong thời Kỳ Mạt pháp, chúng ta phải học Phật giáo Đại thừa – để cứu độ chúng sinh. Chỉ khi độ người, ta mới có được trí huệ và sức mạnh thực sự. Tại sao sau khi Sư phụ mở thiên nhãn và chỉ trong thời gian ngắn mà Sư Phụ cứu được nhiều người đến như vậy? Và có thể có được năng lực mạnh đến như vậy? Tất cả đều do tu hành mà thành, là do Quán Thế Âm Bồ Tát từ bi ban tặng. Quý vị chỉ cần nỗ lực độ người, cứu người, đem Chánh  đạo – Chánh  pháp này truyền cho đại chúng, Bồ Tát sẽ ban cho quý vị năng lượng gấp bội, quý vị cần phải hiểu rõ những đạo lý này. Vào thời kỳ Mạt pháp, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ hóa thân thành nhiều hình tướng khác nhau để cứu độ mọi người, bây giờ Sư Phụ cũng đang cứu độ mỗi người, khuyên đại chúng đều niệm kinh, làm cho mọi gia đình đều chuyển biến tốt đẹp, độ người hoằng pháp lợi sinh.

Vô thượng chánh  đẳng, chánh  giác: Chính là Phật – Bồ Tát. Pháp môn mà hiện nay Sư Phụ đang dạy quý vị chính là cần phải học vô thượng, chánh  đẳng, chánh  giác, chính là pháp môn đến từ Phật – Bồ Tát, chính là cảnh giới căn tu  cao nhất. Quán Thế Âm Bồ Tát thường xuyên ở bên cạnh Sư Phụ nói chuyện, dạy Sư Phụ làm thế nào để cứu độ người trên Đài Phát Thanh. Quý vị có biết hiện tại có rất nhiều Pháp môn đều được lưu truyền một cách bí mật. Bây giờ Sư Phụ muốn khai mở trí huệ của mỗi người và cho đại chúng biết Quán Thế Âm Bồ Tát tế thế cứu nhân như thế nào. Nếu xảy ra lũ lụt trên một hòn đảo nhỏ, máy bay bay đến, hàng không tới thì họ chỉ cứu một số người thôi hay là họ cứu tất cả mọi người? Tuy nhiên, trong quá trình cứu tất cả mọi người thì sẽ gặp rất nhiều vấn đề, chẳng hạn như một số người già, yếu, bệnh tật, khuyết tật khi đi qua hàng không thì vô tình bị rơi xuống nước hoặc có người thì bệnh tim tái phát v.v.., đây là những người thực sự đáng thương không có duyên phận, cũng giống như những người chưa được nghe Phật Pháp. Việc cứu người thực sự là cần phải thông qua Văn – Tư – Tu (tức là: Nghe pháp – Tư Duy  – Tu Hành) của Phật pháp. Mọi người thử nghĩ xem, có phải có những Đại Pháp Sư đang phổ độ chúng sinh hay không? Họ đang quang minh chính đại phổ độ chúng sinh.

Cho nên phải nhớ kỹ cái gì là “Chánh”, “正”? “Chánh” là sự hoà hợp của âm dương ngũ hành mà thành. Bây giờ Sư phụ sẽ nói thêm đôi điều về chữ “chánh”. Nét ngang trên cùng là “kim”, nét ngang dưới cùng là “thuỷ”, nét dọc ở giữa là “mộc”, nét dọc ngắn bên trái là “hoả”, nét ngang ngắn bên phải là “thổ”. Cho nên chân chánh vô thượng, chánh  đẳng chánh  giác cũng chính là kết quả viên mãn của trí huệ, chính là chỉ cho chúng ta như thế nào để tìm ra con đường chân chánh.

Mọi người phải nhớ rằng trong Thời Kỳ Mạt Pháp, những điều “chánh” nhất định sẽ chịu được thử thách, bách thí bách linh, cho nên nhất định phải hoằng dương Phật Pháp. Nếu quý vị có năng lượng để tiếp thu, thì có thể hiểu được những giáo lý Phật giáo này. Còn nếu không có năng lượng thì không thể hiểu được, cho dù được ám truyền cũng vô dụng. Công lực không giống nhau, tu hành ở kiếp trước cũng không giống nhau cho nên năng lượng tiếp thu cũng không thể giống nhau. Trong thời kỳ mạt Pháp, chúng ta phải tìm ra Đạo đúng đắn nhất, thiết thực nhất và có thể giải quyết các vấn đề của bản thân nhất. Nếu một người ở thời kỳ Mạt pháp không để cho Quán Thế Âm Bồ Tát bảo hộ và cứu độ họ, không muốn làm cho số phận của mình thay đổi tốt đẹp hơn thì chỉ có thể nói người này thật đáng thương.

Kết quả của trí huệ viên mãn : Chính là đối với chân tướng của nhân sinh vũ trụ không có một chút mê hoặc. Nói về hiện nay một chút, nếu chúng ta có thể bình tĩnh mà suy nghĩ, quan sát; sau đó có thể hoá giải vấn đề một cách viên mãn thỏa đáng thì đó chính là trí huệ viên mãn. Trí tuệ không viên mãn thì xác suất thành công chỉ bằng một nửa, trí huệ viên mãn thì việc gì cũng có thể thành công.

Hãy nhớ rằng, dù là con cái hay trưởng bối, nếu quý vị hiếu thuận trưởng bối, kính già yêu trẻ, thì tương lai sau này con cái của Quý vị cũng sẽ hiếu thảo với Quý vị, đây gọi là báo ứng, gọi là báo ứng ở nhân gian. Nhiều người cho rằng báo ứng chỉ đến sau khi chết, thực ra thì lúc đang còn sống là đã bắt đầu báo ứng nhãn tiền rồi. Hãy nhìn bộ dạng dơ dáy của những người nằm bên đường xin ăn, đây chẳng phải là báo ứng nhãn tiền sao?  Là quả báo sao? Phải biết rằng báo ứng kiếp này rất nhanh, theo sát quý vị như hình với bóng, bất luận là làm gì quá đáng sẽ có báo ứng nhãn tiền. Nếu làm việc xấu trong giới hạn thì kiếp sau báo ứng, nếu làm việc xấu vượt quá giới hạn thì lập tức sẽ bị báo ứng ngay. Vì vậy, làm bất cứ điều gì cũng không được vượt quá giới hạn, nếu không sẽ gặp tai họa.

Có một số người tu tâm, tâm rất chân thành, lương tâm rất tốt, đến chùa nào họ cũng lạy Bồ Tát. Nếu kiếp này không tìm được một Sư phụ tốt, tìm không thấy mục tiêu thì cũng chỉ là một người tín Phật. Ví dụ như: Mỗi ngày lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng chưa có nhận thức chính xác về Quán Thế Âm Bồ Tát, không biết học hỏi trí huệ của Quán Thế Âm Bồ Tát và tiếp nhận trường khí của Quán Thế Âm Bồ Tát để tu hành cho mình, mà bản thân mình ngày ngày ở nhân gian chịu khổ, chịu nạn nhưng mãi không hề biết vì lý do gì? Cũng có rất nhiều người đến khi tai họa ập đến, mới biết bái Phật mới chạy đến ôm chân Phật. Nếu không tìm được một người Sư phụ tốt hay một mục tiêu chính xác thì làm sao quý vị có thể giải quyết những vấn đề mà quý vị phải đối mặt trong kiếp này?

Tu tập, cần phải “phước huệ song tu”. Làm việc thiện là tu Phước  , Huệ   chính là trí huệ, trí huệ không phải người bình thường có thể tu thành, đây là vấn đề quan trọng nhất, có trí huệ thì vấn đề gì cũng có thể giải quyết được. Muốn có trí huệ thì chỉ có thể niệm kinh và làm công đức. Có tu hành giới luật mới đạt được định, có định mới khai được trí huệ, thân tâm nhất định phải an định. Cho nên nói: “Nhân giới đắc định, nhân định khai huệ”  (dựa vào giới luật để đạt được định, dựa vào định để khai mở trí tuệ ). Phật giáo có ngũ giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Đừng nghĩ rằng chỉ những người học Phật mới thọ Ngũ giới, là một người bình thường cũng không thể tùy tiện giết hại động vật, tà dâm, trộm cắp, v.v…. Hy vọng đại chúng có thể hiểu rõ và thấu triệt được  đạo lý ở trong đó. Tại sao chư Phật và chư Bồ Tát không chủ trương việc uống rượu? Bởi vì uống rượu có thể gây ra thương tổn lớn cho con người, khiến con người mất đi lý trí, đầu óc không tỉnh táo, tinh thần sa sút. Nhiều cơ quan chính phủ đã dán biểu ngữ : Uống rượu gây rối là phạm tội. Điều này cho thấy Phật Pháp là Chánh Pháp. Sở dĩ đạo Phật có thể thâm nhập nhân tâm, có thể hiểu và lý giải được là vì chỉ có những điều Chánh mới được đại chúng ủng hộ và kính yêu.

Phá mê khai ngộ: Mê là gì? Danh, lợi, tửu (rượu), sắc, tài, khí, tham, sân, si. Nếu một người có lòng tham thì dục vọng của họ không bao giờ được thỏa mãn, cuối cùng sẽ đọa vào cõi ngạ quỷ. Tham ái là căn nguyên của mọi tội ác. Nếu tham mà không đạt được thì sẽ sinh ra tâm sân hận, khởi lên phiền não cuối cùng sẽ rơi vào địa ngục. Nếu một người rất ngu ngốc chỉ biết kiếm tiền hoặc làm hại người khác, mà không biết cách giúp đỡ người khác, thì trong tương lai sẽ đầu thai thành súc sinh. Súc sinh chấp trước vào bản tướng, luôn luân hồi trong cõi súc sinh. Ngu si chính là không có trí tuệ.  Sư phụ giảng cho đại chúng là chánh  pháp, chánh đạo, chánh  tín, chánh  niệm, chánh  thời, để mọi người có thể phá mê khai ngộ, học cách rời xa sự đau khổ của bản thân và tìm được hạnh phúc thực sự của chính mình.

Lời cảm ngộ xuất phát từ tận đáy lòng của đệ tử: Sư phụ tốt khó gặp, hôm nay chúng con có thể gặp được Sư phụ Lư Quân Hoành là phước báo lớn của chúng con ở kiếp này và cũng do thiện căn và phước đức nhiều đời nhiều kiếp, nhân duyên chín muồi, rất khó có được. Đây là cơ duyên. Nên chúng con phải trân quý mối duyên này, tinh tấn tu hành, học tập tấm lòng Đại Từ Dại Bi Vô Lượng của Sư phụ, đoạn trừ phiền não, phát Bồ Đề Tâm, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, theo Sư phụ Hoằng Dương Phật Pháp, phổ độ chúng sinh, người người pháp hỷ tràn đầy, ai nấy cũng đều có thể đạt được thành tựu chân chính và viên mãn công đức.

QUYỂN 1 – TẬP 3
MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC HỌC PHẬT VÀ TU TÂM
(Phần 1)

Học Phật tu tâm là để làm gì? Câu hỏi này nhiều người đều có câu trả lời: vãng sinh thế giới cực lạc. Nhưng cụ thể là tu đến mức độ nào thì mới có thể vãng sinh cực lạc, phương pháp tu như thế nào mới có thể vãng sinh cực lạc? Nếu như tu không được tốt lắm , sẽ như thế nào? Nhiều người có thể không thể trả lời được .

Trên Thực tế , vãng sinh cực lạc là một mục tiêu rất cao cả, vì vậy cũng không dễ dàng để tu đạt được. Khi con người qua đời, đều phải trải qua một cuộc khảo hạch. Đi địa phủ địa ngục cũng được, lên thiên giới cũng được, vãng sinh cực lạc cũng được, đều phải trải qua một cuộc thi đánh giá.

Học Phật tu tâm giống như chúng ta chuẩn bị thi đại học, vãng sinh cực lạc giống như phải thi vào những trường đại học hàng đầu thế giới: Harvard hoặc Oxford, đối với đa số người, độ khó này quá cao. Mục tiêu thực tế hơn là các trường đại học danh tiếng trong nước, các trường đại học phổ thông quốc gia và các trường đại học tỉnh hội , tức là Thiên giới, A Tu La đạo và Nhân giới.

Vì vậy, chúng ta học Phật và tu tâm thì phải nghĩ đến tiêu chuẩn cao nhất, đôi mắt hướng về mục tiêu thực tế – Thiên giới. Thiên giới càng lên trên cao thì thời gian ở lại thiên giới càng lâu; càng gần nhân giới thì khả năng xuống dưới càng cao, vì vậy mỗi người chúng ta đều phải nỗ lực vươn lên. Vì sao con người phần lớn luân hồi vào cõi người và thấp hơn?

Cuộc sống ở thiên giới hoặc địa ngục thực sự như thế nào? Trên thực tế, nhân gian chỉ là một sự thu nhỏ của các giới, cuộc sống của tất cả những người xung quanh ta tổng hợp lại chính là một bộ “Đại Tạng Kinh” sống động., có người ở vị trí cao, hô mưa gọi gió, có người Xuân phong đắc ý, thuận buồm xuôi gió,Giống như sống trên trời; một số người phấn đấu không ngừng nghỉ, coi trọng không phải kết quả mà là quá trình, phong cách điển hình của A Tu La đạo; còn phần lớn mọi người quan tâm đến củi gạo mắm muối, Không có đại hỷ đại bi, cuộc sống của người bình thường; và có những người bị bệnh tật quấn thân, trải qua mọi khó khăn, hoặc thậm chí gặp phải thiên tai và nhân họa, một bức tranh địa ngục thảm khốc… Vì vậy, không cần phải nói, Thiên giới mới là mục tiêu của chúng ta.

Nếu cuộc sống ở nhân gian giống như một kỳ thi tuyển sinh đại học, thế thì nội dung thi phải thống nhất; nhưng điều này không có nghĩa là mọi người đều đủ điều kiện và tư cách để ngồi vào phòng thi. Chúng ta trong quá trình chuẩn bị cần phải biết điều kiện nào có thể tham gia kỳ thi trên thiên giới, nội dung đánh giá là gì. Trước khi giải thích điều này, chúng ta phải hiểu rõ lý do con người lại ở cõi Người ,và điều gì đã ràng buộc chúng ta.

Do những hành động đã làm từ kiếp này, mà khiến cho linh hồn của mỗi người đều có nghiệt chướng ,đều có phước báo; chỉ là khác biệt ở chỗ ít hay nhiều mà thôi. Mỗi một nghiệt chướng, mỗi một phước báo ngay ở khoảnh khắc hình thành , Một đầu nối với chính mình , một đầu kia nối với duyên .Hình tượng mà nói, nghiệt chướng phát ra là sợi tơ đen tạo ra lực cản, liên kết với những người mà ta đã nợ. Cũng chính là chủ nợ; phúc báo thì là sợi tơ trắng, tạo ra sức hỗ trợ, đến từ người nợ ta , đây chính là nghiệp lực.

Những nghiệt chướng hoặc phúc báo càng lớn, các sợi tơ càng dày thì lực cản hoặc trợ lực tương ứng càng lớn. Trước khi chúng ta được sinh ra, cha mẹ đã kết nối vào tấm lưới này và bắt đầu trả nợ. Sau khi sinh ra, chúng ta lại được kết nối thêm với anh chị em, người thân và bạn bè. Sau khi đi học thì bạn cùng lớp và giáo viên được thêm vào, sau đó là các mối quan hệ bạn bè, vợ chồng, con cái, đồng nghiệp v.v… Mỗi cái đều trả nợ hoặc đòi nợ, cái mạng lưới này chính là tấm lưới duyên Hồng trần. Linh hồn con người chúng ta bị ràng buộc ở chính giữa của tấm lưới này, bị duyên Hồng trần trói buộc, nó quyết định hướng đi,từ đó tạo nên những vận mệnh thăng trầm của mỗi người. Mỗi thời điểm trong cuộc đời này chúng ta đều tạo ra hay đón nhận những duyên phận mới. Duyên do tâm khởi, thân, khẩu, ý là ngọn nguồn của nghiệt chướng, có một ý niệm xấu, làm một điều xấu, hay la mắng ai đó một lần đều sẽ sinh ra nghiệt chướng mới và sẽ khiến bản thân bị mắc vào tấm lưới càng chặt.

Thời điểm một nghiệp chướng chưa chín muồi, nó sẽ ức chế thần kinh, cản trở vận trình, ăn mòn thân thể, khiến bản thân mưu cầu không như ý, thân thể không khỏe mạnh, đây chính là lãi suất của nợ nần và đồng thời cũng là lời nhắc nhở. Khi nghiệt chướng chín muồi, đến kỳ trả nợ chủ nợ sẽ đến thông qua việc, làm ta đột nhiên phát bệnh hoặc có sự cố theo muôn hình muôn vẻ khác nhau mà đòi nợ ,nhưng một khi nợ đã trả xong, nghiệt duyên này liền sẽ được tiêu trừ và một phần của duyên trần cũng sẽ kết thúc. Tương tự như vậy, thiện duyên cũng là duyên, người khác thiếu  nợ ta thì cũng phải trả hết, nếu không duyên Hồng trần của ta sẽ không thể chấm dứt được.

Sự khác biệt ở đây là nghiệt duyên thông thường phải 3 đời mới trả hết. Nhưng thiện duyên cũng chính là phúc phận mà chúng ta thường nói, sẽ được thanh toán cơ bản trong kiếp sau.

Một người trước 45 tuổi đã hưởng những phúc phần do thiện duyên của mình mang đến ở kiếp trước, 45 đến 55 tuổi về sau, họ bắt đầu thọ hưởng những phúc báo do việc thiện của mình làm ở kiếp này. Cho nên thông thường mà nói sức ràng buộc của thiện duyên ở trong cái lưới  Hồng trần này là không quá mạnh, mà chủ yếu sự ràng buộc đến từ nghiệt duyên. Đây cũng là lý do tại sao chúng ta nên đặt việc tiêu trừ nghiệt chướng lên hàng đầu, coi đó là nhiệm vụ quan trọng nhất để thực hiện.

Chỉ cần duyên chưa hết ,thì mối liên quan này không thể nào mà thoát khỏi được ,cho nên không thể đạt được sự giải thoát. Vì vậy, chúng ta thường nghe câu nói “ duyên trần chưa hết”, vì nếu chưa xong thì chúng ta phải đầu thai lần nữa.

Nếu một người để cho tấm lưới này chi phối, không biết cách cắt đứt những sợi tơ trần tục,Trong nhiều thế như vậy, trả hết nợ cũ, lại mang thêm nợ mới, tích tụ ngày càng nhiều, cuối cùng chỉ có thể chìm nổi trong thế gian, trôi theo dòng đời, chịu đựng nỗi khổ của số phận.Đây là nguyên nhân tại sao mà nhiều người ở địa phủ trần gian, thậm chí ở địa ngục trong cái vòng tròn nhỏ này mà xoay chuyển , đó là nguyên nhân không thể lên được Thiên giới. Bởi vì mỗi sợi tơ trên lưới Hồng trần này chính là một phần nhân quả, tuần hoàn theo luật nhân quả, không thế lực nào có thể cắt đứt được nên việc muốn nhờ người khác giúp đỡ để thoát khỏi là không có khả năng.

Phật Pháp soi sáng sâu sắc sự vận hành của luật nhân quả, là bất nhị Pháp Môn chỉ ra con đường duy nhất để tự chủ tiêu trừ nghiệt chướng và siêu thoát khỏi lưới Hồng trần. Vì vậy Phật Pháp dạy chúng ta phương pháp làm thế nào để dựa vào năng lượng của bản thân mà thoát khỏi tấm lưới hồng trần. Luật nhân quả không chỉ “có nhân ắt có quả” mà còn có một khía cạnh quan trọng là “một phần nhân quả này chỉ có thể được thay đổi bởi một phần nhân quả khác”. Chính vì điểm thứ hai này mà chỉ cần chúng ta học Phật tu tâm và y giáo phụng hành thì Phật và Bồ Tát sẽ vô cùng từ bi ghi nhận một phần nhân quả gọi là công đức của chúng ta để loại trừ nhân quả của các nghiệt chướng. Từ quan điểm này mà nói thì “Phật Pháp vô biên phổ độ chúng sinh” là chân thật bất hư.

Làm thế nào mới có thể lên Cõi Trời?

Học Phật đầu tiên phải học cách cắt đứt sợi tơ hồng trần, làm thế nào để trả hết nợ cũ ,Làm sao để có thể tránh được việc tạo thêm nợ mới, theo lời giảng Bạch Thoại Phật Pháp trước đây, mọi người đều có thể hiểu rằng trả nợ là điều mà Đài Trưởng thường nói  đó chính là để tiêu trừ nghiệt chướng, không tạo thêm nghiệt duyên mới, chỉ có thể dựa vào tu tâm, tu hành, nhưng làm sao để tránh động vào thiện duyên? Chẳng lẽ chúng ta không thể làm việc thiện sao? Điều này liên quan đến sự khác biệt giữa việc thiện và công đức, khi chúng ta phát tâm làm việc thiện trước mặt Bồ Tát, thiện hạnh đó sẽ được ghi là công đức, ta nhận được những hồi báo là công đức, hơn nữa trợ giúp người khác trong lòng cũng không kỳ vọng được hồi báo. Bởi vì tâm thanh tịnh nên sẽ không có kết thành thiện duyên, cũng không kết thành sợi tơ hồng trần.Các pháp môn khác nhau có những cách tiêu trừ nghiệt chướng khác nhau, nhưng nguyên lý thì giống nhau. Bất kể ta tu hành theo Pháp của đời trước hay Pháp ở đời này do Đài Trưởng truyền lại, đều phải dùng công đức để tiêu trừ nghiệt chướng, khác nhau ở chỗ là Pháp do Đài Trưởng dạy là phải trả hết nợ trước.Thậm chí còn trả món nợ trước khi chưa đến hạn.

Nhiều người cho rằng chỉ có “Lui về cửa Phật” mới có thể cắt đứt những sợi tơ hồng trần, thực ra chỉ quy y cũng không thay đổi được gì bởi nghiệt duyên vẫn còn tồn tại. Chỉ có những người “Lui về cửa Phật” biết cách giữ giới luật, siêng năng tu hành và tích lũy công đức, mới có thể dần dần lấy công đức tiêu trừ nghiệt duyên, cho nên muốn thoát khỏi lưới hồng trần thì điều then chốt vẫn là công đức. Sự khác biệt giữa việc “lui về cửa Phật” nghĩa là tính từ thời khắc người này bước vào Phật giáo, nếu người này có thể tuân thủ giới luật không còn vướng bụi trần nữa .thì trên cái lưới hồng trần mà người này vốn có sẽ không sinh ra những sợi tơ hồng trần mới nữa.

Thông qua học Phật và tu hành, đã trả hết nợ Hồng Trần và Đứt hết duyên hồng trần.

Chúng ta đã đạt được đủ điều kiện tham gia kỳ thi, có thể tham gia các kỳ thi tiếp nhận ở các cấp độ khác nhau của thiên giới, và dựa vào kết quả thi để vào các thiên giới khác nhau. Để đạt được kết quả tốt trong kỳ thi, chúng ta cần hiểu đề thi là gì? Đáp án rất đơn giản, là công đức và cảnh giới.Đây cũng là một phương diện quan trọng của Phật Pháp trong việc cứu độ chúng sinh – công bố nội dung kỳ thi và dạy chúng ta cách phải chuẩn bị như thế nào cho kỳ thi. Mọi người đều phải tham gia kỳ thi này, chỉ khác nhau ở trình độ cao thấp mà thôi. Những người chưa nghe Phật Pháp ,người đó hoàn toàn không biết gì về đề thi và kỳ thi sắp phải đối mặt, cũng không có chút chuẩn bị nào, vì vậy mới gọi là “người đáng thương”.

Công đức là kết quả của sự tu hành, cảnh giới là thành tích của sự tu tâm. Tu hành và tu tâm là hai phương diện cùng một vấn đề và chúng hỗ trợ cho nhau. Tu hành là một phương pháp tu tâm, ngược lại, thông qua quá trình tu hành, Đạt được nhiều cảm ngộ hơn, lại tiến thêm một bước nâng cao cảnh giới trong tâm.Tu tâm là nền tảng của tu hành, phát tâm là điểm khởi đầu của tu hành, khi cảnh giới của tâm được nâng cao hơn thì phát tâm nguyện sẽ càng lớn, chất lượng tu hành cũng sẽ được nâng cao hơn. Lấy một ví dụ đặc thù, nếu có người ngẫu nhiên có cơ duyên làm được công đức lớn, cứu được mạng sống của cả một thuyền chở người thì phúc báo sẽ rất lớn, nhưng vì người đó chưa tu tâm, tính tình  nóng nảy và tham lam cho nên người ấy vẫn không thể lên thiên giới.

Công đức và cảnh giới là những chỉ tiêu đánh giá không thể thay đổi của kỳ thi, thiếu một thứ cũng không được, vì vậy Phật giáo xoay quanh hai phương diện này và dành cho vấn đề này một sự quan tâm to lớn,  rất nhiều lời giảng giải và sự hướng dẫn về cách làm thế nào để nâng cao hai chỉ tiêu này, đối với muôn hình muôn vẻ của các chướng ngại, hiểu lầm, ràng buộc và cách khắc phục tâm ma cũng giải thích và chỉ dẫn một cách chi tiết và tường tận. Trong quá trình tu hành, còn đưa ra các phương pháp chuẩn bị cho kỳ thi.

Ví dụ như mộng khảo giúp chúng ta xác định trình độ tu hành của mình và điều chỉnh phương hướng tu hành. Bởi vì hoàn cảnh cụ thể của mỗi người là khác nhau,

Duyên phận cũng có những ràng buộc khác nhau, có người lưu luyến vinh hoa phú quý,có người “chỉ cần anh ấy có thể quay lại với tôi, muốn tôi làm gì cũng được ”, còn có người thì không thể xa gia đình, có người bận rộn với công việc, có người bận rộn giao tiếp xã hội, có người thì bận rộn với những việc mà họ cho là vô cùng quan trọng. Có người niệm kinh tâm tư như liễu tơ trước gió, có người rất dễ dàng định tâm. Có người tu hành nhiều năm mà vẫn không ngộ ra được “Tại sao mình lại không thuận lợi như vậy”. Có người chỉ niệm kinh mấy chục năm có thể vãng sanh cực lạc, Có người dù đã xuất gia hai đời vẫn còn chịu khổ ở nhân gian, và còn nhiều điều khác nữa.

Vì vậy, đoạn được duyên hồng trần không phải dễ dàng . Học Phật và tu tâm không phải chỉ là niệm kinh và làm việc thiện,mà việc “ngộ” mới là điều mấu chốt;đạt được “trí huệ” là mục đích của việc tu công đức và tu tâm. Khi trí huệ được khai mở chúng ta có thể nghênh đón những khảo nghiệm mới  trên con đường tu Tâm một cách tốt hơn và làm được nhiều công đức lớn hơn.

Lên đầu trang