Bạch Thoại Phật Pháp – Quyển 1

(白话佛法一)

Lời Mở Đầu

BẠCH THOẠI PHẬT PHÁP

Bài giảng Video
Quyển 1
Tác giả: Đài Trưởng Lư Quân Hoành

LỜI MỞ ĐẦU

Bạch Thoại Phật Pháp là cách Đài trưởng Lư sử dụng ngôn ngữ của cuộc sống để giảng giải Phật pháp uyên thâm. Giải thích triết lý của nhân sinh từ việc sử dụng các ví dụ đơn giản trong cuộc sống hàng ngày. Trong Bạch Thoại Phật Pháp lĩnh hội được các lý luận Phật học ở mức độ cao huyền bí. Khởi dậy Phật tánh của tất cả chúng sinh và sửa đổi số phận của chúng ta. Mời quý vị đón đọc bài giảng Bạch Thoại Phật Pháp của Đài trưởng Lư.

Để đạt được những hiệu quả nhất định, trước khi đọc Bạch Thoại Phật Pháp nên đọc lời cầu nguyện dưới đây:

“Cảm tạ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Xin gia trì cho đệ tử __(họ tên) để con đọc và hiểu được nội dung của Bạch Thoại Phật Pháp, để năng lượng của Bạch Thoại Phật Pháp gia trì bổn tánh của con, phù hộ cho con khai sáng trí tuệ, tiêu trừ nghiệp chướng, mọi điều kiết tường. Con xin cảm tạ Bồ Tát”.

Tập 1
KHỞI TÂM ĐỘNG NIỆM TỨC LÀ NGHIỆP

(21/2/2020)

Xin chào các bạn Phật tử trên toàn thế giới và các đệ tử của Pháp Môn Tâm Linh, xin chào buổi tối tất cả đại chúng. Hôm nay Sư phụ giảng về “Bạch Thoại Phật Pháp” điều quan trọng nhất là có thể khiến cho quý vị khai ngộ minh tính. 

Ai trong chúng ta trên cõi đời này, cũng có lúc không nhận biết được chính mình, có thể biết người nhưng không thể biết mình. Giống như một người có nhiều tật xấu mà chính họ cũng không biết được, nhưng chỉ khi người khác nói với họ thì họ mới dần dần nhận ra rằng: “Ôi, tôi vẫn thế này sao?” Kỳ thực, nếu không biết được chính mình, thì không thể tìm thấy nghiệp chướng và nhân quả của mình. Vì vậy, bất kì ai học Phật đều phải bắt đầu bằng sự hiểu biết đúng đắn về bản thân, kể cả chính bản thân mình còn không thể nhận biết, không biết mình có bao nhiêu năng lượng, năng lực để làm một việc nào đó – rốt cuộc hôm nay khẩu vị ở mức nào, hôm nay có thể làm được gì… Hiểu được mình thì mới hiểu người. Vì vậy, nếu một người kể cả những năng lực khác nhau trên người mình cũng không nhận biết được, và thậm chí không biết những gì mình có thể làm, thì làm sao có thể hiểu được Phật pháp đây? Vì vậy, chỉ khi thực sự học cách nhận biết chính mình, thì ở đời này mới có thể làm một người tốt. Không phải đơn thuần như mọi người thường nghĩ là làm Phật mới cần như vậy, mà làm người thì cũng phải cần nhận biết chính mình – mình có bao nhiêu khuyết điểm trên người, con người mình nhẹ dạ cả tin, mình thích đem chuyện của người khác truyền đi truyền lại, mình thích làm việc trong khi chưa thực sự hiểu rõ thì đã bắt tay vào làm rồi… Thì đây chính là tật xấu của con người. 

Cho nên người học Phật chân chính phải tự hiểu mình thì mới có khả năng tự chủ, sau khi tự mình kiểm soát được bản thân thì mới có thể có được vô ngã – quên đi chính mình. Vì vậy, người học Phật sẵn sàng chịu đựng gian khổ, luôn nghĩ cho người khác, hết thảy vì chúng sinh. Cũng giống như người mẹ ở nhà, trong đầu lúc nào cũng nghĩ đến con cái, nghĩ đến người khác, người mẹ đã phải chịu nhiều thiệt thòi, vì trong lòng bà luôn nghĩ đến người khác nên mới được người ta tôn trọng. Thực ra, những người biết nghĩ cho người, thì bản thân họ đều có được cảnh giới vô lượng. Khi quý vị kết bạn, nếu một người khi cất lời đều nói về bản thân mình – nói về cảm xúc của họ và nói bản thân họ như thế này như thế kia, thì người đó không có được cảnh giới vô lượng. 

Chỉ bằng cách buông xuống chính mình, thì mới có thể thực sự hiểu được hết thảy chúng sinh. Thời xưa có nhiều đệ tử học Phật từ sư phụ của họ, ngày ngày ngồi thiền, tụng kinh, lạy Phật, sau đó hỏi sư phụ: “Con như thế này có thành Phật được không?” Vị sư phụ nói với đệ tử rằng: “Con ngồi thiền cũng không thành Phật được, tụng kinh cũng không thành Phật được” Thế nên nhiều đệ tử hỏi sư phụ: “Vậy thì làm sao con có thể thành Phật được đây?” Sư phụ nói rằng: “Bởi vì Phật chưa bao giờ nghĩ đến việc bản thân mình sẽ thành Phật. “Triết lý này muốn nói với chúng ta rằng: Chúng ta chỉ quan tâm đến việc trồng trọt, không quan tâm đến việc thu hoạch. Làm sao có nhiều người trở thành một người được tôn kính? Người học Phật làm sao có thể tự mình trở thành Bồ Tát? Bởi vì họ vô ngã. Họ chưa bao giờ nghĩ: “Những gì tôi muốn làm hôm nay là vì tương lai của tôi, vì danh vì lợi của tôi…” bởi vì họ đã quên đi hết thảy mọi thứ. 

Không có ngã tướng mới có được Phật tướng. Một người ích kỷ thì làm sao có được hình tướng của một vị Phật đây? Cho nên Đức Phật chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ thành Phật, và Ngài đã trở thành Phật. Một người tử tế không bao giờ nghĩ đến việc lợi dụng người khác, và cuối cùng họ lại trở thành một người được người khác tôn kính. Đức Phật nghĩ về điều gì? Đức Phật chỉ nghĩ: “Làm thế nào để cứu độ chúng sinh? Làm sao để bố thí cho người khác? Làm sao để trí tuệ và bát nhã tràn ngập tâm trí mọi người?” Chư Phật và Bồ Tát nghĩ về cách giúp đỡ người khác và tạo điều kiện thuận lợi cho chúng sinh mỗi ngày. Nếu mỗi ngày chúng ta nghĩ đến việc buông xả chính mình, có thể nghĩ đến người khác nhiều hơn, phục vụ người khác trong mọi việc, mỗi ngày đều nghĩ rằng: “Tôi nên làm nhiều hơn cho họ, tôi nên giúp đỡ họ, và tôi nên đảm đương trách nhiệm”, rồi âm thầm hy sinh mỗi ngày, hơn nữa không khoe khoang bản thân mình, mà dần dần chỉ biết bao dung và tha thứ trong trách nhiệm. Trong quá trình học Phật không có bất kỳ dục vọng, ham muốn, đây chính là “vô dục”. Người biết cho đi nhưng không có dục vọng thì người đó chính là một vị Bồ Tát trong tương lai. 

Là con người, bất kể chúng ta làm gì, đừng nghĩ rằng: “Tôi có thể làm gì, tôi sẽ trở thành ai trong tương lai và tôi muốn đạt được điều gì”, mọi thứ chỉ là mộng ảo bọt bóng. Trên thế gian này, chỉ khi đối xử chân thành với hết thảy chúng sinh, chân thành yêu thương chúng sinh và đối xử tử tế với người khác một cách chân thành thì mới có thể cho đi hết tất cả tâm Phật của bản thân mình và chúng ta sẽ có được Phật tánh của tất cả chúng sinh, vì ta cứu độ Phật tánh của tất cả chúng sinh. Rất nhiều người mỗi ngày đều nói: “Tôi muốn thành Phật, tôi muốn một kiếp tu thành, tôi muốn cầu xin cho được để có thể một kiếp tu thành và có thể cải biến bản thân”, kỳ thực chư Phật không có nhu cầu này. Vì dù thế nào đi chăng nữa Phật cũng không có ham muốn gì đối với chúng ta, nên khi chúng ta làm việc gì, (đối nhân xử thế) thì cũng đừng lúc nào cũng tính toán và chỉ nghĩ cho mình. Những người thực sự có thể nghĩ cho người khác và sống vì người khác thì sẽ có nguyện lực. Nhiều người, quý vị có nghĩ rằng họ có được nguyện lực không? Nguyện lực ở đâu? Nguyện lực ở trong tâm. Nguyện lực không phải nói cho người khác biết, mà âm thầm tu tập với lòng chí thành. 

Hành nguyện chi đạo: Hôm nay quý vị có nguyện lực, nhưng quý vị vẫn phải thực hành nó, chỉ khi quý vị thực hành nguyện lực thì quý vị mới có thể tu thành Chánh quả. Bản thân Phật chưa bao giờ nghĩ đến việc thành Phật, Phật cũng chưa bao giờ nghĩ đến việc giúp đỡ người khác, nhưng Phật đang hàng ngày làm công việc của một vị Phật, đang cứu độ chúng sinh, thì làm sao mà Ngài không thể thành Phật? Con người chúng ta muốn làm một người tốt, chỉ cần quý vị làm việc tốt mỗi ngày và không nghĩ đến “tôi là người tốt”, chẳng lẽ quý vị không phải là người tốt rồi sao? Thế thì làm sao để có được công đức đây? Phải lặng lẽ “cày cấy”. Một người có thể buông bỏ những tật xấu trên thân mình và bỏ đi những tham, sân, si trong tâm của mình, thực ra đó là đang tu hành tinh tấn trên con đường của Phật. 

Đa phần người học Phật, lễ bái Phật là vì có cầu, nếu quý vị cầu xin thì có nghĩa là quý vị muốn đạt được thứ gì đó, rồi sẽ sinh ra tâm được mất. Hôm nay cho dù làm việc thiện gì tôi cũng không mong cầu, tôi nghĩ học Bồ Tát, học Phật, cống hiến cho người là điều đáng làm, tôi không có bất kì điều kiện gì để đổi lấy cho bản thân mình, bằng không sẽ không thể đạt được Phật quả. Tại sao nhiều người cho đi mà không nhận lại được? Bởi vì khi họ cho đi họ lại nghĩ muốn được nhận lại. Nếu một người có thể nhận lại được ngay lập tức, thì trên thực tế, là họ đã biết cho đi rồi. Phật chưa bao giờ nghĩ đến việc nhận bất cứ thứ gì của chúng ta, nhưng Phật luôn giúp đỡ chúng ta, đây chẳng phải là phúc báo của chúng ta sao? Phúc báo này chẳng phải là chúng ta tự làm công đức và thông qua đó Phật ban cho chúng ta sự gia trì sao? Cho nên làm người phải học cách để đạt được vô lượng đức thì mới có được vô lượng phúc. Vô lượng đức từ đâu mà có? Đó là giữ giới. Vô lượng đức từ đâu mà đến? Đó là sự hy sinh không có bất kì tư lợi nào, khi một người hy sinh không chút tư lợi nào thì người đó sẽ có được đạo đức. 

Người học Phật thì phải không vì bản thân, làm người cho tốt và giúp đỡ người khác nhiều hơn. Khi quý vị vô tư đi giúp đỡ người khác, chẳng lẽ quý vị không nhận lại được sao? Xét về mặt bên ngoài có một số lý luận là sáo rỗng, muốn đạt được cảnh giới của tâm vô tư, vô ngã, nói thì dễ nhưng làm thì khó! Nhưng trong cuộc sống thực tại thì có rất nhiều người làm những việc vô tư vô ngã đó. Đây là điều mà sư phụ thường nói với quý vị, một người mẹ vô ngã, bà ấy không có lòng ích kỷ chỉ một lòng lo cho con cái và gia đình, không muốn bất cứ thứ gì từ gia đình này. Bà chỉ biết hy sinh. Cho nên, đây chính là sự vô tư và vô ngã của người mẹ. Vì vậy, các bà mẹ trên thế giới rất được kính trọng và được gọi là những bà mẹ vĩ đại. Khi một người cho đi một cách vô tư, thì họ sẽ phá hủy “ngã tướng” của mình. Cũng giống như những người làm nhiều việc thiện, người ta nói: “Cậu làm nhiều việc thiện như vậy, công đức vô lượng!” “Đâu có, tôi đâu có làm gì đâu, tôi không có công và cũng không có đức”. Kỳ thật, họ có được công đức không? Có. Họ có cần thiết tự mình nói ra không? Đây là một cách học Phật và học làm người. 

Công và đức là ở khởi tâm động niệm trong tâm quý vị. “Công” của quý vị từ đâu mà có, quý vị vừa nghĩ đến giúp đỡ người khác thì quý vị đã có được “công”. “Tôi muốn đi giúp anh ấy, tôi muốn đi giải cứu anh ấy, tôi muốn đi hỗ trợ anh ấy.” Đây chính là “công”. Khi quý vị thực sự đi làm điều đó thì cái “đức” của quý vị sẽ đến, bởi vì đạo đức của quý vị khiến quý vị cho đi thời gian và hy sinh lợi ích của bản thân vì lợi ích của người khác, quý vị sẽ có được cảnh giới vô tướng. Không vì bản thân, chỉ vì người khác, chứng tỏ rằng trong ý thức bên trong của quý vị đã có giới đạo. Giới đạo là gì? “Giới” là giới luật, và “Đạo” là Phật đạo. Một người muốn thành tựu Phật đạo thì phải giữ giới. Khi quý vị biết chế ngự những ham muốn ích kỷ của mình để giúp đỡ người khác, thì quý vị đã có được giới đạo. 

Nhiều người trong số chúng ta có quá nhiều tạp niệm ích kỷ trong cuộc sống cũng như trong cách làm người, hàng ngày có quá nhiều tham cầu, vọng tưởng và vọng niệm, muốn cái này, cầu cái kia, đơn giản là không thể kiểm soát được khởi tâm động niệm của mình. Cái gì gọi là khởi tâm? Khi ai đó nói với quý vị một điều gì đó và tâm quý vị rung động, điều này được gọi là khởi tâm. Cái gì là động niệm? Khi quý vị nhìn thấy thức ăn ngon hoặc những thứ đẹp đẽ và quý vị muốn sở hữu chúng, vậy thì những ý nghĩ sẽ xuất hiện, khi quý vị không hiểu một điều gì đó thì những tạp niệm sẽ xuất hiện. Khi một người khởi tâm động niệm, thì thực ra họ đang dùng nhân quả để thực hiện những hành vi của chính mình. 

Nhân quả vô cùng khắc nghiệt, nó là cái bóng khua không đi. Người không có tâm thanh tịnh nhất định sẽ gieo nhân kết quả. Con người chúng ta bây giờ hay hỏi: “Chuyện này kết quả thế nào?” Kết quả ra sao thì bản thân mình là người biết rõ nhất. Hôm nay ăn cắp đồ của người khác thì bị người ta bắt, hôm nay nói xấu người khác thì bị người ta mắng mỏ. Kết quả tức là quả đã được kết thành, nếu quý vị kết thiện thì được quả thiện. Quý vị thanh tịnh, thì được quả thanh tịnh. Hôm nay quý vị viên dung thì được quả viên dung. Nếu quý vị thực sự giữ giới thì được quả giữ giới. Đối với một người giữ giới tốt, người ta thường nói với họ rằng: “Cậu là người giữ giới tốt”, “Sao cậu không nổi giận? Làm sao cậu có thể buông xả được? Sao việc gì cậu cũng có thể suy nghĩ rõ ràng và đều có thể buông xả được?” Kỳ thật trong lòng người này rất minh bạch, bởi vì hôm nay là hôm nay, ngày mai là ngày mai. Hôm nay có giống ngày mai không? Không giống. Vậy ngày mai có giống tuần sau không? Không giống. Tuần sau có giống tháng sau không? Không giống. Tháng sau có giống năm sau không? Lại không giống. Vạn vật đều biến đổi nên gọi là vô thường. 

Con người chúng ta ngu si là do chúng ta không thể nghĩ thông được, chúng ta vẫn cố gắng đào sâu vào nó, chúng ta vẫn cố gắng hết sức để nghĩ về nó, và chúng ta đang phạm giới mỗi ngày khi chúng ta khởi tâm động niệm. Hãy nói xem có ngày nào mà chúng ta không phạm giới không? Khi quý vị đang lái xe, thấy một cô gái trông dễ nhìn hơn một chút. Nếu quý vị nhìn lại lần thứ hai, thì đó là phạm giới, nếu hôm nay quý vị nhìn thấy một chàng trai đẹp, và nhìn thêm chút nữa, đó là phạm giới. Hôm nay quý vị là một người học Phật, quý vị cảm thấy rằng mình nên lấy nhiều hơn một chút, đó cũng là phạm giới. Hết thảy mọi thứ đều do khởi tâm động niệm của chính mình gây ra. 

Tập 2
KIỂM SOÁT TƯ DUY, XẢ TÂM TU TÂM

(21/2/2020)

Tu tâm chân chính không phải là truy cầu hình tướng, mà là tu nội tâm của mình. 

Khi nội tâm quý vị đắc được thì nhất định ngoại tướng cũng đắc được, nếu trong tâm không có được sự khoan dung, bao dung, không có được hạnh phúc thì ngoại tướng nhất định sẽ hung ác tàn nhẫn và lãnh đạm . Rất nhiều người sống tương đối lãnh nhạt , thực ra vì trong tâm họ chưa hiểu thông suốt , cho nên họ không giữ tướng giới. Phải biết rằng tướng cũng có giới luật, quý vị không thể bày tỏ sự quan tâm đặc biệt của mình khi nhìn thấy những thứ mà quý vị không nên nhìn.Có những thứ không tốt, sau khi quý vị nhìn thấy, nếu khuôn mặt quý vị thể hiện sự vui mừng, vậy thì quý vị đã  sai.

Người giữ giới nên hiểu rằng tâm không vì tướng động, tâm không vì giới động, cho dù đã giữ giới, nhưng cũng không cảm thấy rằng mình đang giữ giới. Giống như khi quý vị có ý thức dừng đèn đỏ khi đang lái xe, khi đó quý vị có cảm thấy là “Tôi đang giữ giới” không? Đây là một loại phản ứng bản năng từ trong tâm của quý vị mà ra. “Phi niệm tích niệm tu” nghĩa là gì? Đó là khi quý vị không có suy nghĩ thì tư tưởng của quý vị mới thực sự cho phép quý vị tu tập. Cũng có nghĩa là quý vị không tích trữ tư tưởng tạp niệm thì quý vị mới có được tư tưởng chánh niệm để cho bản thân quý vị tu tập. Quý vị có tạp niệm, thì làm sao quý vị có thể niệm niệm tu tâm cơ chứ? “Phi tâm giới” có nghĩa là bên này có vọng tưởng mà bên kia thì lại muốn tu tập , vậy thì trong tâm quý vị chưa giữ giới, cho nên không phải là Chánh đạo. Chánh đạo là quý vị phải buông xả, nhìn thấu, không vướng không bận, tâm vô quái ngại. Vậy thì tâm không trụ ở tướng, tức là không có tâm tướng. Người tu tâm đích thực thì tâm vô quái ngại, quý vị không  có một cái tâm để dùng cái tâm đó tu sửa, trong khi một số người lại dùng cái tâm thành kính đó để tu sửa chính cái tâm của mình..Kỳ thực cái tâm “thành kính” này của quý vị là vì quý vị không thành kính, nên quý vị mới muốn dùng cái tâm thành kính của mình để tu sửa cái tâm này. Nếu hôm nay quý vị đã rất thành kính rồi, quý vị còn cần phải nói: “Tôi muốn dùng trái tim vô cùng thành kính này để tu tâm” nữa không? Hôm nay quý vị là một người tốt.

Quý vị không cần phải bước vào một đám đông và nói: “Này các bạn, người tốt đến rồi.”Hãy nhớ rằng, sự lương thiện và đạo đức của một người đều có tiêu chuẩn của nó. Như thế nào gọi là thiện? Khi một người không có ác ý và tham lam đối với người khác, đó gọi là thiện. Hôm nay quý vị có tham không? Sau khi quý vị tham rồi thì có còn thiện không? Hôm nay quý vị đối xử tệ với người khác và rất hận họ. Thì quý vị có được gọi là người lương thiện nữa không? Trước đây nói “Giả thiện nhân” là do thiện như vậy mà ra. Công đức là gì? Vậy đạo đức có tiêu chuẩn không? Nếu quý vị tranh với người khác, cãi nhau với người khác và làm ầm ĩ với người khác, thì con người mình có đạo đức không? Không có đạo đức. Chữ “Không có” này chẳng phải là bị thiếu sót về mặt đạo đức sao? Tại sao có người lại nói người này là người thiếu đức? Bởi vì họ không có đạo đức. Nếu nhà họ không có đồ đạc trong nhà, thì là “thiếu đồ đạc”; vậy thì họ không có đạo đức, thì là “thiếu đức”, và “thiếu đức” thì được bắt nguồn từ đó.

Phải xả tâm tu hành, tức là khi quý vị tu hành, phải hết sức tự nhiên, đừng cảm thấy mình đang tu tâm, kỳ thực là quý vị đã và đang tu tâm rồi. Quý vị đã là con ngoan trò giỏi, đã biết tụng kinh, sao còn phải nói cho người khác biết tôi là người tu tâm! Quý vị đã làm việc thiện, sao còn phải nói với người khác tôi là người lương thiện? Đây là điều mà chúng ta thường nói rằng học Phật thì đương nhiên là phải tuân thủ giới luật. Suy cho cùng, một người muốn giữ giới, muốn buông xả thì không dễ dàng chút nào. Xả là gì? Là vì quý vị cảm thấy rằng những thứ này là thứ mà bản thân mình đáng có được, và rồi quý vị không chịu lấy nó ra. Hiện tại trên người quý vị có một tật xấu, và nếu quý vị không chịu buông bỏ, thì quý vị sẽ vẫn ôm cái tật xấu này. Quý vị thích nói xấu người khác, quý vị không chịu bỏ đi khuyết điểm này, hàng ngày quý vị vẫn nói xấu người khác, cuối cùng quý vị là người độc ác. Cho nên tu tâm tu càng về sau thì làm thế nào có thể thành đạo, làm thế nào có thể đắc đạo thực ra là tùy vào cái tâm của chính mình. Nhiều người thậm chí  không có đạo đức cơ bản của một con người, nếu phẩm chất không tốt, thì họ đã ở trong đường đạo nhân quả của địa ngục nhân gian. Quý vị thử nghĩ xem, con người không phải là như vậy sao? Họ mắng quý vị, quý vị mắng họ, họ hận quý vị, quý vị hận họ. Khi quý vị hận người khác có phải là quý vị rất đau khổ không? Đúng, vậy thì khi quý vị hận họ thì cảnh giới của quý vị là ở địa ngục. Khi họ mắng quý vị, nếu quý vị tức giận, có phải là quý vị lại ở trong địa ngục nữa không? Vậy thì quý vị đã và đang trong tình trạng vào địa ngục rồi lại ra địa ngục. Vì thế mới nói khi một người nhất niệm Phật thì được lên thiên đường, nhất niệm ma thì đọa địa ngục.

Đừng ngày nào cũng cầm quyển sách niệm kinh Phật, nói đến chuyện bái Phật, mà lại phạm rất nhiều khẩu nghiệp, làm cho tâm Phật đức Phật của mình bị rò rỉ. 

Thật sự buông bỏ là phải buông bỏ cả bản thân. Không có bản thân. Có bản thân gì? Bản thân Tôi có cái gì? Người muốn có thể diện gọi là chấp trước. Sư phụ thường cố ý phê bình quý vị, phê bình quý vị trước mặt nhiều người, là để quý vị học buông xuống. Quý vị đã làm sai, chẳng lẽ quý vị không đáng chấp nhận những lời phê bình hay sao? Nếu quý vị đỏ mặt sau khi bị phê bình, điều đó có nghĩa là quý vị vẫn chưa buông xuống được, quý vị vẫn còn chấp trước và cống cao ngã mạn. Người học Phật phải học cách nhìn nhận bản thân một cách rõ ràng, biết mình là người như thế nào, mình là người tốt, hay là người không tốt không xấu, hay là thuộc về một người xấu xa ? quý vị phải tự mình mà đánh giá lấy chính bản thân mình.

Trong lòng đừng tính toán với người khác, đừng vì những chuyện nhỏ nhặt mà tính toán chi li, bất kỳ sự tính toán chi li nào cũng đều tạo thành nhân quả. Chỉ bằng cách hiểu người khác thì chúng ta mới có thể thiện giải nhân quả. Chỉ bằng cách giúp người khác đảm nhận và hiểu họ, thì chúng ta mới có thể thoát khỏi những ác niệm, ác khẩu, phỉ báng và nghịch cảnh. Thử nghĩ xem, nếu chúng ta giúp đỡ người khác, chẳng phải là chúng ta cũng sẽ nhận được sự giúp đỡ từ người khác sao? Chẳng phải chúng ta đã rời xa nghịch cảnh rồi sao? Nếu quý vị hết lòng giúp đỡ người khác, thì ai phỉ báng quý vị chứ? Nếu hôm nay quý vị rời xa ác niệm ác ý, thì cái mà quý vị nhận được chính là nhân lành, tương ứng với những nhân lành này, đó là người khác sẽ yêu thương quý vị, sẽ giúp đỡ quý vị, và họ sẽ tự sửa chữa những lỗi lầm của bản thân.

Vì vậy, đôi khi nhìn người trong thế gian, đừng nghĩ người này làm đúng, người kia làm sai, khi nhìn một vấn đề, đừng nên có đúng sai trong tâm mình: “Những gì người này nói chắc chắn là sai và không có lời nói nào của người này là đúng”. Làm sao quý vị biết rằng họ không có lời nói nào là đúng? “Người này thật đáng ghét ”. Quý vị cảm thấy  anh ta đáng ghét 24 giờ trong một ngày không? Không có ai là hoàn toàn đúng hay sai cả.

Những người học Phật chân chính nên tha thứ cho người khác, và không nhìn người khác bằng tà tri tà niệm của mình. Nếu quý vị nhìn người khác không công bằng chính trực, thì quý vị sẽ nhìn sai về họ. Nếu quý vị không thể nắm vững tâm thái của mình và không thể nhìn người khác theo quan điểm bình thường, thì cuối cùng quý vị sẽ bị người khác coi thường. Bởi vì quý vị hiểu sai họ, tất nhiên họ sẽ nói quý vị rất vô lễ, không có văn hóa. Điều đó có nghĩa là quý vị có tâm sân hận, tâm đố kị và sẽ sinh ra tâm ích kỷ và tâm ham muốn. Trong lòng quý vị vô cùng khúc mắc và rồi quý vị lại làm tổn thương người khác, dần dần quý vị sẽ rời xa tâm thuần khiết của chính mình. Nhìn từ bề ngoài, một số người có vẻ ăn mặc chỉnh tề, nhưng tâm họ không thanh tịnh. Chỉ khi một người không có lòng ích kỷ và lòng ham muốn thì tâm của họ mới có thể thanh tịnh.

Thế nào là quy y chánh đạo? Đó là nắm vững khởi tâm động niệm của mình, thường thì tất cả các việc nếu là chánh thì làm, còn đối với các việc bất chánh nếu tâm động niệm thì gọi là phạm giới. Quý vị phải luôn luôn giữ giới trong tâm, bởi vì nếu trong tâm quý vị giữ giới, thì quý vị mới không thể nào mà không nhận biết được chính mình. Lấy một ví dụ đơn giản, nếu hôm nay quý vị đi siêu thị để mua một thứ gì đó, nếu quý vị rất giữ giới, thì quý vị sẽ không nghĩ rằng mình muốn lấy thứ gì đó mà không trả tiền. Nhưng mà, nếu hôm nay có một món đồ, chỉ cần trong lòng quý vị nghĩ sẽ không trả tiền món đồ đó, thì thử nghĩ xem tiếp theo đó sẽ khó chịu đến mức nào, tay run, toát mồ hôi lạnh, nhìn xung quanh, sau đó đi tới cửa và nhìn thấy máy kiểm tra tự động… Quý vị sẽ sợ hãi, sợ người khác phát hiện ra việc làm xấu xa của mình. Tại sao lại như vậy? Đây là do tâm của quý vị đã lay động rồi, hôm nay tâm quý vị không động, thì quý vị có sợ không? Cho nên, khi một người phạm giới, thì họ sẽ phá vỡ đi nhân cách của mình. Một người giữ giới thì họ sẽ có được nhân cách lương thiện mà bản thân họ đáng có.

Người tham lam chắc chắn sẽ có dục vọng, người có dục vọng lâu ngày sẽ trở nên tham lam, nội tâm đau khổ là bởi vì họ có lòng tham và dục vọng. Nếu một người suốt ngày chỉ biết hy sinh và giúp đỡ người khác, thì từ từ họ sẽ biết nhìn thấu và buông xả. Có rất nhiều điều bẩn thỉu trong suy nghĩ của con người chúng ta, chúng đã gây ra quá nhiều phiền não, ham muốn cho thế giới này và cuộc sống của chính mình. Đôi khi một dục vọng đến, chúng ta làm sai điều gì, có thể sám hối, cảm thấy tội lỗi và sửa đổi. Nhưng đôi khi nó là trách nhiệm, nếu quý vị đã làm sai với người khác, loại oán kết này không thể được giải quyết bằng cách đọc vài biến “Lễ Phật Đại Sám Hối Văn”. Nhiều người khi còn trẻ làm một số việc có lỗi với người khác, trong lòng họ sẽ có một nỗi đau không bao giờ được xóa nhòa.

Hy vọng quý vị hãy phát tâm phát nguyện đối tốt với chúng sinh. cần sở hữu và duy trì những phẩm chất cao quý vốn có của một con người. Đạo đức của con người ở đâu? Chính là đạo đức trong cách làm người, tôn kính người già và yêu thương trẻ nhỏ chính là một đạo đức, người đi trước, người đi sau là một đạo đức, không nói dối, giúp đỡ người khác cũng là một đạo đức. Thành tựu đường đạo tu hành Phật pháp mà quý vị đã có, thì quý vị sẽ có được đức hạnh và đạo đức, một người có đạo đức sẽ không gặp phiền não và sẽ tránh xa tai họa. Những việc mà quý vị làm, nói theo ngôn ngữ ngày nay đều dám công khai trước mặt mọi người, thì sao quý vị có thể gặp tai họa được cơ chứ? Quý vị âm thầm làm rất nhiều việc, nhưng không dám công khai trước mặt mọi người, một ngày nào đó sẽ bị người khác phát hiện, thì lúc đó sẽ bị xui xẻo. Những gì sư phụ nói với quý vị hôm nay là để giúp quý vị hiểu được chân lý của việc giữ giới trong Phật pháp ,và biết cách vận dụng Phật pháp để tiêu trừ những ham muốn và phiền não của mình.

Tập 3
TÂM NHƯỢC BẤT SINH, CẢNH TỰ NHƯ NHƯ

(21/2/2020)

Vạn vật trên đời này đều là khổ – không – vô thường. Có một câu chuyện kể rằng, có một người Bà-la-môn ở Ấn Độ (Bà-la-môn là các bậc quý tộc), trong gia đình họ có sinh ra một cậu con trai, rất khôi ngô tuấn tú, và cha mẹ rất yêu quý cậu con trai này. Đứa trẻ này từ nhỏ đã thông minh lanh lợi, hoàn toàn khác với những đứa trẻ bình thường. Đứa trẻ này đã trải qua một tuổi thơ vàng son  Trong niềm vui không lo âu không phiền muộn,, tức là một cuộc sống rất tốt đẹp. Tuy nhiên, con người thường bị dục vọng và niềm vui làm cho mê muội, trong những ngày vui vẻ, không ai nghĩ đến việc liệu mình sau này có bị đau khổ hay không . Cũng giống như chúng ta bây giờ, nhiều người khi lúc vui vẻ , họ không nghĩ đến việc liệu họ có đau khổ trong tương lai hay không. Tất cả mọi người ai cũng đã từng có được thân thể khỏe mạnh, và có bao giờ họ nghĩ qua rằng mình sẽ yếu đi khi về già không? Không có. Vị Bà-la-môn này cũng vậy.

Đứa con trong gia đình Bà-la-môn trí tuệ cao hơn người, rất thông minh, tuy lớn lên trong gia cảnh sung túc an nhàn nhưng không ngờ rằng đứa trẻ này lại hiểu được nỗi đau của kiếp người và việc con người đã gây ra rất nhiều tội ác. Một đứa trẻ nhỏ như vậy, nhưng cậu đều biết được những gì mình nên làm và những gì mình không nên làm. Vì vậy khi trưởng thành, cậu ta “từ thân” xuất gia và trở thành một vị Tỳ kheo. Thế nào là “từ thân”? Nghĩa là từ biệt người thân để xuất gia trở thành một vị Tỳ kheo.

Vào một dịp nọ, trong lúc trên đường đi giáo hóa trở về, tình cờ gặp một đoàn thương nhân trong một khu rừng hẻo lánh. Đoàn thương buôn này đi ra ngoài vùng làng qua con đường thương mại đến nơi này, vào lúc chiều tối vừa đúng lúc đến khu vực núi này. các thương nhân không có cách nào đành phải cắm trại qua đêm ở đây. Vị Tỳ kheo này nhìn thấy xe cộ lớn nhỏ của thương nhân, và còn có số lượng lớn hàng hóa, ông một chút cũng không quan tâm như thể không nhìn thấy, vị Tỳ kheo chỉ loanh quanh cách đoàn thương nhân không xa, một mình chậm rãi đi qua đi lại.

Lúc này, rất nhiều tên cướp từ rừng bên kia kéo đến, cướp bóc giật đồ. Chúng dò la có một đoàn thương buôn đang đi ngang qua, và dự tính sau khi màn đêm buông xuống sẽ cướp tiền , cướp của . Khi chúng lẻn đến gần doanh trại nơi mà các thương gia ở lại qua đêm, chúng thấy có người đi dạo bên ngoài doanh trại: “Ồ, có người đứng gác tuần tra bên ngoài, đang bước đi chầm chậm”. Chúng sợ rằng đoàn thương buôn có sự chuẩn bị, vì vậy chúng muốn đợi cho đến khi mọi người đều ngủ say rồi mới ra tay, thế là chúng nằm mai phục bên sườn núi. Tuy nhiên, người đi tuần bên ngoài doanh trại, chính là vị pháp sư đó, suốt đêm không vào doanh trại để nghỉ ngơi, không ngủ. Pháp sư đi qua rồi lại đi lại, và liên tục niệm kinh. Cuối cùng là trời sáng dần lên, bọn cướp giận dữ chửi bới vì “vô khích khả nhập” (không lợi dụng được sơ hở nào), giận dữ hét lên, và cưỡi ngựa “Lộc cộc lộc cộc” nguyền rủa bỏ đi mất.

Thương nhân đang ngủ trong doanh trại vội vã chạy ra ngoài nhìn, nhưng chỉ nhìn thấy một đám sơn tặc tay cầm gậy sắt, gậy gỗ chạy lên núi và chỉ có một nhà sư đứng bên ngoài doanh trại. Vị thương nhân kinh hãi bước tới hỏi: “Đại sư! Ngài có nhìn thấy sơn tặc không?” Nhà sư này rất bình tĩnh nói với vị đó: “Đúng vậy , tôi đã nhìn thấy chúng từ lâu, chúng đã đến từ tối hôm qua.” vị đó tiếp lời: “Đại sư à! Nhiều sơn tặc như vậy, sao Ngài không sợ? Đơn độc một mình Ngài làm sao có thể chống lại nhiều tên cướp như vậy?” Nhà sư không chút nào lo lắng cũng không vội vàng, vô cùng bình tĩnh ôn hòa và nói: “Các vị à! Khi nhìn thấy sơn tặc mà sợ hãi đó là người giàu có. Còn tôi là một người xuất gia và không một xu dính túi. Tôi sợ cái gì cơ chứ? Những gì sơn tặc muốn là tiền bạc và của cải , còn tôi không có bất cứ thứ gì quý giá, cho dù tôi sống trong núi hay trong rừng, tôi đều không sinh tâm sợ hãi.”

Câu chuyện này cho chúng ta thấy rất nhiều người trong xã hội ngày nay mê muội và vô tri, Đối với những tiền bạc danh lợi không thực tế, ảo tưởng, những thứ hôm nay có, ngày mai có thể không, những thứ có thể biến mất trong chốc lát hoặc trở thành tài sản của người khác, họ không những không chịu vứt bỏ, thậm chí bỏ cả mạng sống của mình để điên cuồng chiếm đoạt, nhưng rồi lại nhắm mắt làm ngơ với cái thiện tâm, cái cuộc sống bình an, bình yên, những tự do tự tại mà mình vốn dĩ có được. Tại sao nói bình an là phước? Quý vị bình bình an an ngồi đây là đã có phúc khí, nên biết rằng, có biết bao nhiêu người đang chịu đau khổ, bao nhiêu người tàn tật sau tai nạn xe cộ, có biết bao nhiêu người chết vì ung thư. Vì vậy, một người học Phật chân chính nên như vị xuất gia Tỳ kheo này, có thể cảm nhận được chân tướng của khổ – không – vô thường trong thế gian, mọi thứ sinh không mang đến, chết không mang theo, ta mang theo đồng tiền vô thường bên người thực chất là một gánh nặng. Chỉ khi chúng ta nhận thức đúng đắn mọi thứ trên đời này đều là khổ – không – vô thường, đều là hư ảo không thực, có như thế chúng ta mới có thể buông xuống chính mình và tinh tấn tu hành.

Bất kể chúng ta làm gì, chúng ta phải học cách sống có đạo đức, và chúng ta phải giải quyết các vấn đề đạo đức của chính mình. Khởi tâm động niệm mỗi ngày sẽ mang đến cho chúng ta rất nhiều nghiệp chướng. Chúng ta không cần nghiệp chướng, và chúng ta không thể mang những suy nghĩ bẩn thỉu của mình đi phá hủy sự trong sạch và thuần khiết tự nhiên trong nội tâm chúng ta. Cũng giống như trong lòng có một loại vẻ đẹp tự nhiên, rất nhiều người mỗi ngày đều tham, sân, si, mạn, nghi, cái gì cũng muốn, dốc sức truy cầu danh lợi, đó chính là tự tạo thiên tai cho chính tâm mình, cho nên mỗi một phần thiên tai nào cũng có cộng nghiệp của mình. Vì vậy, con người phải nhận ra tâm hồn dơ bẩn của chính mình, thì mới có thể học làm Phật để loại bỏ những tâm hồn dơ bẩn đó.

Phải nổ lực học tập và hiểu Phật pháp Phật lý, đừng tùy tiện trách móc người khác, và đừng tùy tiện cống cao ngã mạn. Bởi vì khi quý vị trách móc người khác, quý vị sẽ gây nên một nhân quả lớn, mà nhân quả đó hoàn toàn là do chính bản thân mình gây ra, có khi tạo ra cái nhân quả quá lớn , sẽ tạo thành nhân quả dẫn đến đoạ địa ngục.

Muốn thành đạo, trước tiên phải quy đạo. Nếu hôm nay quý vị muốn lái xe trên đường cao tốc và đến được con đường này, trước tiên chẳng phải là từ đường nhỏ từ từ lái lên đường lớn sao? Đó gọi là quy đạo. Đạo là người đắc được đạo, một loại trí tuệ. Người ta nói, “quý vị đã thành đạo rồi.” Vậy thành đạo là gì? Thành đạo nghĩa là hiểu được đạo lý và biết được sự việc này, biết cách hành xử như thế nào, cách học Phật ra sao và cách sống trong thế giới này như thế nào. Đây gọi là đắc đạo.

Trong nhận thức của quý vị , nên nhìn thấy mọi thứ trên cái thế giới này đều cần phải minh minh bạch bạch . Qúy vị có hiểu được tâm của mình không? Nhiều người hoàn toàn không hiểu được chính mình. Đó là lý do tại sao Sư phụ muốn quý vị gạt bỏ những tạp niệm của bản thân sang một bên, hoằng pháp lợi lạc chúng sinh và cứu độ chúng sinh cho thật tốt. Thành đạo là gì? Tránh xa những ích kỷ và những tạp niệm trong thế gian, mọi sự đều không thể xoay quanh Pháp Giới mà chuyển động. Mười pháp giới này bao gồm cả nhân gian của chúng ta, gọi là pháp giới. Đôi khi việc chúng ta theo đuổi vật chất, danh lợi sẽ khiến chúng ta mất đi chính mình. Lấy một ví dụ đơn giản, nhiều người xem phim truyền hình trong một thời gian dài, ăn bánh mì quết mứt mỗi ngày, xem hết tập này đến tập khác, ngày nào cũng nằm đó, không đi làm và nói rằng họ phải xem đến kết thúc bộ phim này. Cuối cùng đã xem bao nhiêu tập rồi? Hàng chục tập, xem đến nổi mắt kém đi, lưng cũng bị đau nhức và cuối cùng cũng bị béo lên, bởi vì một người ngồi yên không hoạt động thì sẽ phát béo.

 Vì vậy, trong cuộc đời nên làm người cho tốt, học cách vô ngã và nghĩ về tất cả chúng sinh, thì sẽ có được một thế giới vô tận. Chúng ta nên học Phật cho tốt, lễ Phật cho tốt, học cách nhìn thấu và buông xả. Mong mọi người hãy nổ lực cố gắng, tu tâm cho tốt, cuộc đời vô thường. Sư phụ thường nói với quý vị rằng cuộc sống là vô thường và dường như nó là hữu thường. Con người sống trên đời, có rất nhiều điều khó hiểu, nhưng chúng ta phải học cách để hiểu nó. Đối với nhiều sự việc nếu quý vị không có kiên nhẫn, thì quý vị sẽ không bao giờ hiểu được nó. Vì vậy, con người sống trên thế giới này cần có sự kiên nhẫn, người không có kiên nhẫn sẽ không thể thành tựu được Phật đạo. Kiên nhẫn là gì? Kiên nhẫn là sự chuẩn bị tinh tấn. Chuẩn bị là gì? Khi còn nhỏ, chúng ta ở trường học thường hô: “chuẩn bị – đứng dậy!”. Chuẩn bị, bạn đã chuẩn bị sẵn sàng chưa? Chuẩn bị ở đây có nghĩa là kiên nhẫn, và chuẩn bị ở đây có nghĩa là tinh tấn mà chuẩn bị. Chúng ta có được tính kiên nhẫn thì mới nói đến tinh tấn, người không có tính kiên nhẫn thì nhất định sẽ học Phật không tốt, và chắc chắn là sẽ không tinh tấn.

 Học Phật phải học trí tuệ, học Phật tốt là học trí tuệ của Đức Phật, học Đức Phật năm ấy truyền bá Phật pháp đến thế gian như thế nào ,và khi học Phật lại có thể làm cho chúng ta hiểu được Phật pháp thâm sâu đến như vậy. Mọi người thực sự cần phải hiểu rằng: “Vạn cảnh bổn nhàn, duy nhân tự triệu”. Trên thực tế, cảnh giới này là nhàn rỗi và không thay đổi, và chỉ có con người mới có thể gây ra nhiều rắc rối. “Tâm nhược bất sinh, cảnh tự như như”, cho dù người khác có làm gì, tâm như như bất động, thì có điều gì mà thay đổi được bản thân ta? Lấy một ví dụ đơn giản, khi quý vị ở nhà lấy điện thoại di động ra tự chụp hình mình, thì lúc này người xung quanh có nói gì quý vị cũng không phản ứng, có phải là đã như như bất động rồi không? Khi người khác nói: “Bạn có biết không? Sản phẩm này thật tuyệt vời, nó có thể giúp bạn trở nên phát tài , nó có thể khiến bạn làm một cái gì đó…” Quý vị hãy soi vào gương xem một cái , như như bất động, nó có ảnh hưởng gì đến mình không? Không, không sản sinh ra gì cả. Nếu tâm quý vị bị lay động trước những gì họ nói, và khoảnh khắc tiếp theo gương mặt của quý vị biểu hiện trông giống như một triệu phú hay một tỷ phú, bởi vì tâm của quý vị đã bị rung động ở bên trong rồi.

Con người có đôi khi “bất nhu thuyết nhi ngôn. Đa thuyết tất tao oan”, điều đáng nói thì nên nói, điều không đáng nói thì không nên nói. Điều không đáng nói gọi là “bất nhu thuyết”. Những lời không nên nói mà đi nói ra, thì chúng ta sẽ tự tạo ra oan gia cho mình. Có người đang nói, đột nhiên quý vị chạy tới nói xen vào, ai bảo nói? Chẳng phải là quý vị đã kết oan gia rồi sao? “Bất đương ngôn nhi thuyết” Những lời không đáng nói mà đi nói ra, đó chính là nói bậy , nói bậy sẽ gây ra tai họa, con người sống ở đời thì không thể nói bậy như vậy được.

Mong quý vị hãy nổ lực chăm chỉ. Thôi được rồi, bài thuyết “Bạch Thoại Phật Pháp” dành cho quý vị đến đây đã kết thúc. Hy vọng quý vị học Phật cho tốt, như như bất động. Sư phụ ở nước Úc xa xôi rất nhớ quý vị,nghĩ đến quý vị . Thầy cũng hy vọng rằng quý vị có thể tiếp thu được nhiều kinh nghiệm tốt đẹp này từ việc học Phật, để tự động viên và khuyến khích bản thân nỗ lực tinh tấn hơn, buông xuống vạn duyên, nhẫn nhục tinh tấn. Trong tương lai, sư phụ sẽ thường xuyên khai thị về “Bạch Thoại Phật Pháp”, có thể giúp cho quý vị có được trí tuệ để luôn tỉnh táo đối mặt với cuộc sống đầy phiền não của mình. Người có “trí” mới có thể đạt được thành công. Chỉ cần có trí tuệ, thì chúng ta chắc chắn sẽ một kiếp tu thành! Cảm ơn quý vị.

Tập 4
HỮU SỞ BẤT VI MỚI CÓ THỂ SỐNG LÀ CHÍNH MÌNH

(28/2/2020)

Tốt lắm, tất cả quý Phật hữu thân mến! Hôm nay sư phụ sẽ tiếp tục nói với quý vị về “Bạch Thoại Phật Pháp”. “Bạch Thoại Phật Pháp” giúp cho chúng ta minh tâm kiến tánh, và giúp cho chúng ta hiểu được Phật pháp thâm sâu ở ngay trong chính cuộc sống của chúng ta. Hôm nay, sư phụ tiếp tục nói với quý vị làm thế nào vận dụng Phật pháp trong cuộc sống để giải thoát bản thân khỏi những phiền não trong tâm. 

Phật ngôn Phật ngữ của đạo Phật rất triết học và triết lý. Phật giáo nhân sinh thường nói rằng ý nghĩ quyết định lời nói và hành động, có nghĩa là ý nghĩ trong tâm quyết định lời nói và hành động. Vì vậy lời nói của một người khi nói ra, nhất định là trong lòng họ đã từng nghĩ qua, có ý niệm này thì mới nảy sinh ra ngôn ngữ và hành vi. Vì vậy, một người muốn có một cuộc sống như thế nào trong tương lai phụ thuộc vào khởi tâm động niệm hiện tại của họ. Nếu hiện tại có suy nghĩ tốt thì cuộc sống của họ sẽ chuyển nguy vi an (chuyển nguy hiểm thành an lành); nếu tư tưởng hiện tại của họ thường chứa đầy sân hận, si mê, ghen tị hay phiền não, thì những suy nghĩ trong tương lai của họ sẽ chỉ đạo lời nói và hành vi của họ, khiến họ càng ngu si và phiền não hơn. Vì vậy, nhiều người cả đời gặp phiền não, rất đáng thương, chính vì khởi tâm động niệm của họ không đúng đắn, khiến hành động sau này của họ gặp trở ngại và lời nói của họ không khiêm tốn. 

Con người phải sống ra khỏi bản ngã, nghĩa là một người sống phải rời khỏi bản ngã, đừng suốt ngày mở lời là chỉ nói “tôi” – “Cái này là của tôi, cái kia là của tôi” “Tôi chịu khổ rồi, tôi phiền não rồi.” “Tại sao tôi phải chịu đau khổ”, v.v… Nếu có thể thoát khỏi ngã tướng, thì sẽ tự nhiên không so sánh mình với người khác, bởi vì không có cái “tôi” nữa, vậy thì quý vị so sánh với người khác cái gì? Quý vị sẽ không quan tâm người khác đánh giá mình. Vì quý vị không còn ngã tướng nữa. Chẳng qua là vì quý vị quá quan tâm đến việc “cậu ấy nói thế trước mặt tôi sao?” “Cậu ấy như vậy không phải là cố ý nói tôi sao!” Có chữ “tôi” này tồn tại, thì quý vị sẽ quan tâm đến những gì người khác nói về mình. Rõ ràng người này hoàn toàn không phải nói về quý vị, mà quý vị lại kéo nó về mình, “Cậu không nói tôi thì nói ai?” Đây chính là con người không rời khỏi được ngã tướng. Nếu quý vị có thể rời bỏ cái “tôi”, quý vị sẽ dần dần trở nên lạc quan, con người sẽ trở nên trong sáng vô tư và cuộc sống của quý vị sẽ trở nên đơn giản. Tôi hỏi quý vị, một đứa trẻ khi còn bé có phải là một đứa trẻ trong sáng và hồn nhiên đúng không? Nó không có ngã tướng, bất cứ điều gì nó cũng không sao cả không quan tâm, vì vậy nó sống rất tự tại. 

Thực ra khi nghĩ thấu rồi, thì mỗi đêm đối với chúng ta có thể là một thử thách cuộc đời, vì nó có thể xem như là một lần tử vong. Buổi sáng bình minh chính là một lần tái sinh cho nên trước đây có rất nhiều người thường thức dậy vào buổi sáng với câu nói đầu tiên là “Cảm ơn Bồ Tát, con vẫn còn sống, cảm ơn Bồ Tát đã từ bi”. Đừng vì niềm vui và nỗi buồn mỗi ngày của cuộc sống này làm vướng mắc nội tâm của quý vị thêm nữa. Làm người phải thực sự hiểu rằng phần thưởng tốt nhất trong cuộc sống là có thể buông xuống những phiền não và giải thoát đau khổ, đừng để bản thân bị ràng buộc bởi những ham muốn. Cho nên nhiều người vì còn ham muốn điều này điều kia nên luôn đắm chìm trong dục vọng. Có người khi Sư phụ nói với anh ta: “Cậu đừng như thế, ham muốn của cậu quá mạnh mẽ”. Anh ta nói: “Không phải là ham muốn của con mà đấy là lý tưởng của con.” Thực ra, lý tưởng và ham muốn không thể trộn lẫn thành một mà nói, ham muốn là vô tận và là chiếm hữu những thứ vật chất. Lý tưởng là gì? Đó là một loại phong phú về mặt tinh thần, và muốn đạt được một số thỏa mãn về mặt tinh thần, thì nó nên được gọi là lý tưởng. Khi quý vị ở nhân gian sở hữu càng nhiều thứ, thì quý vị sẽ dần dần bị trói buộc bởi của cải, vật chất, danh vọng và lợi ích mà quý vị đang sở hữu. Vì dù có bao nhiêu nó cũng sẽ rời bỏ quý vị mà đi, công danh không giữ được, tiền của không giữ được, đều sẽ ra đi hết thảy. Dù quý vị có nắm giữ những danh lợi này chặt đến đâu thì cuối cùng quý vị vẫn không có gì trong tay. 

Quý vị phải học cách lựa chọn, chọn cái gì để lấp đầy khoảng trống trong tâm đây? Ý nghĩa của việc chọn lựa lấp đầy khoảng trống trong tâm đó là không bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào để thay đổi tâm linh của chính mình. Vậy thì làm sao để thay đổi tâm linh của mình? Chuyển chữ “ngã” thành đại ngã, chuyển cái tôi nhỏ bé thành cái tôi lớn hơn. Ví dụ: nếu quý vị nói “Tôi bị thiệt thòi rồi”, thì quý vị có thể nói “tất cả chúng ta đều bị thiệt thòi rồi”; “Tôi được lợi rồi”, thì quý vị nên nói “tất cả chúng ta đều được lợi rồi”. Vậy thì quý vị sẽ từ từ loại bỏ được ngã tướng của mình, để tâm linh không trống rỗng, không phải sống vì bản thân mình. Vì người mà chỉ biết sống vì mình, thì sẽ tính toán chi li mỗi ngày. Vì vậy: “Mạc kế nhân sinh tiểu trướng” {không tính toán nợ nhỏ trong đời} một người thì có bao nhiêu món nợ nhỏ trong đời? Trái một khoản, phải một khoản, phải học cách từ bỏ. Từ bỏ cám dỗ, và những người từ bỏ được cám dỗ thì sẽ có được thời cơ mới. Nếu cứ giữ chặt cám dỗ không buông, thì quý vị sẽ từ từ mang gánh nặng, và ắt sẽ khó bước đi. Gánh nặng là vì quý vị không chịu buông xuống, gánh vác trên lưng lâu ngày sẽ cảm thấy rất khó khăn khi đi lại. 

Chúng ta làm người: “Vô sự tâm bất không, hữu sự tâm bất loạn, đại sự tâm bất úy, tiểu sự tâm bất mạn”. “Vô sự tâm bất không” không có việc gì, nhưng trong tâm phải tụng kinh, phải nghĩ đến tất cả chúng sinh thì không thấy chán chường, sẽ không cảm thấy nhàm chán hay không hứng thú. “Hữu sự tâm bất loạn”, bất luận gặp chuyện gì đi chăng nữa cũng đừng hoang mang, chậm rãi làm từng việc một. “Đại sự tâm bất uý”, khi làm việc lớn thì đừng sợ sệt, đừng sợ hãi, vì việc lớn cũng phải làm, việc nhỏ cũng phải làm. Việc lớn cũng có thể làm tốt nó, việc nhỏ thì không nên xem nhẹ nó mà cũng phải làm cho tốt, đó gọi là “Tiểu sự tâm bất mạn”. Đối với những người suy nghĩ thông suốt, sẽ hiểu rằng những vui buồn ly hợp, chua ngọt đắng cay trong cuộc sống, tất cả đều bắt nguồn từ tâm mà ra. Chua là sự xót xa trong tâm, đắng cũng là sự cay đắng trong lòng, ngọt là sự ngọt ngào từ trái tim, cay cũng là sự cay đắng từ trong tâm. Chua ngọt đắng cay tất cả đều do tâm tạo thành, vì vậy tâm thái phải tốt, có chướng ngại nào mà không thể vượt qua được đâu? 

Đời người sống đến ngày hôm nay, thân ở chốn hồng trần, chỉ cần lấy thiện làm vốn là được. Hữu sở vi, hữu sở bất vi, hãy làm điều đó như thể chưa từng làm qua một lần nào. Làm thì cũng làm rồi, chưa làm thì chưa làm, có làm rồi nhưng lại giống như chưa làm, chưa làm thì lại giống như đã từng làm qua, tâm vô quái ngại, thì tự nhiên tâm trở nên an nhiên tĩnh lặng, cũng giống như hoa sen hé nở, an nhiên tự tại, nó không vì ai mà mở, cũng không vì ai mà tàn. Cho nên người tu học Phật, người nghĩ thông suốt thì mọi thứ đối với họ đều tùy duyên, “Cái gì của mình thì sẽ là của mình, cái gì không phải của mình thì sẽ không phải là của mình.” Những gì quý vị có được là của quý vị, và những gì quý vị không đáng có sẽ mang tai họa đến cho quý vị. Bởi vậy, nhân sinh không chỉ có một con đường, rất nhiều người tuyệt vọng chính là vì trên con đường này họ cảm thấy không còn đường để bước tiếp, nên họ mới lựa chọn tuyệt vọng. 

Trong cuộc sống, người học Phật phải xa lìa bi ai thống khổ, những bi khổ ấy là một loại khảo nghiệm đối với chúng ta, có khi qua rất nhanh, có khi qua chậm hơn, nhưng tất cả rồi cũng sẽ trôi qua. Có đôi khi đường bằng phẳng thì luôn chen chúc đông đúc hơn, trên con đường học Phật có muôn vàn Pháp Môn mọi người tập trung bên nhau. Hãy nghĩ rằng, dù chúng ta có gặp bất cứ chuyện gì đi chăng nữa, hãy chọn con đường tốt cho mình và đi con đường ấy. Bởi vì chỉ cần: “Tâm hữu dũng, hành chi lực”, nghĩa là trong tâm phải có dũng khí, hành động phải có nghị lực, tư duy phải có trí tuệ, mãi mãi quyết chí không dời thì chúng ta nhất định sẽ thành công. 

Nhiều người không có duyên phận, sẽ bỏ lỡ rất nhiều thứ, đây là trạng thái bình thường của cuộc sống. Không có duyên thì cũng không có duyên rồi, bỏ lỡ rồi thì cũng không còn cách nào khác, đừng quá tiếc nuối và đau đớn. Khi chúng ta đã đi được một đoạn đường dài, ngoảnh đầu nhìn lại, con người và sự việc trong quá khứ đã biến mất trong ký ức từ lâu. Cuộc sống thực sự rất đẹp là khi quý vị thật sự không hiểu gì về nó, một khi quý vị đã hiểu được rồi, và bước vào đúng sai của người khác, thì cuộc sống của quý vị sẽ trở nên rất phiền não và buồn bã, bởi vì những gì quý vị cảm nhận không thuần khiết, mà đó là “nhĩ ngu ngã trá” (người lừa đảo ta bịp bợm) ở thế gian. Hy vọng rằng mọi người sẽ thay đổi vận mệnh của mình không phải dựa vào cơ hội hay thời cơ mà là dựa vào tâm thái. Người có tâm thái tốt có thể làm cho mọi thứ tốt đẹp hơn, người có tâm thái không tốt thì bất kể chuyện gì xảy ra, dù là chuyện tốt cũng sẽ không có được tâm thái bình yên. Hy vọng mọi người sẽ hiểu được những nguyên tắc này. 

Trước đây nói về đời người “Tam thập nhi lập”, người đã ba mươi tuổi thì bản thân có khả năng tự lập. Vậy thì lập cái gì? Người học Phật nên lập cái gì? Trước đây nói về lập sinh, lập nghiệp và lập gia, còn người học Phật chúng ta nên lập chí, cố gắng lìa khổ được vui, và học Phật học Pháp. “Tứ thập bất hoặc”, bất hoặc chi niên. Mọi người có biết cái gì gọi là “Bất hoặc” không? Không mê muội nữa, hiểu rồi. Thế thì quý vị đã hiểu được gì? Người bình thường thì hiểu xã hội, hiểu bản thân, hiểu được sự phức tạp giữa người và người. Và “tứ thập bất hoặc” của người học Phật thì không nên mê muội, không bị dục vọng của nhân gian làm cho vướng mắc, mạnh dạn thoát ra khỏi phiền não, không tham, không sân, không hận. 

Xưa có câu “ngũ thập tri thiên mệnh”. Vậy thiên mệnh là gì? Thực ra nói theo ngôn ngữ hiện đại là biết được quỹ đạo của vận mệnh cuộc đời, đó là lập gia đình, sinh con đẻ cái, tìm việc làm, kiếm tiền, lập địa vị cho cuộc đời mình. “Ta làm sai điều này, ta làm sai điều kia.” Quý vị biết thiên mệnh là gì không? Quý vị nên biết là đã 50 tuổi rồi, thì hãy mau tu hành, hãy mau giúp người. Bởi vì thời gian để quý vị giúp đỡ người khác không còn bao nhiêu, thời gian để tự mình thay đổi tâm thái cũng không còn bao nhiêu, thời gian để sám hối niệm “Lễ Phật Đại Sám Hối Văn” cũng không còn bao nhiêu, đây mới gọi là “ngũ thập tri thiên mệnh.” 

Xưa có câu: “lục thập nhĩ thuận”. Một khi đã nhìn thấu, hiểu rõ cuộc đời, sinh mệnh và danh lợi không thể đem theo được, đời người rất ngắn ngủi. Nghĩ thông rồi: “Tôi 60 rồi, làm cũng không làm được gì nữa, và tôi sẽ không khổ sở dằn vặt vì những đồng tiền đó nữa”. Quý vị hiểu được gì? Quý vị đã 60 tuổi rồi, nên biết rằng có lẽ phải đi du lịch đến một nơi danh lam thắng cảnh khác, và hãy nhanh chóng tìm đến điểm du lịch tiếp theo – đó chính là thế giới Tây Phương Cực Lạc, hoặc trở về với mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát. Vậy chúng ta nên làm gì đây? Nên tụng kinh, phát nguyện, phóng sinh, làm nhiều công đức, giúp đỡ người khác, làm mọi điều lành, và tránh làm mọi điều ác. Nếu hôm nay quý vị vẫn còn làm điều ác, thì làm sao quý vị có thể trở thành một người tốt đây? Phải buông xuống chính mình.  

Xưa có câu: “nhân đáo thất thập cổ lai hy”, bởi vì người xưa không sống lâu như người bây giờ, và ở một số nơi nóng bức con người có tuổi thọ rất ngắn. “Thất thập tòng tâm sở dục” Làm thế nào đây? Thuận theo tự nhiên, gặp sao yên vậy (thuận kì tự nhiên, tùy ngộ nhi an). Thực ra, người học Phật khi đến tuổi bảy mươi thì phải biết tu tâm dưỡng tánh, nổ lực tụng kinh, thông hiểu Phật pháp cho tốt. Nhưng rất nhiều người cả đời vẫn truy cầu, đến 70 tuổi vẫn truy cầu một số danh lợi, cho nên họ chỉ có thể cô độc hơn trên con đường sinh tử. Bởi vì có những con đường của cuộc đời mà quý vị đã đi qua, có đường dẫn đến những chuyến phà nhưng không có thuyền, và có đường dẫn đến sa mạc nhưng không có lạc đà. Đời người đi đến trạm nào thì tính trạm đó, không có mục tiêu thì quý vị sẽ mất đi phương hướng tiến bước của mình. Tại sao con người lại đau khổ? Bởi vì khoảng cách tâm lý giữa người và người với nhau ngày càng xa, không thể cùng nghĩ về một điều, không thể cùng với “Nhật Nguyệt đồng miên”, không biết làm cách nào để trân trọng nhân duyên giữa hai người với nhau. Vì vậy con người không thể làm cho mình đạt được kết quả viên mãn trong suốt hành trình của cuộc đời. 

Cho nên Đức Phật nói: Sanh ra rất khổ; già rồi muốn ăn thứ gì ăn cũng không được, rất khổ; muốn đi bộ để đi chơi, chơi không nổi nữa, khổ; bệnh rồi là khổ nhất; chết rồi lại khổ hơn; và còn có cả yêu, biệt, ly. Người mà mình thích thì đã rời xa họ, là loại nỗi khổ này của quý vị. Còn có cả oán hận một đời, nghĩa là oán khí, người không muốn gặp phải nhìn thấy mỗi ngày, quý vị lại rất ghét hắn. Và còn có cầu không được khổ, ngày ngày muốn đem chuyện này cầu cho bằng được, cầu không được cũng rất khổ. Và còn, không buông xuống được khổ, ngày ngày vướng mắc ở trong tâm không buông xuống được, rất đau khổ. Đức Phật nói “Mệnh do mình tạo, tướng mạo do tâm sinh”, sinh mệnh của của cuộc đời là do quý vị tạo ra, tướng mạo cũng là do quý vị tạo ra. Tâm động mỗi ngày, thì tướng mạo của quý vị cũng sẽ thay đổi. Khi quý vị động thiện tâm thì thiện tướng sẽ xuất hiện; khi động ác tâm thì ác tướng sẽ xuất. Nhiều người nói quý vị là một người xấu, thì sẽ có ác hình ác dạng. 

Chỉ những người học Phật mới hiểu rằng vạn vật đều không chuyển động. Nếu tâm không thay đổi, thì vạn vật mới không đổi thay. Quý vị vẫn đối xử rất tốt với người khác, và người khác vẫn đối xử rất tốt với quý vị. Ngồi cũng là Thiền, đi cũng là Thiền, “Nhất hoa nhất thế giới, nhất diệp nhất Như Lai”. Là ý nghĩa gì? Ngồi đâu cũng có trí huệ, đứng dậy làm việc cũng có trí huệ.  Bất kể làm việc gì đều trong thiền định. Quý vị đều có cái thế giới này và có cái đạo tràng này trong tâm. Tất cả những gì quý vị làm giống như một vị Phật đang làm, đó là “nhất diệp nhất Như Lai.” Có nhà thơ đã nói “Xuân lai hoa tự thanh. Thu chí diệp phiêu linh”, là ý nghĩa gì? Mùa Xuân đến rồi hoa tự nhiên xanh tươi, rất đẹp; Mùa Thu đến thì lá cây sẽ rơi lả tả, lá của hoa cũng sẽ rụng đi. Cho nên “vô tận Bàn Nhược tâm tự tại”, lá cây vào mùa xuân sẽ thay, vào mùa thu cũng sẽ thay, nhưng tâm trí huệ vô biên của chúng ta vẫn luôn an nhiên tự tại, vĩnh viễn là như vậy, không thay đổi. Hy vọng mọi người sẽ “ngữ mặc động tịnh thể tự nhiên”, lời nói nên “trầm”, tức là nói ít một chút, và hành vi nên yên tĩnh, để toàn cơ thể và cuộc sống được tự nhiên. Đừng để khi gặp chuyện gì là tâm lay động, đừng nhìn thấy việc gì đó mà lại vội vàng, ngồi không yên, đứng không vững, đó là tâm không thể tịnh lại được. 

Thực ra trong cuộc sống, ngày qua ngày, chúng ta buông xuống rất nhiều, có nhiều thứ không muốn buông cũng phải buông. Sinh trăm phương ngàn kế muốn đạt được rất nhiều thứ, rồi tính toán chi li và cuối cùng lại đánh mất chúng. Cả đời không cầu được, phiền não tuyệt vọng, muốn đạt được nhưng cuối cùng lại mất đi. Trong suốt cuộc đời tính toán chi li không đạt được bất cứ thứ gì mà chỉ càng ngày càng chồng chất thêm những oán kết. Tham cái này, muốn cái kia, muốn đủ thứ, lòng tham chưa đoạn, đã tạo biết bao nhiêu nghiệt chướng! Lấy đi những thứ trên tay của người khác, mang những thứ mà mình yêu thích đem giấu, dần dần cảm thấy mình được hưởng thụ rất nhiều trong cuộc đời, nhưng khi lâm chung lại có thể mang theo được bao nhiêu? 

Tập 5
MUỐN CÓ ĐẠO ĐỨC CẦN GẠT BỎ “NGÃ MẠN”

(28/2/2020)

Sư phụ nói cho quý vị biết, hãy học từ Phật Di Lặc: “Đại đỗ năng dung, dung thế gian nan chi sự; Hàm nhan chi tiếu, tiếu thế gian nan tiếu chi nhân.”  

(Nghĩa: Cái bụng lớn có thể dung chứa những việc mà người đời không dung chứa được; Miêng nở nụ cười mỉm với những điều mà người đời khó có thể mỉm cười được)  

Hãy nhìn Tế Công Hoạt Phật: “Người cười ta, hắn cười ta, haha cười, thế giới này là như vậy đó, mọi thứ sẽ như “quá nhãn vân yên”, một đi không quay trở lại.” Nhân sinh tại thế sẽ thường xuyên tiếp xúc với những con người và sự việc phức tạp, vậy người học Phật thì phải làm sao? Phải cố gắng tu hành hết mình thôi. Đó là quý vị mượn một số người và việc phức tạp trên thế gian để nổ lực tu tâm, đây là cơ hội để cho quý vị rèn luyện chính mình. Khi người khác mắng quý vị, quý vị không tức giận, khi người khác tức giận, quý vị không tức giận, tức giận thành bệnh không ai thế (tức giận rồi sinh bệnh tự chịu khổ không ai chịu bệnh thế mình), đó là rèn luyện chính mình. Vì vậy, con người phải học cách chịu đựng những thử thách của nghịch cảnh, và loại thử thách của nghịch cảnh này được gọi là “nghịch tăng thượng duyên”, tăng thêm duyên tiến thủ của quý vị. Có một số người sau khi bị người khác chế giễu, bị người khác vu khống và phỉ báng, thì phải làm tốt hơn cho họ thấy. Gọi là “nghịch tăng thượng duyên”. Người khác nói gì về mình không quan trọng, “Tôi sẽ cố gắng bình tĩnh lại tâm trí nông nổi của mình.” Hãy nhớ rằng, tịnh có thể “Không tâm”: khi một người yên lặng, tâm sẽ trống rỗng. Khi vừa rót một ly nước, có phải là có rất nhiều cặn bẩn mà mắt quý vị không thể nhìn thấy rõ được. Nhưng khi đặt ly ở yên đó, sau vài phút, cặn bẩn trong nước sẽ từ từ chìm xuống đáy ly. Vì vậy, sư phụ dạy quý vị, đôi khi sự khó khăn trắc trở chính là đạo sư của quý vị, trải qua một số khó khan, trái lại sẽ khiến cho quý vị mạnh mẽ hơn. Có những đứa con ở bên cạnh cha mẹ cả đời, không gặp phải khó khăn trắc trở nào, nên bất ngờ khi gặp biến cố lớn, nó ngáo ngớ, và gục ngã ngay. Thường xuyên bị một vài thăng trầm, một vài lần trở ngại nhỏ là chỉ đạo chúng ta hướng đến một tương lai tươi sáng. Cảm ngộ sự chân thực của trần gian, mới có thể thăng hoa cảnh giới. Vì vậy, dù gặp phải bao nhiêu nghịch cảnh ở chốn nhân gian cũng nên mở lòng; trong khó khăn, tâm hãy tịnh lại, để rồi trong lúc khó khăn, ta mới luôn chất chứa lòng biết ơn. Bởi vì khi một người gặp khó khăn, mới nghĩ đến việc cầu xin sự gia hộ của Bồ Tát, để bản thân nhanh chóng thoát khỏi khó khăn. Bồ Tát đã giúp chúng ta, chúng ta phải mang trong lòng sự biết ơn đó. Sư phụ giảng Bạch Thoại Phật Pháp cho mọi người, từ trong Pháp giới của Phật viện dẫn làm thế nào xử lý một số vấn đề của con người và sự việc trong thời đại hiện nay. 

Hôm nay sư phụ giảng Phật pháp cho quý vị, và nói với quý vị, trong tâm mỗi người đều có tính kiêu ngạo. Phật pháp chia tính kiêu ngạo của con người ra thành 7 loại, hãy xem mỗi người chúng ta có bao nhiêu loại “mạn”. “Cống cao ngã mạn” mà chúng ta gọi là kiêu ngạo. “Mạn” là kiêu ngạo, cống cao ngã mạn, kiêu ngạo sẽ làm cho quý vị gặp nhiều phiền não. Những người kiêu ngạo luôn gặp phiền não, bởi vì “mạn tâm” sẽ khiến họ tự cao tự đại; Nghĩ rằng mình tài ba lắm; Sau khi cảm thấy bản thân giỏi rồi, thì coi thường người khác; Sau khi coi thường người khác, nếu gặp phải người có đạo đức có chuẩn mực, thì không chịu khiêm nhường, không chịu cúi đầu. Tiếp đó “mạn tâm “sẽ khiến quý vị cảm thấy rằng: Sự việc này bất kể tôi làm thế nào đều là đúng! Sau đó cố chấp tìm lý do để hoàn thành những điều định vị sai trái trong lòng mình. Rõ ràng đó là điều sai, phải nói cho bằng được nó là hoàn hảo; Rõ ràng là không có lý do gì cho vấn đề này, phải tìm cho bằng được đủ kiểu lý do khác nhau để hoàn thiện bản thân. Đây chính là mạn tâm, có đôi khi “mạn tâm” này sẽ gây ra đủ loại ác nghiệp cho quý vị. Có vài loại hình thức biểu hiện khác nhau của tâm kiêu ngạo. Qúy vị hãy xem, trong 7 loại quý vị có mấy loại. 

Khi người khác thực sự thua kém quý vị về năng lực, kiến thức… về mọi mặt, hoặc khi họ cũng xấp xỉ bằng quý vị, người có “mạn tâm” lớn sẽ tỏ ra tự cao tự đại, tỏ ý xem thường người khác và coi rẻ họ. “Giỏi quá rồi! Cậu có chút năng lực rồi.” “Xem ra cậu có kiến thức, được chứ?” vẫn coi rẻ cậu ta như thường. Hai người ngang nhau! Cậu có năng lực của cậu, tôi có năng lực của tôi, nhưng vẫn coi thường cậu ta. Đây là loại đầu tiên, đây gọi là “mạn”.   

Thứ hai, gọi là “quá mạn”, kiêu ngạo quá độ. “Quá mạn” là khi người khác bất luận bằng quý vị hoặc vượt trội hơn quý vị về phương diện nào, “quá mạn” là dậm chân tại chỗ và cảm thấy mình giỏi lắm. “Cậu ta không có khả năng vượt qua tôi được, với chút trình độ này của tôi, cậu ta không có khả năng vượt qua tôi”. Chỉ nhìn vào khuyết điểm của người khác, không nhìn ra được điểm mạnh của người khác. “Người này ngu ngốc lắm, về phương diện này cậu ta làm được, về phương diện khác cậu ta không thể làm được”. Vậy thì không thể nhìn ra điểm mạnh của người khác, chỉ nhìn thấy điểm yếu của người khác. 

Loại thứ ba, “mạn quá mạn” – Có nghĩa là khi người khác bất luận về phương diện nào đều vượt trội hơn quý vị, “mạn tâm” và tâm kiêu ngạo của quý vị sẽ khiến quý vị bóp méo sự thật, và vẫn nghĩ rằng mình sẽ giỏi hơn người khác. Ví dụ đơn giản, người này trả lời câu hỏi rất tốt, quý vị sẽ nói: “Ồ, không biết hôm nay ăn gì, đầu óc xem ra cũng linh hoạt.” Quý vị cũng có thể tìm ra lý do. Ở nhà, 2 vợ chồng, hôm nay vợ nấu một món rất ngon cho anh chồng, người chồng này tự hào, “mạn quá mạn” anh ta bóp méo sự thật và nói: “Ôi, hôm nay nấu ăn không tồi. Mua ở nhà hàng nào vậy? “Hoặc là sẽ nói: “Hôm nay xem như em may mắn, ngày mai em nấu mùi vị như thế này cho anh ăn thử xem?” Anh chồng rõ ràng biết mình kém vợ mình, cũng không thừa nhận, cũng không chịu phục tùng, anh ta vẫn không thừa nhận người khác vượt trội hơn mình, loại người này được gọi là “mạn quá mạn”. Hơn nữa anh ta không thể chịu đựng được sự tôn vinh và ca ngợi mà người khác nhận được. Vì vậy, khi sư phụ dạy quý vị học Phật, trước tiên, khi sư phụ biểu dương người khác, quý vị phải học cách ca ngợi họ. Hôm nay thầy nói: “Dì này nấu ăn ngon quá!” Quý vị ở bên cạnh: “Phải đó! Dì ấy nấu ăn ngon thật, con cũng ăn qua rồi, tuỳ hỷ tán thán.” “Ồ! Dì này niệm kinh thật hay.” “Đúng đó, niệm kinh rất tốt.” Đấy được gọi là “tuỳ hỷ tán thán”. Nhìn xem con người hiện nay, vừa nói ai tốt là trong số đó lập tức sẽ có 1 người nói “vâng, đúng”, 2 người không bày tỏ thái độ , 3 người lạnh lùng nhìn họ. Đây gọi là con người, con người hiện nay là như vậy. Rõ ràng biết giỏi hơn mình, cũng không thừa nhận. Chẳng hạn như, một người phụ nữ làm một việc gì đó ở nhà, và người chồng thường nói: “Phụ nữ nên làm như thế này, phụ nữ thậm chí đến điều này cũng không biết à?” Vấn đề là anh ta có biết không? Anh ta cũng không biết, đúng không? 

Thứ tư, gọi “ngã mạn”, “ngã mạn” trong từ “cống cao ngã mạn”. Chính thân thể này là ngũ uẩn giả hợp chi thân, vốn dĩ không có “ngã”, thì quý vị là ai? Nếu khi quý vị sinh ra và vĩnh viễn không được đặt tên, thì quý vị sẽ là ai? Quý vị được gọi là hài nhi, lớn lên rồi gọi là học sinh, lớn hơn nữa gọi là sinh viên, tốt nghiệp gọi là thanh niên, và kế đó gọi là trung niên, chết rồi gọi là lão niên. Khi làm lễ truy điệu thì biến thành (lâm) chung niên. Trong điếu văn có nghe qua chưa? “Hưởng dương 78 tuổi.” Vì vậy, “chung niên” này không phải là “trung niên” này, chung niên là cuối cùng cũng đã kết thúc. Thế nên, nếu có “ngã”, ta sẽ phóng đại tự ngã, có “ngã” rồi, đề cao cái tôi của mình, khắp nơi lấy “tôi” làm trung tâm. “Tất cả mọi người phải tôn trọng tôi! Hãy nghe sự chỉ huy của tôi!” Vì vậy, có một số người vừa đến Pháp hội, không cho họ dẫn đầu họ cảm thấy khó chịu lắm. Họ muốn nổi bật ở khắp mọi nơi, đến nổi không có việc gì để làm, nói giọng lớn một chút để thu hút sự chú ý của người khác vào họ – Đó là “ngã mạn”! Để mọi người nhìn xem: Đây là ai! Người này rất lợi hại! Người này rất có năng lực! Muốn nổi bật khắp nơi, hy vọng cả thế giới xoay quanh cậu ta, cảm giác dường như thế giới rời khỏi cậu ta thì địa cầu sẽ không xoay chuyển được. Khi có người thực tình nói với cậu ấy rằng: “Trái đất rời xa cậu sẽ không xoay được nữa hay sao?” Cậu ấy còn trả lời: “Xoay chậm hơn một chút”. Đây chính là con người. 

Thứ năm, “tăng thượng mạn” “Mạn” là sự kiêu ngạo. Trước đây, người học Phật gọi là cống cao ngã mạn, nhưng nhiều người không hiểu cống cao ngã mạn là gì. Bây giờ gọi là kiêu ngạo, ngày xưa gọi là “mạn”, vậy thì “tăng thượng mạn” nghĩa là trong quá trình học Phật có được một chút cảm ứng, có được một chút lợi ích, nhận được một số cảm ứng của nhân quả, lập tức cảm thấy rằng đã đạt được một tầng quả vị nào đó. Nhiều người nghĩ rằng họ đã đạt được quả vị: “Ồ, tôi có thể thấy cái này, tôi có thể thấy cái kia, tôi có thể thấy Bồ Tát rồi…” Tưởng rằng bản thân đã đạt được quả vị nào đó. Vì vậy, đừng tự minh đắc ý (dương dương tự đắc, cuộc sống đừng bất khả nhất thế (ngông cuồng tự cao tự đại). Cũng có một số người tu luyện một cách mù quáng, tẩu hỏa nhập ma, đều khiến họ có “tăng thượng mạn”. 

Thứ sáu, “Ti mạn”. “Ti” là tự ti, Người “Ti mạn” chìm đắm trong trầm luân. Nghĩ rằng: “Mình không làm được, tôi không làm tốt được, đến tay tôi là bị tôi làm hỏng mất.” Vậy thì quý vị nói anh ấy đã thế này rồi, sao anh ấy vẫn còn “mạn”? Tại sao vẫn còn kiêu ngạo? “Tôi không làm được, tôi không thể làm tốt việc này được, nếu cậu thay việc khác tôi sẽ làm tốt nó ngay”, hiểu rõ chưa? Cậu ta không học hỏi từ người khác, tự bản thân làm không tốt nhưng vẫn không chịu lắng nghe người khác. Bản thân đã không làm tốt, thì sao không đi học hỏi người khác! Cậu ấy vì muốn tránh để lộ cái dốt của mình, cậu ta không khiêm tốn và bản thân rất tự ti: “Ai da, tôi làm không tốt, tôi không thể làm điều này, tôi không thể làm điều kia.” Người ta nói: “Cậu học đi, học họ đó! Tôi không học.” Không học, không tôn trọng ưu điểm của người khác, không biết khiêm tốn, đây có phải là một loại kiêu ngạo không? Nếu hôm nay quý vị mở một công xưởng, công việc kinh doanh không tốt, quý vị có cần học hỏi kỹ năng từ những người đang kinh doanh tốt không? Tự mình làm không tốt còn không thừa nhận, còn không học người khác, vậy thì quý vị sẽ dần trở nên “ti mạn”. 

Còn một loại nữa gọi là “tà mạn”, “tà” là tà khí. Bản thân không thực sự có được học vấn hay phẩm hạnh gì cả, nhưng vì để đạt được danh lợi trong thế gian, để đạt được một số mục tiêu của riêng mình, thông qua nhiều thủ đoạn giả dối để đạt được danh dự và địa vị, sau đó bắt đầu tự hào và cảm thấy rằng ta rất tài ba. Điều này được gọi là “tà mạn” 

Đạo đức của một người nằm ở chỗ: biết nhìn ưu điểm của người khác, phải khéo léo để nhìn ra khuyết điểm của chính mình, hiểu được ưu điểm của người khác, cần phải biết được sự thiếu sót của bản thân, nổ lực, khiêm tốn thì quý vị mới có thể tiến bộ được. Vì vậy, đừng nên “văn nhân tương khinh” (đừng khinh thường giữa người có học vấn và người có học vấn với nhau) đừng nên người coi thường mình, mình coi thường người, hãy học ưu điểm của người khác, cải chính khuyết điểm của bản thân, và đừng cảm thấy rằng mình có tư cách để cống cao ngã mạn. Từ từ học cách thay đổi, từ từ học cách tôn trọng, khen ngợi, đối với người khác động tí thì phải: “Cậu thực sự làm rất tốt, công đức của cậu là vô lượng!” Khen ngợi người khác. Ngay khi quý vị khen người khác, tâm ngã mạn sẽ không còn nữa. Quý vị không kiêu ngạo, mọi người đều thích quý vị. Có ai thích những người kiêu ngạo đâu? Một khi quý vị kiêu ngạo, người khác nhìn thấy quý vị thì sẽ tránh xa ra. 

Quý vị khoe khoang bản thân trước mặt người khác, gia đình tốt thế nào, giàu có ra sao, để người khác nghĩ quý vị rất giàu có và làm cho người bên cạnh phải hổ thẹn, như vậy tự bản thân quý vị chưa đủ lòng từ bi. Người có tâm từ bi không nên làm người khác áy náy, người có tâm từ bi không nên làm người khác hổ thẹn, người có tâm từ bi nên hiểu cảm xúc của người khác. Quý vị không hiểu được cảm xúc của người khác, thì không có được lòng từ bi. Quý vị khiến người khác khó chịu, giống như một cô gái rất giỏi về mọi mặt nhưng cũng phải quan tâm đến cảm xúc của người khác, khi người khác thấy cô ấy hơn họ về mọi mặt thì họ sẽ đỏ mặt và xấu hổ. Con trai cũng vậy, quý vị là một ông chủ lớn, có cần thiết phải tỏ ra mình là ông chủ lớn trước mặt người khác không? Phải khiêm tốn. Công nhân nuôi mình, nếu như quý vị nghĩ được như vậy thì quý vị đã biết khiêm nhường rồi! 

Tâm ngã mạn phải thực sự loại bỏ, không thể để nó được nuôi dưỡng, ngày ngày nghĩ rằng mình rất tài ba. Tâm mạn sẽ phá hủy sự tương xử hài hòa giữa người với người. Một người kiêu căng, người có tâm ngã mạn, họ có lòng tự trọng rất cao, bởi vì họ có một số thành tựu, vì vậy họ có lòng tự tôn mạnh mẽ, cảm thấy người khác phải tôn trọng mình, và không thể chịu đựng được sự khinh thường của người khác đối với mình. Vậy, nếu mọi người không quen biết họ thì sao? Cho nên, nhiều người nổi tiếng luôn nghĩ rằng mọi người đều biết mình. Khi sư phụ đi ra ngoài, thầy cảm thấy người khác không biết thầy là chuyện bình thường, và họ biết thầy là chuyện tình cờ. Thầy có suy nghĩ như vậy, thầy mới có thể độ chúng tốt hơn. Vì vậy, đừng quá coi trọng bản thân, bởi vì như vậy quý vị sẽ làm mất đi tâm bình đẳng. Phải tôn trọng người khác và đừng tuỳ ý làm tổn thương người khác. Người học Phật, mối quan hệ giữa người với người là sự tương hộ. Quý vị tôn trọng người khác năm điểm, người khác tôn trọng quý vị tám điểm, quý vị tôn trọng người khác tám điểm, người khác tôn trọng quý vị mười điểm. Vì vậy, nếu quý vị muốn người khác tôn trọng mình, học cách dùng thái độ tôn trọng trước để đi đối đãi với người khác. Đôi khi một sự vô tình khinh thường, coi thường người khác, họ cũng sẽ nhanh chóng phản hồi lại quý vị. 

Ngoài ra, những người có lòng tự trọng cao, nội tâm thường rất mỏng manh, bởi trong mắt người đó, chỉ cần ai vượt qua mình thì người đó sẽ suy sụp, ngày nào cũng muốn người khác nói ngôn từ khen ngợi họ, một khi đã bị trúng đòn thì tinh thần của họ sẽ sớm sụp đổ. 

Đó là lý do tại sao sư phụ bảo quý vị không được kiêu ngạo hãy học Phật pháp cho tốt. Con người có gì tài ba lắm đâu? Dù thế nào đi nữa, phải biết tôn trọng người khác, đó là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của người học Phật. 

Tập 6
CÂU CHUYỆN VỀ ĐỨC PHẬT NĂM ẤY

(28/2/2020)

Sư phụ sẽ kể cho mọi người nghe câu chuyện về một người gánh phân tên là Ni Đề, Đức Phật làm thế nào để độ cậu ta xuất gia. Năm đó Đức Phật đã dùng trí tuệ và sự nhẫn nại như thế nào để độ một người với cơ duyên đã chín muồi như vậy xuất gia.  

Vào thời Đức Phật còn tại thế, trong thành Xá Vệ có một “tiện dân” (tiện dân là những người có địa vị giai cấp không cao) tên là Ni Đề, bởi vì dòng giống thấp hèn, một đời làm công việc giúp người khác khử phân (gánh phân để tự nuôi mình). 

Một ngày nọ, Đức Phật trong Tịnh Xá Kì Hoàn thấy nhân duyên đắc độ của người gánh phân Ni Đề đã chín muồi, thế là Ngài dẫn theo A Nan vào thành, và trực tiếp hoá độ Ni Đề. Lúc này tình cờ Ni Đề đang cầm chiếc vại sành đầy phân, chuẩn bị đi vào thành để đổ. Trước đây người ta đào một cái hố, người ta đổ phân vào hố rồi lấp đất chôn lại, đây là cách xử lý phân ngày xưa. Ni Đề nhìn thấy Đấng Thế Tôn từ xa đang đi về phía mình, và nhìn thấy những bước đi khoan thai của Đấng Thế Tôn, dáng vẻ trang nghiêm và với những tia sáng vàng tỏa ra từ lông mày của Ngài, không khỏi cảm thấy xấu hổ và dơ bẩn, nghĩ rằng: “Ai da! Mình dơ như vầy, sao có thể để Đức Phật nhìn thấy được?” Cậu ta lập tức tránh đường và lặng lẽ rời đi. 

Khi cậu ta chuẩn bị ra khỏi cổng thành, cậu ta không ngờ lại gặp được Đấng Thế Tôn. Thực ra, Đức Phật có ý định đến độ cậu ta, và Đức Phật biết cậu ta đi đến đó. Lúc này Ni Đề đang cầm trong tay chiếc vại sành đầy phân và nghĩ bụng: “Hãy nhanh lánh đi.” Nhưng cậu ta luống cuống một hồi, quay người lại thì không ngờ, đúng lúc chiếc vại sành va vào tường và ngay lập tức vỡ tan kèm theo một tiếng “Boom”, phân văng tung tóe khắp người. Lúc đó, trước sự hiện diện của Thế Tôn, cậu ta vừa xấu hổ, vừa hoảng sợ. 

Lúc này, Đức Phật bước đến trước mặt và từ bi nói với cậu ta: “Con có muốn xuất gia tu hành không?” Cậu nghĩ trong lòng: “Chưa bao giờ có một giọng nói dịu dàng như vậy nói với mình cả!” Cậu ta vừa cảm động vừa hồi hộp và đáp: “Thưa Đức Thế Tôn, Ngài xuất thân từ giai cấp Kiều Tất La cao quý, và các đệ tử của Ngài là những quý tộc xứng đáng với địa vị của Ngài. Con là một nô lệ thấp hèn, làm sao con có thể trở thành đệ tử của Ngài như họ?” 

Đức Phật nói với Ni Đề: “Sự thù thắng của Phật Pháp giống như nước suối tinh khiết, có thể rửa sạch mọi tạp chất và như ngọn lửa cuồng nộ, bất kể to lớn hay nhỏ bé, tinh hay thô, đều có thể thiêu rụi mọi thứ. Lòng từ bi và bình đẳng của Phật pháp rộng lớn vô biên, không phân biệt nghèo, giàu, sang, hèn, nam, nữ, chỉ cần người phát tâm muốn tu tâm, đều có thể đạt được lợi ích tối thượng từ Phật pháp.” 

Khai thị của Đức Phật giống như ánh bình minh rạng rỡ, khiến Ni Đề cảm thấy quang minh và hy vọng mà trước đây chưa từng có, ước muốn xuất gia đã nảy sinh trong lòng cậu ta. Đức Phật sai A Nan đưa Ni Đề ra sông lớn bên ngoài thành để tắm rửa cho sạch sẽ, rồi đưa về Tinh Xá Kỳ Hoàn. Ở Tinh Xá cậu ta nghe Đức Phật khai thị, Ni Đề tâm khai ý giải, liền chứng đắc sơ quả (sơ quả là giác ngộ, muốn xuất gia) nên tha thiết xin Đức Phật cho xuất gia. 

Đức Phật nói với Ni Đề: “Thiện lai Tỳ Kheo, râu tóc tự rụng, áo cà sa tự mặc vào.” Đức Phật vừa nói dứt lời, ngay lập tức, tóc của Ni Đề tự rơi rụng, sau khi mặc chiếc áo cà sa cho cậu ta, bỗng nhiên pháp tướng trang nghiêm hiện ra, giống như một vị hòa thượng. Lúc này, Đức Phật khai thị về Tứ Thánh Đế (Tứ Diệu Đế), Tỳ Kheo Ni Đề liền chứng đắc tứ quả A-la-hán, phiền não từ vô thỉ kiếp liền được dập tắt, chứng đắc thần thông tự tại và cậu ta đã có được thần thông. 

Vào thời đó, xuất gia đều là những người có thân phận vô cùng quyền quý, hoàng đế quý tộc. Khi người dân Xá Vệ nghe tin Ni Đề, một người đổ phân thấp hèn, vậy mà được xuất gia, trong tâm họ đều có ý nghĩ khinh thường. Họ cũng không hiểu tại sao Đức Phật lại muốn độ một người nô lệ xuất gia tu hành, nên họ bàn tán xôn xao khắp đầu đường cuối hẻm. Nhiều người nói: “Làm sao một kẻ thấp hèn như vậy có thể xứng đáng với lễ bái và cúng dường của chúng ta?” “Nếu Ni Đề đến thành phố để thác bát (khất thực), nhà chúng ta sẽ bị hắn làm bẩn thỉu mất thôi.” Tin đồn như vậy lan truyền rất nhanh. 

Không ngờ, ngay cả quốc vương cũng biết chuyện này. Sau khi quốc vương nghe về điều này, ông cảm thấy có một sự khinh khi và một sự nghi ngờ trong lòng, vì vậy ông đã cưỡi một cỗ xe châu báu cùng với những người hầu của mình đến Tinh Xá Kỳ Hoàn, và yêu cầu Đức Phật giải thích tại sao điều này lại xảy ra. Một nhóm cả người lẫn ngựa đến cổng Tinh Xá nghỉ ngơi một lúc, lúc này Tỳ kheo Ni Đề ngồi trên tảng đá lớn ngoài cổng núi may vá áo quần, nhiễu xung quanh là 700 vị thiên nhân bên cạnh Ngài (họ có thể nhìn thấy bằng mắt thường.) 

Khi nhà vua nhìn thấy cảnh tượng thù thắng này, trong lòng vô cùng ngưỡng mộ: “Chao ôi! Vị Tỳ kheo này sao có thể lợi hại như vậy! Làm sao Ngài ấy có được thiên nhân ở bên cạnh nhỉ!” Đi đến trước mặt vị Tỳ kheo Ni Đề và ngỏ lời: “Trẫm muốn gặp Đức Phật, làm phiền Tôn Giả vi thế thông báo (có nghĩa là thế tôi thông báo).” Quốc vương vẫn chưa biết cậu ấy là ai, và không biết cậu ta là Ni Đề. 

Ngay lập tức, Tỳ kheo Ni Đề khởi động thần thông, toàn thân đắm mình trong tảng đá lớn, xuất hiện trước mặt Đức Phật, chỉ trong chốc lát là đến nơi Đức Phật. Sau đó, bẩm báo với Đức Phật: “Thưa Đức Phật, vua Ba Tư Nặc hiện đang ở ngoài cổng Tinh Xá và muốn đến thỉnh pháp Đức Phật.” 

Đức Phật nói với Tỳ kheo Ni Đề: “Hãy đi ra ngoài bằng những thần thông mà con vừa thực hiện, và mời quốc vương vào đây.” 

Ngay lập tức, thân thể Tỳ kheo Ni Đề thu nhỏ lại và trồi ra khỏi khe hở của tảng đá, giống như nước có thể tự do ra vào mọi khe hở, không có chướng ngại vật nào. Khi đi xuyên qua, Ni Đề nói với quốc vương: “Đã giúp quốc vương thông báo qua rồi, mời đại vương vào trong.” 

Quốc vương nhìn thấy vị Tôn Giả này và nói: “Chao ôi! Làm sao Ngài ấy muốn đi vào, liền đi vào, muốn đi ra, liền đi ra?” Vừa kinh ngạc vừa tán tụng. Những nghi ngờ và ác niệm trước đó đã bị cuốn trôi, quyết định không hỏi về việc tiện nô đổ phân xuất gia nữa mà muốn hỏi Đức Phật rằng, tại sao vừa rồi vị Tôn Giả này có thể biến thần thông và lại có được đại thần thông tự tại vô ngại như vậy. Quốc vương suy ngẫm và bước đến trước mặt Đức Phật, đảnh lễ Đức Phật, quay người sang bên phải ba vòng, cung kính lui ngồi về một bên và nói với Thế Tôn về những nghi ngờ trong lòng: “Bạch Thế Tôn! Vị Tôn Giả thông báo giúp trẫm ở phía trước có đại thần thông, ta thấy Ngài ấy có thể dìm toàn bộ thân thể vào trong tảng đá, giống như nước thấm vào tảng đá và cũng có thể tự tại từ trong tảng đá to hiện ra, không biết vị Tôn Giả này trên dưới xưng hô như thế nào.” (Trước đây xưng Cao Tăng Đại Đức là “thượng, hạ”, chẳng hạn như: “gì thượng, gì hạ, đại hoà thượng.”) 

Đức Phật nói với vua Ba Tư Nặc: “Thưa quốc vương, vị Tỳ kheo thần thông tự tại này chính là Ni Đề, người đổ phân đang được lưu truyền trong dân chúng ở vương quốc Xá Vệ, ta đã độ hóa cậu ấy xuất gia, chứng đắc quả vị A-la-hán.” 

Ngay khi quốc vương nghe thấy điều này, sự kiêu căng và ngạo mạn của ông lập tức biến mất, thay vào đó là sự ngưỡng mộ và hoan hỷ không gì sánh được. Đức Phật lại khai thị cho quốc vương lần nữa: “Thưa quốc vương, vạn vật vạn việc trên đời đều không thể tách rời nhân quả. Nhân sinh tại thế, tại sao lại có quả báo nghèo, giàu, sang, tiện, tôn, hèn, khổ, lạc?” Đó hoàn toàn là nhân mà ta đã gieo từ kiếp trước! Nếu kiếp trước trong lòng luôn nuôi dưỡng lòng nhân ái, từ bi, khiêm nhường, thiện niệm kính thuận, thân luôn kính trọng tam bảo, bậc trưởng lão, yêu quý thế hệ sau, làm mọi việc thiện cho tất cả chúng sinh, thì kiếp này sẽ nhận được sự tôn quý và giàu có. Nếu kiếp trước tàn bạo, độc tài, cống cao ngã mạn, buông thả thuận theo các loại tật xấu của bản thân, thì quả báo đời đời sẽ cảm thấy mình hèn mọn, kém cỏi. Vì vậy, thưa quốc vương, nhân quả chính là chân lý của thế xuất thế gian.” 

Vua Ba Tư Nặc lại hỏi thêm Đức Phật lần nữa: “Xin hỏi Đức Phật, rằng kiếp trước Tôn Giả Ni Đề đã gieo nhân nào, để kiếp này Ngài mới cảm đắc quả báo bần cùng thấp hèn? Và kiếp trước Ngài lại gieo nhân nào để kiếp này được gặp Đức Phật đắc độ, thành tựu thánh quả? Cầu xin Phật tổ từ bi khai thị.” 

Đức Phật nói với vua Ba Tư Nặc: “Ngày xưa, sau khi Đức Phật Ca Diếp diệt độ, sau có 100.000 vị Tỳ kheo Tăng. Trong Tăng đoàn này có một Tỳ kheo làm chấp sự (người nắm giữ trách nhiệm công việc). Vì bệnh tật, vị Tỳ kheo này thường bị tiêu chảy và đi tiểu nhiều lần, nhưng ông không ra ngoài giá phòng (nhà cầu) để đi vệ sinh, mà bài tiết trong đồ dùng bằng vàng và bạc, dựa vào quyền lực của mình để ra lệnh cho đệ tử của mình xử lý phân. Vì giữ chức vụ chấp sự quan trọng trong Tăng đoàn, ông buông thả bản thân, kiêu ngạo tự đại, nên hễ thấy hơi khó chịu là ông ta lười biếng và sa đọa, sai khiến đệ tử đi đổ phân cho mình. Tuy nhiên, đệ tử mà ông ta ra lệnh là một vị Thánh nhân đã chứng đắc sơ quả. Vì duyên cớ này, nên ông sinh ra là một người thấp kém trong 500 kiếp, tự nuôi sống mình bằng nghề đổ phân thuê, và liên tục cho đến kiếp này, ông ta vẫn là một tiện dân đổ phân thuê cho người khác. Tuy nhiên, vì đã từng xuất gia và giữ trì giới luật, nên nhân duyên ở đời này đã chín muồi, được gặp Như Lai, được nghe pháp yếu, có thể lậu tận phiền não và chứng đắc quả vị A-la-hán. Thưa quốc vương, Ngài có biết khi nãy nói đến vị chấp sự ép buộc Thánh nhân đổ phân đó là ai không? Ông ấy chính là tiền kiếp của Tỳ kheo Ni Đề.” 

Sau khi vua Ba Tư Nặc nghe Đức Phật khai thị lập tức giác ngộ, tràn đầy pháp hỷ, và ông tỏ ý khen ngợi: “Sự xuất hiện của Như Lai trên thế gian thật là thù thắng hiếm có, có thể làm lợi “pháp ích” cho chúng sinh vô lượng vô biên, lìa khổ được vui.” Nói xong, quốc vương đứng dậy khỏi chỗ ngồi, bước đến chỗ Tỳ kheo Ni Đề, cung kính quỳ thẳng, đảnh lễ Tỳ kheo Ni Đề, thành tâm sám hối những ác niệm trước đây của mình. Lúc này, Đức Phật thấy vua Ba Tư Nặc đã dẹp bỏ tính kiêu ngạo của mình, thậm chí còn thuyết Pháp nghĩa vi diệu cho vua. Đức Phật nói: “Chấp tướng tu bố thí, giữ giới, ngay cả hy vọng sinh thiên, những cách tu này đều là pháp sinh diệt, chẳng phải là tối thượng. Chỉ có tu tập tất cả các pháp lành, không chấp vào hình tướng, tâm vô sở trụ (tâm không trụ vào đâu), mới là niềm hạnh phúc tối thượng. Lúc này, đại chúng tại hiện trường nghe được những lời khai thị vi diệu của Đức Phật, tất cả đều được lĩnh hội, chuyên tâm tinh tấn nghe Pháp và y giáo phụng hành (làm theo lời dạy). Câu chuyện này được tuyển chọn từ “Hiền ngu kinh. Quyển thứ 6”, nhằm nói với mọi người rằng, hôm nay ta lười biếng, dùng tâm cống cao ngã mạn đi sai khiến một số người tu hành rất tốt, sai họ làm điều này, làm điều kia (trong pháp giới đạo Phật, Pháp sư có một quy tắc là không thể tiêu hao công đức của mình, phải tự mình làm bất cứ việc gì), nếu quý vị kêu người khác làm điều gì là quý vị đang tiêu hao công đức của chính mình. Chính vì vậy đừng tùy tiện kêu người khác tốn công sức một cách dễ dàng, công đức của quý vị sẽ tan biến theo đó. Chính là vì ông đã sai một trong những đệ tử của mình đi đổ phân, vả lại người đệ tử này là một vị Thánh nhân đã chứng đắc sơ quả. Thánh nhân là gì? Người này đã không còn là người phàm nữa, và người này sẽ sớm được lên trời. Vì vậy, ông không gieo nhân lành, ông gieo nhân ác, và cuối cùng nhận ác quả. 

Làm thế nào chúng ta có thể dùng cuộc sống hữu hạn của mình để tạo ra một tương lai vô hạn? Mỗi chúng ta phải học cách tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình, đừng tạo nghiệt, đừng tùy tùy tiện tiện dùng của người khác, dùng của người khác càng nhiều thì nợ họ càng nhiều. Tự mình làm được thì tự làm, tự mình không làm được thì nhờ người khác làm, dùng công đức mà trả. Vì vậy, người làm được thì cũng phải luôn trân trọng người khác thật tốt. Ngay cả khi người khác làm điều gì đó với quý vị, quý vị nói một câu: “Xin lỗi, cảm ơn cậu.” Như vậy tiêu hao phước báo sẽ ít hơn nhiều. Thế nên, các pháp sư không muốn người khác làm việc cho họ, bởi vì điều đó sẽ làm cạn kiệt công đức của họ. Vì vậy, mong rằng tất cả những người học Phật chúng ta, hãy tự mình làm lấy, còn làm được, mà không làm, sau này tuổi tác càng cao, xin lỗi! Quý vị sẽ già đi rất nhanh. Quý vị càng ít làm việc và càng ít cống hiến bản thân, thì phúc đức của quý vị càng bị tổn thất nhanh chóng. Sư phụ hy vọng rằng mọi người sẽ tận dụng trí tuệ của Phật để thay đổi, để có thể thực sự hiểu được, làm thế nào hóa giải phiền não, hóa giải ác nghiệp của mình trong nhân gian. Làm thế nào để bản thân Chánh tín Chánh niệm trên con đường học Phật. Bất kì sự lười biếng, sự buông lỏng, sự phiền não nào đều do chúng ta xa rời trí tuệ. Nếu chúng ta có được trí tuệ, sẽ bài trừ mọi mê hoặc điên đảo, tu thành chánh quả. 

Mong rằng mọi người sẽ nổ lực tu tập, nhất định phải một kiếp tu thành. “Bạch Thoại Phật Pháp” dành cho đại chúng hôm nay tạm dừng tại đây. Cảm ơn đại chúng! 

Tập 7
THIỆN ÁC ĐỀU LÀ NHÂN QUẢ

(04/03/2020)

Trước hết phải gột rửa 3 độc tham, sân, si. Rửa là chuyển tất cả những điều tham, hận, trong quá khứ kể cả những điều ngu si đã từng làm qua, tất cả phải chuyển nó từ bẩn thành sạch, tức là chuyển những điều ô nhiễm trong quá khứ trở nên trong sạch, đây gọi là gột rửa, thân tâm sẽ trong sạch và quang minh. Tại sao thân tâm con người không quang minh, không trong sạch? Là vì suốt ngày không vui vẻ, khó chịu, nội tâm dần dần trở nên ô uế, không trong sạch. Nếu trong tâm không trong sạch thì dần dần sẽ bị tham, sân, si làm ô nhiễm, Phật Tánh tự thân của quý vị sẽ không thể hiển lộ. Phật Tánh tự thân chính là từ bi với người khác, tử tế với người khác và đừng tham lam. 

Một người làm thế nào có thể gột rửa tham sân si của mình đây? Cách tốt nhất đó là niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn, nhất định phải niệm nhiều. Bởi vì nếu một người không thích sám hối, không thích thừa nhận những khuyết điểm của mình, người đó sẽ dễ dàng sa vào cảnh khốn cùng, nếu sa vào cảnh khốn cùng thì quý vị không có cách để ứng phó với thân, khẩu, ý. Một người không thích thừa nhận khuyết điểm của mình thường sẽ không vui, thường nghĩ không thông và thường khó chịu. Làm sao mình có thể để thân, khẩu và kể cả ý niệm có thể hoà hợp cùng nhau, khiến tâm của mình hiểu thông, lời lẽ nói ra như Phật, ý niệm nghĩ ra giống như Bồ Tát đây? Một người cần phải có Thanh Tịnh Phật Tánh căn bản, đó là điều mà Đức Phật thường nói cảnh động mà tâm không động. Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, tâm đừng lay chuyển, cảnh chuyển tâm bất chuyển. Căn bản của Thanh Tịnh Phật Tánh là Amala thức trong thức thứ 9, đây chính là lương tâm bổn tánh. Dù có phát sinh chuyện gì đi nữa, tâm quý vị vẫn như như bất động, biết có chư Phật Bồ Tát ở trong tâm, quý vị sẽ không chuyển biến ý nghĩ thành những ý nghĩ không tốt, lục đạo luân hồi sẽ không ở bên cạnh quý vị. Tại sao nhiều người thường luân hồi trong lục đạo? Thực ra khi một người quá đau khổ, khi nghĩ không thông, thì họ đã ở trong luân hồi rồi. Trong 6 cõi có cõi trời đúng không? Vui vẻ rồi, khi hoàn cảnh thay đổi, thời gian quý vị trên cõi trời ít đi, thời gian vui cũng ít đi, ở cõi người bắt đầu chịu khổ, cõi ngạ quỷ bắt đầu hoài nghi, cõi súc sinh thì bắt đầu làm tổn thương người khác, điều đó cũng bất lợi đối với bản thân, tiếp đó làm ma. Không “tiên nhân hậu kỷ” (người trước ta sau), chỉ làm tổn thương người khác, không biết giúp đỡ người khác, thì quý vị đang ở trong vòng lục đạo luân hồi. Người mà não thường luân hồi trong lục đạo thì oán khí của họ rất nặng, niệm tham của họ sẽ rất sâu. Vấn đề trên nhân gian này là do “Túc nghiệp” của họ vẫn chưa được tiêu trừ. “Túc nghiệp” có nghĩa là nghiệp chướng kiếp trước chưa được tiêu trừ, kiếp này lại tiếp tục làm việc xấu, thì làm sao có thể tinh tấn? Làm sao có thể nổ lực được đây? 

Một số người khi họ niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn thì nhớ lại rất nhiều điều trong quá khứ. Trên thực tế, sau khi niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn đúng ra là bản thân nên giải thoát khỏi khổ đau. Nhưng nhiều người khi niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn: “Ồ! Sự việc này đối với con…” Đây gọi là sự sám. Mọi người phải phân biệt nó về mặt lý luận. “Hôm nay con niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn, nhiều chư vị Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Phật tổ vĩ đại, tất cả chư vị Phật Bồ Tát, đều đang theo dõi chúng con thay đổi chính mình. Hôm nay con biết lỗi rồi, mong Bồ Tát có thể giúp con tiêu trừ việc này.” Lúc này trong lòng quý vị sẽ tràn đầy pháp hỷ, chứ không phải niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn khiến quý vị hồi ức về quá khứ. Làm thế nào để một người thoát khỏi khổ đau đồng thời ngăn chặn nghiệt tội của mình? Đó là cần phát tâm đại nguyện. Ví dụ như có một tai nạn ập đến, thiên tai ập đến, tâm đại nguyện có thể tiêu trừ rất nhiều nghiệp chướng. Dù có gặp phải chuyện gì đi nữa, niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn thì nghiệt tội sẽ được tiêu trừ nhanh nhất. Lễ Phật Đại Sám Hối Văn nên niệm nhiều, phù hộ bình an, nhiều người không biết điều này. Trong cuộc sống, làm người cũng vậy. Phù hộ bình an là gì? Hiện nay, vào thời kỳ mạt pháp, phù hộ bình an đó là thường xuyên thừa nhận lỗi lầm và khuyết điểm của mình, khi gặp phải chuyện gì, nên nói: “Xin lỗi, tôi đã làm không tốt. Tôi xin lỗi”. Đây chính là Lễ Phật Đại Sám Hối Văn ở nhân gian. Làm người phải nói lý. Người ta nói: “Cậu có nói lý lẽ không?” Chữ “lý” này tương tự với chữ “lễ”. Quý vị thường xuyên nói lời “Xin lỗi” với người khác, có phải quý vị được bình an và người khác sẽ không làm khó dễ quý vị nữa không? 

Nghiệt tội được tiêu trừ, một người phải biết cách thiện thủ giới luật. Giới luật phải thiện thủ. “Thiện thủ” nghĩa là gì? Hãy tuân thủ tốt giới luật. Để đạt được minh tâm kiến tánh. Ở nhân gian rất nhiều người luôn cảm thấy rằng mình rất có đạo lý, nhưng không biết được lý lẽ thực sự trên thế gian này, đó không phải là lý, đó là một loại duyên phận, có đâu ra lý để mà nói! Là duyên phận. Nhiều người cũng thường nói: “Tôi quy y rồi” Quý vị không thể coi quy y như một lời hứa hẹn, chấp thuận, như thể quy y là: “Sau này tôi sẽ làm việc cho Bồ Tát” – không phải như vậy mà đó là khơi dậy bổn tánh sự lương thiện và từ bi trong nội tâm của quý vị. Chúng ta quỳ lạy mỗi ngày. Khi quỳ lạy tư tưởng có tập trung không? Tâm đã quy y chưa? Chúng ta độ người, cứu người hay truyền bá Phật pháp mỗi ngày. Đây có phải là đã quy y Pháp không? Giúp đỡ người khác là quý vị đang hành Pháp – hành Phật Pháp, để người khác nhìn quý vị giống như một vị Phật, như vậy thì có phải là quý vị đang tiến hành không? Tăng, trên thực tế, khi nhìn thấy pháp sư, lấy pháp sư làm gương mẫu; nếu không có pháp sư, thì lấy vị Phật trong tâm mình làm gương mẫu. Phải luôn nghĩ, chúng ta chính là một vị pháp sư chưa xuất gia. Muốn học Phật điều đầu tiên là phải học cách “Không” (rỗng). Trong đầu có quá nhiều nhiễm niệm, thì không thể học Phật tốt được. Tánh Không là tìm thấy bản tánh của mình. Tánh Không cũng giống như căn phòng này: trống không thì người khác mới có thể vào bên trong ngồi được. Nếu như căn phòng này ngồi chật kín, thì người khác không thể vào được. “Không” là gì? Khi chúng ta học Phật, phải tìm thấy bản tánh trong nội tâm, nhất định phải có Tánh Không. Bởi vì trong lòng quý vị đã có “Có” rồi, cái gì cũng giấu ở trong lòng, tất cả tham, sân, si, mạn, nghi đều ở trong lòng của mình. Chúng ta phải đào bỏ tất cả những tham, sân, si, mạn, nghi, và tu cho đến khi rỗng không. Nó giống như một người đang rất phiền não, tu đến sau cùng sẽ không phiền não nữa, đó là đã đạt “Không” rồi. Lẽ ra tranh cãi với người khác, nhưng nghĩ thông rồi thì rỗng không. 

Trước đây chúng ta từ không biết Phật pháp, đến nay có thể vận dụng Phật pháp, phải hiểu được ý nghĩa của đạo Phật. Bây giờ chúng ta đã khác với người thường, bây giờ chúng ta không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay cả khi làm việc thiện cũng đừng suy nghĩ quá nhiều, làm theo đúng lý đúng pháp đó là một loại hành thiện tự nhiên. Khi làm việc thiện với sự rỗng không trong bổn tánh, người này chính là hành thiện. Nếu hôm nay quý vị nghĩ: “Tôi phải hành thiện”, thì đây không phải là thuần thiện. Có một sự khác biệt giữa thực sự hành thiện và chấp trước. Nếu ngày nay quý vị ép buộc mình phải nghĩ về thiện và không nghĩ ác, thì có thể là chấp trước. Nếu hôm nay cho dù là thiện hay ác quý vị đều không nghĩ gì, vì quý vị là một người tốt, những gì quý vị làm nhất định đều là điều tốt, quý vị sẽ không nghĩ về “Hôm nay mình có làm điều gì xấu không?” Vì quý vị đã là một người tốt rồi.  

Thiện và ác là tương đối. Có những chuyện nhìn bề ngoài quý vị nghĩ là việc thiện nhưng cuối cùng nó lại là một việc ác, có đôi khi quý vị nghĩ đó là việc xấu nhưng quý vị lại đi giúp đỡ người khác. Lấy một ví dụ đơn giản, một đồng tu đang làm điều xấu, và quý vị nghĩ rằng: “Tôi không nên nói với người khác”, là quý vị đã làm hại họ. Có một số điều phải nói với sư phụ, sư phụ giáo dục đồng tu đó, giúp đỡ và kéo đồng tu đó trở về. Nếu không nói, đồng tu làm chuyện xấu, cuối cùng triệt đi Huệ mạng của đồng tu. Nhiều người nghĩ rằng: “Mình không nói là đúng, thì mình sẽ giúp họ giữ bí mật” nhưng thật ra quý vị đã hại đồng tu đó rồi.  

Việc phá bỏ “Không” và “Có” trong nhân gian là điều rất quan trọng. Rốt cuộc thì trong tâm chúng ta đang có gì? Nếu có tham, sân, si, mạn, nghi thì thà đừng có gì, thà trống rỗng còn hơn. Nếu những gì hôm nay trong lòng chúng ta có đều là Phật Tánh và những điều tốt đẹp, thì tất nhiên “Có” là tốt rồi. Vấn đề là trong tâm hầu hết ai cũng có tham, sân, si, mạn, nghi, như vậy những thứ của Phật Tánh sẽ nhanh chóng qua đi, nhưng những thứ tham tâm, bẩn thỉu đó không dễ gột rửa. Lấy một ví dụ đơn giản, áo sơ mi trắng của quý vị bị dính mực, quý vị muốn giặt sạch, nếu chiếc áo sơ mi đó vốn là áo trắng, giặt rồi là sạch ngay, những điều thiện nó vẫn còn giữ lại; những điều ác chỉ cần ở trên áo hoặc trong tâm quý vị, nó sẽ không dễ dàng giặt sạch, vì vậy quý vị mới đau khổ. “Không” và “Có”: “Có” quý vị rửa sạch nó rồi thì sẽ trống rỗng. Vốn dĩ lòng người là bình đẳng, và mọi người đều bình đẳng. Đừng nghĩ rằng người này tốt người kia xấu, trên thực tế tất cả mọi người đều bình đẳng, quý vị có hai mắt, người ta cũng có hai mắt, đẹp hay xấu, cận thị hay viễn thị, đây là một khái niệm khác, nhưng nói chung mọi người đều bình đẳng, và đều có thể thành công nếu làm việc chăm chỉ. 

Thiện ác vốn là một loại nhân quả, nói đến nhân quả, nếu quý vị làm một việc thiện nhưng cuối cùng cái “quả” nhận được lại không tốt, trên thực tế không có nghĩa là phát tâm tốt thì có thể làm được việc tốt. Một người bác sĩ chỉ phụ trách kê đơn thuốc, không quan tâm đến sự sống chết của bệnh nhân khi uống vào, đây có phải là một vị bác sĩ tốt không? Chúng ta nói: “Tôi muốn tốt cho cậu ấy, cuối cùng sao lại như vậy?” Tự mình phải hiểu chính mình. Nhiều người suốt ngày nói “Tôi hiểu cậu ta, tôi hiểu cậu ta”. Kỳ thực, đến chính mình còn không hiểu thì làm sao hiểu được người khác, khi bản thân sắp nổi giận, trước hết phải hiểu tính cách của mình: “Nếu tôi tức giận thì tôi sẽ nảy ra hành động gì”, tự mình phải hiểu. Vợ mình bị bệnh, mình biết cô ấy sẽ làm gì tiếp theo, bản thân mình phải hiểu rõ. Cô ấy sắp nổi giận, và mình biết kết quả cuối cùng sẽ như thế nào, một khi mình biết cái “quả” này rồi, thì cái “nhân” này của mình sẽ không làm xằng bậy. 

Khi biết mình sắp nổi giận, trước tiên nên dùng sự im lặng, đừng dùng lời nói để kiềm chế bản thân. Mọi người thấy đấy, tịnh tịnh tịnh, “cậu ta tịnh lại rồi”. Nếu quý vị muốn dùng lời nói để kiềm chế bản thân, khi nổi giận lên và nói: “Tôi không muốn so đo tính toán với những người như cậu, tôi sẽ kiềm chế, và tôi sẽ không muốn đếm xỉa tới cậu. Đẳng cấp của cậu thấp như vậy, tôi cãi nhau với cậu làm gì? Hừ! Tôi không thèm quan tâm đến cậu!” Có phải dùng lời để kiềm chế không? Kiềm chế nổi không? Tiếp theo đó thì sự bực tức lớn hơn. Vì vậy, khi một người không tìm được đường, lái đi đâu cũng sai, phải hiểu rõ đạo lý này. Bởi vì quý vị không biết đường nào là đúng, thì sẽ lái sai đường. Sư phụ có thể kéo quý vị lại, dạy bảo quý vị. Khi quý vị mất bình tĩnh, chỉ cần quý vị mất bình tĩnh là quý vị đã sai, và bất cứ điều gì quý vị nói ra đều sai. Vì vậy, mất bình tĩnh giống như lái xe sai đường, thế nên đừng nổi giận, vì nổi giận quý vị sẽ sai, sai ngay khi quý vị nói. Trước hết, hãy bình tĩnh lại, suy nghĩ kỹ xem điều mình muốn nói có cần thiết không, có khả năng nó sẽ trôi qua. Khi trí tuệ của mình không đủ thì trước tiên đừng nên nói chuyện, khi quý vị không tìm được đường thì trước hết hãy bình tĩnh lại, đừng lái bừa, hãy gọi điện thoại và hỏi một người bạn nào đó, lấy bản đồ ra xem xem, hãy nghĩ về con đường mà quý vị vừa đi, có thể quý vị sẽ nhanh chóng tìm ra con đường đúng đắn của mình. 

Bài “Bạch Thoại Phật pháp” hôm nay dành cho đại chúng đến đây là kết thúc, xin cảm ơn đại chúng! 

Tập 8
GIẢI THOÁT VỚI SỰ THAY ĐỔI CỦA NGOẠI CẢNH

(07/03/2020)

Quý Phật hữu thân mến, hôm nay sẽ tiếp tục khai thị cho quý vị bài “Bạch Thoại Phật Pháp” mong rằng quý vị có thể tăng thêm trí tuệ, có thể có được ngộ tánh và hiểu biết nhiều hơn để thoát khỏi những phiền não về mặt sức khỏe thể chất lẫn tinh thần. 

Năm ấy, Đức Phật đã từng nói với các vị Tỳ kheo dưới gốc cây trong vườn Cấp Cô Độc ở nước Xá Vệ rằng: Tất cả những sự vật bên ngoài thế gian này là vô thường, cũng có nghĩa là, Đức Phật nói: “Trên thế giới này, tất cả các sự vật bên ngoài đều không lâu dài, bất cứ điều vô thường và không lâu dài nào cũng sẽ khiến con người cảm nhận được đó là một sự đau khổ.” Mọi người hãy nghĩ xem có phải như vậy không. Giả sử chúng ta rất thích một thứ gì đó, nhưng nó không tồn tại được lâu dài, khi phải rời bỏ nó đây có phải là một sự đau khổ không? Chẳng hạn như một bộ quần áo tốt, mặc chưa được vài lần, vì cơ thể phát béo hoặc quá gầy, đợi đến khi không thể mặc được nữa phải vứt bỏ hay cho người khác thì lúc đó quý vị cũng sẽ đau khổ, đây chính là vô thường. Đức Phật dạy chúng ta rằng vô thường là một điều rất đáng sợ, bởi vì bất kỳ sự vật nào trên đời, chỉ cần quý vị yêu thích nó, sở hữu nó, miễn là quý vị thích hoặc là không nỡ bỏ, đợi đến khi vô thường đến, đau khổ đến thì quý vị sẽ càng đau khổ nhiều hơn. 

Đức Phật đã từng nói với các vị Tỳ kheo rằng thực ra sự vô thường này không phải là bản “ngã” thực sự – không phải là cái tôi thực sự. Tại sao đức Phật lại nói như vậy? Đức Phật nói rằng vô thường này không trường tồn, nó không phải là cảm nhận thật sự của bản thân, nó không nên lưu lại trong cái “tôi” đau khổ này. Bởi vì đau khổ là “tôi” đau khổ – nó là “tự ngã”, là “ngã trước ngã tướng”. Đối với bất cứ điều gì trên thế gian, Đức Phật cho rằng, bất cứ điều gì trên đời này, bởi vì không phải là của chúng ta, thì chúng ta nhất thiết không được “trước tướng”. Những thứ không phải của quý vị, nếu quý vị cứ nghĩ rằng “là của mình” vậy thì quý vị sẽ bị lưu lại trong sự đau đớn. Vì vậy, nên thoát khỏi nỗi đau này. Ví dụ, quý vị vay tiền để mua một ngôi nhà, lúc ngôi nhà được mua bằng tiền vay và cảm thấy rằng ngôi nhà đó là của riêng mình, rất vui mừng, lau đi rửa lại và nghĩ: “Đây là nhà của mình”. Đợi đến khi tiền vay không trả nổi nữa, nhà bị ngân hàng tịch thu lại, quý vị có đau khổ không? Khi quý vị nghĩ rõ rồi, ngôi nhà này vốn dĩ không phải là của mình, thì quý vị sẽ không còn đau khổ. Ngôi nhà này là vô thường, không thuộc về mình, nếu quý vị nghĩ theo cách này và nhìn nó theo quan niệm này, đó gọi là Chánh tín Chánh năng lượng (năng lượng tích cực) và con người sẽ không sống trong nỗi đau của vô thường. 

Đức Phật thường giúp chúng ta có được trí tuệ. Tuy nhiên con người chúng ta đôi khi lại có một cảm giác vô hình nào đó, “Tôi rất thích sự việc này”, “Tôi rất yêu mẹ của tôi, yêu bạn bè của tôi và các bạn học cùng lớp với tôi”, hay thậm chí là “Tôi rất thích món ăn này…” những điều này đều là vô thường. Bồ Tát cho rằng đó chỉ là một loại cảm giác trong lòng chúng ta mà thôi. Hôm nay quý vị cho rằng việc này rất tốt, “Tôi cảm thấy rất vui, thứ này là của tôi”, kỳ thực chỉ sau một thời gian nó sẽ không phải là của quý vị nữa, nó chỉ là cảm giác mà thôi. Lấy một ví dụ đơn giản, khi người bạn Phật tử của chúng ta rất mệt và khát, bạn đó đã mua một ly trà sữa và để ở đó. Của bạn đó đúng không? Nó là của bạn ấy. Đã bỏ tiền để mua nó về thì tất nhiên là của bạn đó rồi phải không? Phải! Nhưng nó là vô thường, bạn ấy vừa đi chỗ khác thì có một người bước đến và cầm lên uống cạn, khi bạn ấy quay lại: “Xin lỗi, cái này của bạn? Tôi uống rồi.” Ly trà sữa này là vô thường, lúc đó bạn ấy cảm thấy khó chịu, không vui trong lòng, cảm thấy phẩm chất của người này v.v… Hết thảy tất cả mọi cảm xúc, lúc này cảm nhận của bạn ấy là gì? Đó là một loại cảm giác trong tâm. Và Đức Phật để cho chúng ta hiểu rằng loại cảm giác này, hay bất kỳ nỗi đau nào trong tâm cũng chỉ là một loại cảm giác mà thôi, nếu ta cảm thấy đau khổ thì sẽ đau khổ. Tương tự cùng là sự việc như vậy, hôm nay có một đồng nghiệp uống hết ly trà sữa này, bạn ấy cảm thấy rất tốt: “Tôi đang làm công đức, uống thì cũng đã uống rồi, cậu ấy cần uống thì tôi đi mua thêm ly khác không phải ổn rồi sao?” Cảm giác đau khổ trong lòng bạn ấy chẳng phải sẽ biến mất rồi sao? Và nghĩ: “Chúng ta đều là những người học Phật, cậu ấy uống càng tốt, cậu ấy làm công đức lớn, vừa rồi cậu ta cũng rất bận rộn.” Nếu có loại tâm này, cảm giác khổ đau trong lòng sẽ không còn nữa. Vì vậy, con người sống trong một loại cảm giác nội tâm, đau đớn, hạnh phúc và hy vọng đều là một loại cảm giác. Đức Phật nói với chúng ta rằng: cái “tôi” đau khổ này không phải là cái “tôi” thực sự. Đó là cái “tôi” đau khổ của ngày hôm nay, không phải cái “tôi” của chính mình, không phải cái “tôi” đích thực, nó chỉ là một loại cảm giác, chỉ là suy nghĩ bị mắc kẹt trong cảm giác đau đớn của nội tâm. Nếu quý vị hiểu thông rồi, cảm giác này sẽ biến mất, nếu quý vị hiểu không thông, cảm giác này sẽ luôn ở trong tâm quý vị. Vì vậy, không nên để tư tưởng của quý vị dừng lại ở cái “tôi” đau đớn trong tâm. Thầy hỏi quý vị một câu, khi quý vị đau khổ, có phải là “tôi rất đau khổ” không? Khi hạnh phúc, có phải là “tôi rất hạnh phúc” không? Tất cả đều là một chữ “tôi”. Vậy thì hãy giữ lòng mình trong cái “tôi” của hạnh phúc và tìm kiếm cảm giác hạnh phúc đó, chứ không phải giữ trong lòng mình trong cái “tôi” của đau khổ. Đây chính là “triết học quan” mà Đức Phật đã dạy, đây là chân lý, hoàn toàn có thể tự chuyển đổi được. 

Vì vậy, trong thế giới này, chúng ta không nên chấp trước vào bất kỳ những thay đổi bên ngoài nào. Đã thay đổi rồi! Vậy thì phải làm sao đây? Thay đổi và đau khổ, đó cũng là một loại cảm giác, sự thay đổi của ngoại vật khiến quý vị phấn khích và hạnh phúc, đó cũng là một loại cảm giác và cũng sẽ sớm qua đi. Vì vậy hy vọng mọi người phải hiểu rằng, không chấp trước bởi sự thay đổi của những thứ bên ngoài, mà còn bao gồm cả những cảm xúc bên trong. Những cảm xúc bên trong-Hạnh phúc và đau khổ, cũng là giả tạo và cũng sẽ sớm qua đi. Buổi sáng rất đau khổ, buổi chiều không đau khổ nữa, buổi chiều vui vẻ một chút, đêm lại đau khổ; sáng rất hạnh phúc, chiều đau khổ, đến tối lại không đau khổ nữa, đây chính là vô thường. Do đó, Bồ Tát bảo chúng ta kiểm soát cảm xúc bên trong của mình và nhận ra rằng nó là giả, không phải là cái “tôi” thực sự, mà là một cái tôi giả tạo. Ví dụ như vừa mới nổi nóng phát cáu đây, thật ra người đang nổi nóng phát cáu là một cái tôi giả, bởi vì cái tôi thật là có tu dưỡng và không dễ nổi nóng, bởi vì cái tôi giả vừa rồi trên người có linh khí (vong linh) hoặc loại trường khí xấu làm ảnh hưởng đến quý vị, khiến quý vị nổi nóng phát cáu, đây là cái tôi giả. Cái “Tôi” đích thực là một người rất có tu dưỡng, một người có thể giải quyết vấn đề. Đức Phật dạy chúng ta chỉ có suy nghĩ như vậy mới có thể giải thoát. Hãy nghĩ xem, Đức Phật vĩ đại của chúng ta giảng dạy giáo lý Phật pháp cách đây 2500 năm có thể giải quyết những vấn đề mà bây giờ chúng ta chưa giải quyết được, dùng trí tuệ của Phật để giải quyết những đau khổ và phiền não nảy sinh trong thân tâm chúng ta, đây chính là điều vĩ đại! 

Đức Phật nói rằng tất cả chúng ta đều lo lắng về sinh, lão, bệnh, tử và sợ “chết rồi thì phải làm sao? Bệnh rồi thì phải làm sao? Sau này cuối đời không ai chăm sóc thì làm sao?” Tất cả mọi thứ đều đang ở trong sự lo âu, tôi đang bi thương, tôi đang đau khổ, tôi đang trong phiền não. Đức Phật bằng cách nào để dạy chúng ta nhận thức được những vấn đề này? Đức Phật nói: Vì cứ nghĩ rằng bản thân thật sự đang chịu đựng sự đau khổ cho nên mới không thể giải thoát được. Đức Phật nói với chúng ta: Tôi cho rằng những điều “sinh lão bệnh tử sau này và hiện giờ tôi rất đau khổ, rất phiền muộn, rất bi thương” và nghĩ rằng “đây là tôi đích thực, tôi đang thực sự gánh chịu đau khổ”, cho nên không thể giải thoát được. Trên thực tế, đối với những người muốn được giải thoát, thì nên hiểu rằng hiện tại hết thảy mọi khổ đau chỉ là tạm thời, và nó sẽ thay đổi, bởi vì nó là vô thường. Người nào mà không có đau khổ, người nào mà không có phiền não? Tại sao người khác có thể vượt qua được? Bởi vì họ nhìn thấy tương lai, họ nhìn thấy tiền đồ, họ thấy rằng mọi thứ sẽ thay đổi trong tương lai, và đây chính là phương pháp giải thoát. Không nghĩ rằng mình đang chịu khổ, đó là một cái tôi giả, không phải là cái tôi thật sự. Giống như nhiều người vẫn nói, khổ bây giờ để sau này hưởng. Nhiều bà mẹ nuôi con từ nhỏ, chỉ mong con cái sau này hiếu thảo, cho nên hiện tại khi con cái còn nhỏ họ chịu đựng vất vả và điều không ngờ rằng sau khi đứa trẻ lớn lên biết hiếu thuận và đối xử tốt với mẹ, đây là một loại chuyển hoá tâm linh. Vì vậy, khi bản thân người mẹ chịu đau khổ nhưng lại không cảm thấy rằng mình đang chịu khổ, bởi vì đây chính là một cái tôi giả tạo. 

Đức Phật nói với chúng ta rằng người vô ngã, tức là con người trên thế gian này, vì mọi thứ đều đang biến hoá nên là vô thường, nên không có “tự ngã”. Hôm nay quý vị tên là gì, ngày mai quý vị lại đổi một cái tên khác, vậy thì con người này trước đây của quý vị có còn không? Hôm nay có một bạn nhỏ tên là Lý XX, đột nhiên bạn ấy nói với quý vị rằng bạn ấy đã đổi tên. Mọi người đều gọi bạn ấy bằng cái tên này. Vậy trong quá khứ, Lý XX không phải đã biến mất rồi sao? Bây giờ được gọi là Lý “YY” điều này có nghĩa là gì? Tức là vô ngã, kể cả cái tên cũng là giả. Trước đây tên gọi là gì, bây giờ tên gọi là gì, người ta có thể nghĩ: “Người này là ai? Ồ! Chính là cậu ấy!” Đó là vô thường. Con người rất tội nghiệp, mọi thứ đều vô thường. Hãy nhớ rằng, trên thế gian này không có gì là tồn tại mãi mãi. Sự nghiệp kinh doanh tốt rồi thì đến lúc nào đó cũng sẽ trở nên không tốt và khi không tốt rồi nhưng đến lúc nào đó sẽ tốt lại, con người khi cái khổ qua rồi thì sẽ sướng nhưng cái sướng qua rồi thì phải bị khổ trở lại. Đức Phật cho chúng ta hiểu rằng không có cái “tôi” vĩnh cửu. Tôi hỏi quý vị, tính cách của quý vị khi còn bé và bây giờ khi lớn lên có giống nhau không? Không giống nhau. Vĩnh cửu không? Không vĩnh cữu. Khi còn nhỏ rất hào phóng, nhưng tại sao càng lớn lên lại càng keo kiệt? Lúc nhỏ rất ích kỷ, vì một món đồ chơi đã cãi vã qua lại, làm ầm ĩ với người trong nhà, tại sao khi lớn lên lại trở nên hào phóng như vậy? Không có cái “tôi” vĩnh cửu, quý vị đã thay đổi. Lúc nhỏ xấu xí, nhưng càng lớn lên càng đẹp. Cho nên người ta mới nói, “nữ đại thập bát biến” (chỉ quá trình trưởng thành của con gái có rất nhiều biến đổi) càng thay đổi càng đẹp, đạo lý là như vậy. Con người cũng vậy, nếu lương tâm quý vị đi theo con đường đúng đắn thì càng đi càng tốt, nếu quý vị đi theo con đường xấu xa thì càng đi càng tồi tệ và số phận của quý vị ngày càng tồi tệ hơn. Tất cả đều do bản thân quý vị chọn lựa. 

Đức Phật cho chúng ta biết rằng, không có cái tôi tồn tại mãi mãi, cũng không có thứ gì mà chúng ta có thể sở hữu được. Mọi người phải nhớ lời Đức Phật dạy: không có thứ gì chúng ta có thể sỡ hữu được. Thử nghĩ xem, chúng ta sở hữu những gì? Khi quý vị rời khỏi cõi đời này, quý vị sở hữu được những gì? Mọi thứ đều là của người khác, xe cộ, nhà cửa, kể cả người vợ, người chồng, khi quý vị rời cõi đời này, người vợ (chồng) có thể cưới (gả) người khác. Nhiều năm sau khi chúng ta qua đời, con cháu của chúng ta có thể đã quên chúng ta từ lâu, và thậm chí không biết chúng ta được chôn cất ở nghĩa trang nào. Đây là điều mà Đức Phật đã nói với chúng ta cách đây 2500 năm, để cho chúng ta biết rằng trên đời này không có gì mà chúng ta có được mãi mãi, tất cả đều là vô thường. 

Vì vậy, người học Phật nên vô ngã để thoát khỏi bởi những biến đổi của ngoại cảnh, cho dù người khác có thay đổi như thế nào, quý vị vẫn là cái “tôi” nguyên thủy, bởi vì chúng ta biết rằng thế giới luôn biến đổi liên tục. Thầy tin rằng xung quanh quý vị có rất nhiều bạn bè và những người học Phật thường thay đi đổi lại, đã nói với quý vị rằng “Sáng mai chúng ta sẽ đi mua sắm lúc 11 giờ”, một lúc sau “11:30 được không?” Thêm một lúc nữa “Đi không được 2:30 được không?” Một lúc sau nữa, không dễ để đợi đến 2:30, “Thật xin lỗi, hôm nay tôi bận quá, không có thời gian, thật xin lỗi, ngày mai được không?” Vô thường không? Biến hoá không? Nói xong đâu đó rồi, một lát thay đổi, một lát thay đổi và quý vị rất tin tưởng bạn ấy. Bởi vì quý vị chưa bao giờ biết những gì Đức Phật nói về vô thường, nên quý vị sẽ cảm thấy đau khổ “Ôi, con người này biến đổi lúc này lúc khác”. Nếu quý vị giống như sư phụ, sự phụ biết rằng mọi thứ đều có thể thay đổi, nên nhiều người đã hẹn với sư phụ, một lát thay đổi, một lát thay đổi, thầy nghĩ đó là điều bình thường, bởi vì thế giới này vốn là vô thường và mọi thứ đều thay đổi. Có gì bình thường đâu, mọi thứ đều vô thường, có như thế quý vị mới không làm tổn thương chính mình. Vì vậy, bất kể thế giới bên ngoài thay đổi như thế nào đi chăng nữa, chúng ta như như bất động, và bản thân vẫn không thay đổi. 

Cần có nhận thức mới về thời – không (thời gian và không gian). Nhận thức mới là gì? Nhân sinh là như vậy. Quý vị thấy đấy, dữ liệu đang thay đổi mỗi ngày. Hôm nay có bao nhiêu người và ngày mai sẽ có bao nhiêu người? Có phải là thời gian và không gian đều đang thay đổi không? Hôm nay như thế này? Ngày mai như thế kia, hôm nay không biết được chuyện của ngày mai, bởi vì vô thường. Nếu không chuẩn bị tinh thần, quý vị có thể bị vô thường lừa dối và phiền não. Khi (Hắc Bạch) vô thường của địa phủ đến kéo đi, vì sao gọi là “vô thường”? điều đó nói cho quý vị biết rằng những gì quý vị làm trong nhân gian, dù tốt hay xấu, đều tiêu biểu cho việc quý vị có thể trường trụ hay đoản trụ (sống lâu hay ngắn ngủi), tọa được lâu hơn ở nhân gian này hay không, nhưng sống làm sao? Cuối cùng xin tặng cho quý vị hai chữ – vô thường. “Chỉ cần ta – hắc bạch – vô thường đến thì các ngươi phải ra đi”, vì vậy, có gì để mà tranh giành, cướp giật, làm loạn đâu? Có lời gì mà không thể giải thích được? Có chuyện gì mà không thể nghĩ thông được? Đây chính là Phật pháp, khiến chúng ta hiểu rõ, đối với thời-không cần có nhận thức mới. 

Sinh, lão, bệnh, tử chỉ là một quá trình ngắn ngủi, chỉ là một quá trình, nếu quý vị không dính mắc vào những thứ này, thoát ly những thứ này, thì sẽ thoát khỏi tiểu ngã, và tác thành đại ngã. “Ôi, cuộc đời trôi qua thật nhanh. Trong chớp mắt, đã mấy chục năm rồi. Chà, tôi đã bốn mươi rồi!” “Ôi, sắp năm mươi tuổi rồi!” Đã có tuổi rồi con lăn xả làm gì nữa? Tuỳ duyên thôi! Có thể làm nhiều việc vì người khác hơn, vui vẻ hơn, kiếm nhiều hơn nếu có thể kiếm được và kiếm ít hơn nếu không thể, vui nhiều hơn nếu có thể vui và vui ít hơn nếu không thể; Vạn vật đều vô thường, nếu hôm nay quý vị không vui, hai ngày nữa quý vị lại vui trở lại. Nếu hôm nay quý vị rất vui, có thể tối nay quý vị sẽ buồn. Bởi vì có người thấy quý vị vui thì họ khó chịu, nên nói với quý vị vài câu, rồi quý vị sẽ không vui ngay. Đây là sự xuất hiện của vô thường, và nó cực kỳ nhanh chóng. 

Cảm ơn đại chúng. 

Tập 9
KHÔNG ĐỂ ÁC DUYÊN CHÍN MUỒI LÀ TRÍ TUỆ

(07/03/2020)

Chúng ta phải hiểu những đạo lý này: đừng chấp trước vào tiểu ngã và đừng bị mắc kẹt trong những suy nghĩ về sự sống và cái chết. Khi đã nghĩ thấu, thì dù thế nào cũng phải sinh ra, dù thế nào thì sống trên đời cũng phải chịu đựng, khi chịu đựng xong, thì dù thế nào cũng phải ra đi. Có muốn đi không? Không có cách nào, đã biết những thứ này là tồn tại, là vô thường, hãy chấp nhận nó và nổ lực sử dụng sinh mệnh của chính mình để sáng tác một bài thánh ca đẹp về cuộc sống cứu độ chúng sinh và học Phật học pháp. Chỉ khi hiểu rõ, ta mới có thể chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Vô thượng chánh đẳng chánh giác). Khi trí tuệ phát ra, biết vô thường và hiểu nhân quả, ta sẽ thoát khỏi vô thường và rời khỏi nhân quả. Đây là những gì sư phụ muốn nói với quý vị, hy vọng quý vị phải hiểu. Người học Phật phải “lệnh kỳ tín Phật”. Sau khi chúng ta học Phật, thì chúng ta phải làm cho người nhà và những người xung quanh cũng tin vào Phật pháp. Nhiều bà mẹ rất lợi hại, tự mình học Phật trước, sau đó làm cho con cái học Phật theo, người chồng cũng học Phật, hàng xóm cũng cùng học Phật. Loại người này rất lợi hại, cô ấy không chỉ tự mình học Phật mà còn”lệnh kỳ tín Phật” – làm cho người khác tín Phật, công đức rất lớn. 

Chúng ta làm sao để giải thoát cho bản thân mình đây? Con người chúng ta trước hết là luôn có tham muốn nên mới đến cầu xin, trước khi học Phật thì đi chùa, không phải để học Phật thật sự, mà để lễ bái Phật, xin Phật, nhưng không phải để học Phật. Lễ bái, cầu xin Bồ Tát, thắp hương xong là bỏ đi, đây gọi là tín Phật sao? Nếu như thật sự học Phật thì chính xác đó là học. Lúc đầu, con người luôn có dục vọng mới bắt đầu đến chùa để tiếp xúc với Phật pháp, để học Phật, sau khi dần dần học Phật, mới biết: “Thì ra, lễ bái Phật cũng cần phải học”, học tinh thần của Đức Phật, học lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, học đại nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát, v.v… sẽ khiến chúng ta “tiến nhập Phật trí” – bước vào trí tuệ của Đức Phật. Giống như rất nhiều đệ tử bây giờ, sư phụ đã dẫn dắt quý vị tiến vào Phật trí, quý vị đã có trí tuệ của Phật, quý vị khá lắm. Theo như trước đây mà nói đó là làm cho quý vị “tiến nhập Phật trí” – bước vào trí tuệ của Đức Phật, có khả năng có thể chứng đắc được một số sơ quả. Khai ngộ là điều quan trọng nhất, bởi vì nghiệp chướng của chúng ta rất nặng nề, có dục vọng mới có phiền não. Người không có dục vọng thì làm sao phiền não đến được, chỉ có người có dục vọng nên mới có truy cầu. Một người khi đến cầu nguyện Bồ Tát là bởi vì họ có dục vọng “Con mong gia đình an khang, con cái con học giỏi”, “Mong chuyện này của con sẽ thành công”, “Mong con cái thi cử đỗ đạt”, v.v. khi có dục vọng mới đi cầu xin, có điều là mong cầu thì dần dần sẽ có nhân duyên. Nếu hôm nay quý vị cầu xin thì có phải quý vị đã gieo nhân lành không? Nhân này đã có, vậy thì Bồ Tát sẽ phù hộ cho quý vị, Bồ Tát nhìn thấy “Rất thành kính, con đã phát nguyện và con đang thực hiện lời hứa của mình”. Bồ Tát sẽ cho quý vị quả này, quả thiện ở đây chính là cho quý vị được thành công, đó là quả thiện thành công, nhân duyên của chúng ta cụ túc (đầy đủ) thì sẽ có Phật duyên, hôm nay nhân duyên của chúng ta cụ túc cầu Phật, lễ Phật, tụng kinh, phát nguyện, phóng sinh, khi nhân duyên cụ túc thì Phật duyên sẽ đến, sau khi nhân duyên của Phật Bồ Tát theo quý vị, điều mà quý vị cầu, ban đầu là vì mình mà cầu. Người học Phật chúng ta ban đầu ai cũng đều cầu xin cho bản thân mình, khi quỳ xuống thì: “Bồ Tát, phù hộ cho con thân thể khỏe mạnh, phù hộ gia đình con an khang, phù hộ con.v.v…” Đều là cầu cho bản thân mình, dần dần cảnh giới cao hơn, nghĩ đến lời sư phụ giảng, thông thường cầu 3 việc lớn, còn cầu thêm những việc nhỏ khác có thể không linh lắm, tiếp đó 3 việc lớn thì cầu xin cho bản thân 2 điều, giữ lại 1 điều cầu xin cho người nhà, dần dần bắt đầu cầu xin cho người nhà, đây đều thuộc về “tiểu ngã”; cầu đến cuối cùng thì vì chúng sinh mà cầu, người mà vì tất cả chúng sinh là đã bước vào “đại ngã”, tức là có trí tuệ. Chư Phật Bồ Tát rất từ bi, Bồ Tát để cho chúng ta có một quá trình khai ngộ, trước cầu vì mình, sau mới cầu vì chúng sinh, đây gọi là từ bi. 

Chư Phật, Bồ Tát không muốn tất cả chúng sinh chịu mọi quả báo. Bồ Tát sẽ không để chúng ta chịu mọi khổ cực, Bồ Tát luôn nghĩ cách cứu độ chúng ta, luôn mong có thể làm cho chúng ta thay đổi để chúng ta không phải chịu quả báo này. Bồ Tát làm thế nào để giúp chúng ta ngăn chặn cái “quả” này đây? Chắc chắn là quý vị rất muốn nghe. Không phải chư Bồ Tát không cho cái “quả” này đến, mà chính quý vị phải biết lỗi của mình và học cách sám hối, mới có khả năng không để cho cái “quả” này chín muồi. Hôm nay sư phụ tiết lộ một thiên cơ cho quý vị nghe. Tại sao có người bị quả báo ngay lập tức? Người ta nói “quả báo đến ngay lập tức”, nhưng tại sao có một số người bị quả báo đến muộn? Đây chính là, khi quý vị làm một điều sai trái và nhận ra lỗi lầm của mình, quỳ xuống trước Bồ Tát để sám hối, nhân duyên ác này sẽ từ từ chín muồi – không phải một lúc chín muồi mà là từ từ. Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo để cho chúng ta biết lỗi lầm khuyết điểm của mình mà sám hối những ác hành và ác niệm: Dùng cách thức phương tiện thiện xảo để cho tất cả chúng sinh không làm điều ác, không làm tổn hại đến người khác. Nếu như quý vị lỡ làm tổn hại người khác thì phải sám hối ngay lập tức, đừng để ác quả này chín muồi: Con sẽ không bao giờ làm điều ác này nữa, mặc dù ác quả này vẫn còn nhưng chỉ cần nó chưa trưởng thành thì sẽ không bị quả báo. Nếu hôm nay quý vị không sám hối tội ác này mà còn tiếp tục làm điều ác, thì ác nghiệp sẽ sớm bị báo ứng, các hành vi ác sẽ sớm chín muồi và sẽ chịu quả báo. 

Vì lẽ đó Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả. Bồ Tát làm việc gì cũng luôn nghĩ đến hậu quả, “Việc này không thể làm, nếu làm sau này sẽ có quả báo thì sao?” Bồ Tát sợ nhân. Còn chúng sinh thì sao? “Việc này có lợi thì hãy nhanh làm trước.” sau khi làm xong thì sau đó quả báo đến: “Làm sao bây giờ? Than ôi…” Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả, nên chúng sinh thì không có được trí tuệ. 

Bồ Tát sẽ không bao giờ vì điều ác nhỏ mà đi phạm sai. Một chuyện xấu rất nhỏ nhặt, cho dù chuyện rất nhỏ Bồ Tát cũng không bao giờ phạm, không vì ác nhỏ mà làm, Bồ Tát sẽ không bao giờ làm điều đó. Bồ Tát cũng sẽ không vì việc thiện này nhỏ mà không làm – “Việc thiện này chỉ có một chút.” “Đây không phải là công đức lớn, tôi sẽ không làm. Cũng giống như quý vị, “Tôi không lau sàn nhà, tôi dập đầu quỳ lạy hoặc là thay hoa quả, tôi làm là phải làm công đức lớn, tôi phải đến Pháp hội để làm công quả lớn” – không phải như thế. Quý vị có biết công đức do đâu mà có không? Công đức là do tích lũy mà có: giúp chúng sinh mở cửa, lấy ghế ngồi, ghi lại 0,2%; giúp người khác bưng bát cơm, nấu một món ăn, ghi lại 0,5%; giúp đỡ người khác lấy một món đồ; Khi người khác nghĩ không thông thì động viên họ: “Đừng có nghĩ không thông, lại đây mình cùng đọc Bạch Thoại Phật Pháp. Tôi cũng đang nghĩ không thông, chúng ta cùng nhau đọc”. Có một số Phật hữu khi người khác nghĩ không thông, bạn ấy nói: “Tôi cũng nghĩ không thông, đến đây, chúng ta cùng nhau học” thật ra không phải bạn ấy nghĩ không thông, mà bạn ấy muốn cùng học với Phật hữu, sau khi học đối phương còn đến giúp đỡ bạn ấy và cuối cùng còn đến nói chuyện với bạn ấy. Bạn ấy dùng phương pháp vi diệu này làm cho người bạn Phật tử nghĩ thông, Phật hữu còn quay ngược lại khuyên bạn ấy, nghĩ xem có phải người bạn Phật tử ấy đã nghĩ thông rồi không? Đây là diệu pháp, một người Phật tử như vậy là đã có được trí tuệ của Bồ Tát, diệu hữu, trí tuệ thuộc về “diệu”. Tích lũy thêm nhiều theo thời gian thì được công đức lớn, công đức vô lượng. Vì vậy, không vì một việc ác nhỏ mà sai phạm, không nên vì một việc thiện nhỏ mà không làm, tất cả đều phải làm. 

Chúng sinh vì không hiểu nhân quả cho nên mới thường phạm ác. Hôm nay mắng người, nói xấu người khác, đối xử tệ bạc với người khác, nhìn người bằng nửa con mắt, đều sẽ phạm ác nghiệp, tổn hại người khác. Khi phạm ác nghiệp và chờ đợi quả báo nhãn tiền, rất nhiều chúng sinh sẽ sợ hãi và đau khổ. Thử nghĩ xem, bao nhiêu năm qua, mỗi ngày bắt nạt người một chút, mỗi ngày ức hiếp người một chút, ức hiếp đến cuối cùng người ta rời khỏi mình đi, quý vị có đau khổ không?  Đau khổ đó có phải là điều mà quý vị tích lũy mỗi ngày không? Ở Úc đã từng phát sinh qua chuyện 2 cụ già hàng xóm 1 người 74 tuổi và 78 tuổi cãi nhau là vì cái hàng rào trước cửa, hôm nay cụ này đẩy qua một chút, mai cụ kia đẩy lại một chút, tiếp đó cụ này lại đẩy qua… Điều ác này tích tụ quanh năm suốt tháng, cuối cùng một ngày nọ, giữa hai người xảy ra một cuộc cãi vã lớn. Cụ già này cầm xẻng đánh chết cụ già kia. Nghĩ xem đây là do một ngày dẫn đến sao? Vì vậy tốt và thiện là do tích lũy lâu dài; ác và hung cũng là do tích lũy lâu dài. Đừng động tí là làm điều ác với người khác, và đừng làm tổn thương người khác. Đã sợ đau khổ thì đừng gieo bất cứ nhân nào làm tổn thương họ. Cho nên có đôi khi chúng ta bị người khác làm tổn thương, còn nói là: “Tôi cạn lời rồi! Tôi hỏi ông trời, tại sao? Tại sao?” Sư phụ sẽ cộng thêm cho quý vị vài chữ: “Tại sao tôi phải gieo nhân?” Thêm vào hai chữ – “gieo nhân”. Nếu không gieo nhân thì làm gì mà hỏi trời tại sao? Chính tự mình gieo nhân nên mới có quả báo này. Bệnh mà bác sĩ không chữa được chẳng lẽ đều là vấn đề ở bác sĩ sao? Người này bị ung thư gan, là do uống rượu mà ra, bác sĩ nói: “Bây giờ tôi mổ cho cậu, phát thuốc cho cậu, giúp cậu điều trị. Cậu tuyệt đối không được uống rượu nữa, không được uống thêm nữa!” Cậu ấy nhịn không được, lại uống tiếp, lại có chuyển biến xấu, lại tái khám, sau khi khám lại tiếp tục có chuyển biến xấu, cuối cùng tử vong. Nghĩ xem bệnh của người này trị không được là lỗi của bác sĩ, hay bản thân cậu ta không phối hợp? 

Hôm nay sư phụ dạy quý vị học Phật, bảo quý vị làm người tốt, thầy hết lòng nói với quý vị, nhưng quý vị không vượt qua được tham, sân, si, mạn, nghi của bản thân mình: “Tôi keo kiệt, tôi nghĩ không thông, tôi thì cố chấp vậy đó…”, nói xem thầy làm sao có thể cứu được quý vị đây? Quý vị có thể trách sư phụ sao? Cho nên tổn hại thân thể do mình, tổn hại tâm linh cũng do mình. Con người còn có một vấn đề nữa là, một khi xui xẻo xảy ra, thường nghĩ: “Tại sao lại là mình? Tại sao mình lại bị quả báo này?” Khi bị đau khổ dằn vặt, quý vị nên nghĩ nhiều hơn về kiếp trước và kiếp này của mình, kiếp trước mình đã làm bao nhiêu việc thiện, kiếp này mình đã làm bao nhiêu việc thiện, quý vị sẽ hiểu tại sao mình lại bị quả báo này. Bởi vì quý vị đã từng phạm rất nhiều nghiệt tội và những nghiệt tội này đã hình thành một điểm nghiệp chướng, điểm nghiệp chướng này giống như thuốc súng, một ngày nào đó sẽ nổ tung. 

Phải tự chủ sinh tử, tự chủ nhân sinh, phải khai ngộ và giải thoát. Đó là cẩn thận trong lời nói, suy nghĩ và hành vi của chính mình, không gieo nhân, “Tôi không thể gieo nhân nữa.” Cãi nhau một lần với người khác, gieo một nhân; cãi nhau hai lần, với hàng xóm gieo một nhân; cãi nhau ba lần gieo một nhân ác; năm, sáu, bảy, tám, chín, mười lần gieo trồng ác duyên. Và những mối ác duyên này không thể ngày một ngày hai mà tiêu trừ được, cuối cùng một ngày nào đó sẽ bùng phát. Khi quý vị tiếp nhận quả báo, đó là lúc đau đớn tột cùng. Vì vậy, làm người ai thật sự muốn siêu thoát, giải thoát thì không nên làm những việc hại người lợi mình. Quý vị phải thường xuyên làm việc giúp đỡ người khác, đôi khi vì một chút tiền tài, một chút danh lợi. Có thể từ bỏ thì từ bỏ, nếu có thể thờ ơ thì đừng quan tâm, nếu có thể nhường thì nhường, đây là bảo vệ Huệ mạng của chính mình, đây chính là đang gieo nhân lành. 

Tập 10
TIÊU TRỪ NHÂN TỐ CỦA DỤC VỌNG

(07/03/2020)

Con người chúng ta khi gặp chuyện, thông thường câu đầu tiên hay nói đối phương không tốt, phỉ báng người ta, khi làm điều gì đó luôn nói “Cậu không tốt”, để người nhường cho mình, mà không bao giờ biết mình nên nhường cho người. Hãy nhớ rằng, nếu ta thường để cho người khác nhường mình, sẽ dần dần trở nên thiên chấp, chấp trước và lâu dần ta sẽ đánh mất tâm Phật, khi đánh mất tâm Phật thì dần dần ta sẽ không tu tâm và không học Phật nữa.   

Sư phụ để quý vị hiểu rằng, nhân ác gieo xuống khó mà hồi vãn lại được, bởi vì chúng ta đang gieo cái ác từng giờ từng khắc từng phút. Quý vị nói: “Tôi xúc phạm cậu ấy rồi sao?” Người thường hay nói câu nói này “Tôi xúc phạm cậu ấy rồi sao? Tôi thực sự không biết tại sao tôi lại xúc phạm cậu ấy? Tại sao cậu ấy lại đối xử tệ bạc với tôi?” Vừa rồi quý vị không trao cho người đó một nụ cười, vừa rồi quý vị nói chuyện thật khó nghe, vừa rồi quý vị nói chuyện chỉ chuyên tâm nói với người này, không để ý đến người đang nghe bên cạnh, người nói vô tình, người nghe hữu ý. Họ ghi nhớ quý vị đang ngầm chế giễu họ và gieo rắc một ác nhân xấu, tất cả những điều đó quý vị đều không biết. Giống như vợ chồng hai người cãi nhau, sau khi cãi cả buổi thì nói: “Sao hôm nay anh lại cãi nhau với tôi?” “Ai bảo anh nói câu này?” “Tôi nói hồi nào?” “Anh nói mà còn không thừa nhận sao? Anh nói mà vẫn không biết à!” “Tôi nói hồi nào?” Loại nhân này đều do sự vô tri mới gieo trồng nó, đã gieo rất nhiều nhân và ác nhân sẽ ảnh hưởng đến tương lai và sự nghiệp. 

Đó là lý do tại sao sư phụ thường nói rằng kẻ thù lớn nhất của con người là chính mình, sửa đổi những tật xấu đó là chiến thắng chính mình. Con người có muôn vàn nỗi khổ, chỉ có học cách sửa đổi những tật xấu và vượt qua chính mình thì mới có thể vượt qua mọi đau khổ trên nhân gian. Sư phụ ở đây không bảo quý vị chiến thắng người khác, mà là chiến thắng chính mình và mọi đau khổ trên nhân gian. Vì nếu vượt qua được chính mình thì sẽ không phiền não, không khổ đau, đó là quý vị phải vượt qua những đau khổ mà quý vị phải gánh chịu, chứ không phải chịu đựng. Lấy một ví dụ đơn giản, khi người khác mắng quý vị, thường thì bị người ta mắng, quý vị sẽ luôn tức giận đúng không? Chuyện bình thường và sẽ tức giận đúng không? Vượt qua chính mình là, “Tôi không thể tức giận, giận rồi sinh bệnh không ai thế. Dù cậu ta có phỉ báng tôi như thế nào, tôi không phải như vậy, không sao đâu”, thì đã chiến thắng chính mình, tiếp theo đó sẽ không phiền muộn và đau khổ nữa phải không? Bằng không quý vị sẽ rất đau khổ và khó chịu. 

Do đó, sư phụ nói cho quý vị biết rằng đau khổ và hạnh phúc đến như thế nào. Đau khổ và hạnh phúc là những cảm giác và cảm xúc của tâm trí. Đau khổ là một loại cảm giác, và hạnh phúc cũng là một loại cảm nhận. “Thật hạnh phúc!” Cười lên, cảm nhận đúng không? Sau khi cười rồi thì còn nữa không? “Vừa rồi tôi cười rất vui”, có bao nhiêu người còn nhớ sau khi cười? Trong cuộc sống của chúng ta có nhiều điều rất hài hước, nghĩ đến là cười, nhưng ta có luôn giữ nó trong tâm mình không? Cười qua rồi, không còn nữa, đó là một loại cảm giác và cảm nhận. Khi còn trẻ chúng ta chưa từng trải qua hạnh phúc sao? Khi còn trẻ chúng ta chưa từng trải qua đau khổ sao? Hiện tại chính là một loại cảm nhận, loại cảm nhận này rất sâu sắc. Ví dụ, nếu ta cảm thấy đau đớn vô cùng và không thể thoát ra được, đó là đang bị trầm cảm; nếu ta cảm thấy hạnh phúc vô cùng, đó chính là Đức Phật Di Lặc. 

Cho nên sư phụ mới nói với quý vị rằng, cảm nhận của lòng người, có đôi khi không biết tâm mình ở phương nào, vì tâm là cội nguồn của khổ đau và hạnh phúc. 

Hôm nay chúng ta hạnh phúc và nói: “Tôi muốn hạnh phúc, thì tôi sẽ hạnh phúc”, hạnh phúc rồi. “Tôi không vui!” Người khác nói: “Quên đi, vui vẻ lên! Nào, chúng ta cùng đi chơi thôi!” “Không đi đâu!” “Đi ra ngoài chơi vui một chút đi.” “Tôi vẫn không vui à!” Quý vị có không? Hồi nhỏ có không? Bây giờ có không? Hồi nhỏ có ngu si không? Bây giờ có ngu xuẩn không? Hay đổi thang mà không đổi thuốc. 

Đó là lý do tại sao sư phụ bảo quý vị nên hiểu rằng, phải nhìn thấy, cảm nhận được và kiểm soát tốt các thụ thể cảm giác vô hình trong tâm mình. Ngay khi không vui, lập tức thụ thể cảm giác sẽ bắt đầu cảm ứng: “Không vui rồi, hãy nhanh thay đổi! Thay đổi! Thay đổi! Vui lên! Vui lên! Vui lên!” Một khi cảm thấy mình quá vui rồi thì: “Cẩn thận! Cẩn thận! Cẩn thận!” Tật xấu của con người là: không vui cũng không cảm nhận được, mắng mỏ, trút giận, muốn trút bầu tâm sự khi chán nản trong lòng, sao cũng được, cơn giận nổi lên tựa như nước đã hất ra bắn tung toé lên tất cả mọi người để trút cơn giận; khi vui, hoan lạc, đùa cợt, nhưng sau đó mất kiểm soát thì chuyện lớn xảy ra… Bồ Tát cho chúng ta biết rằng tất cả những điều này là một loại vô hình của thụ thể cảm giác. Bởi vì mỗi ngày trên nhân gian, con người chúng ta bị ràng buộc chặt chẽ bởi sự bất lực. Bất lực! Có cách nào không? Quý vị hãy nói xem, bây giờ thiên tai nhiều như vậy, con người có cách gì? Bất lực, đúng không? 

Bị nỗi cô đơn trói buộc sâu sắc, nghĩ xem con người có cô đơn không? Một người ở nhà có cô đơn không? Tự mình vẫn phải nấu nướng, bản thân vẫn phải chịu cực khổ, tự mình vẫn không thể hiểu thông, không có ai để nói chuyện cùng, cô đơn đúng không? Mọi hiện thực luôn rất phũ phàng và vô vọng. Hãy nhìn vào thực tế hiện tại, có khiến ta cảm thấy rất tàn nhẫn không? Thực tế hiện thực mà mỗi người chúng ta đã trải qua có phải khiến chúng ta cảm thấy rất tàn nhẫn và vô tình? “Làm sao có thể? Tại sao có nhiều người? Tại sao lại có nhiều khổ đau như vậy?” Nhiều người đau khổ, đã nghe nói qua chưa? Chưa từng nghe qua. “Sao lại đáng thương như vậy?” Vô vọng phải không? Chính là thế đấy. Đó là lý do tại sao con người rất bất lực. 

Con người đến cõi đời này dạo một vòng. Rốt cuộc mong muốn có được điều gì? Tại sao lại phải chịu đựng nhiều như vậy, chúng ta phải chịu đựng: “Biết bao đau khổ, biết bao tủi thân, biết bao phiền muộn, biết bao cô đơn”, vì đây chính là con người cho nên phải mang nhiều gánh nặng. Hạnh phúc ở đâu? Đau khổ ở đâu? Khi nhắm mắt xuôi tay thì khổ lại ở đâu? Hạnh phúc lại ở đâu nữa? Tự tâm minh bạch (trong lòng mình hiểu rõ nhất). Tất cả đều là giả, đều là vô thường, chỉ là trong lòng không còn loại thụ thể cảm giác, không còn nữa, trong lòng không có cảm giác nữa và khi một người sắp ra đi thì trong lòng không còn thụ thể cảm giác nữa. Chỉ khi ta giác ngộ trước khi rời khỏi nhân gian, thì mới có thể thực sự lĩnh hội được nhân sinh tự thị nhi phi – dường như sống và dường như đã chết, cũng giống như dường như có và dường như không. 

Tâm người rất kỳ diệu, nghĩ xem tâm con người chúng ta có kỳ diệu không? Có khi vui vẻ một lúc… Ta nói với người bạn này rằng, “Nghe nói cậu ta không vui?” “Đâu có, tôi vừa nói chuyện với cậu ta, cậu ta là người rất vui vẻ mà! Tại sao sau đó lại không vui rồi?” Tại sao? Bị kích động. Lúc thì được lúc thì mất, lúc thì cảm thấy vui vẻ, lúc lại mất đi niềm vui, lúc thì cảm thấy bi thương, lúc thì cảm thấy sự bi thương đã tan biến, con người sống trong sự được và mất, trong lựa chọn và loại bỏ, trong đau khổ và hạnh phúc, cứ như thế không ngừng trải qua những ngày vô thường này. Cho nên, ý niệm con người lúc thì thanh tịnh, lúc thì nóng nảy, đều là do ngoại cảnh tác động mà ra. Sư phụ cứu người khó biết dường nào, thầy thường giúp nhiều Phật hữu làm công tác tư tưởng, thảo luận với họ về việc con người nên vận dụng loại trí tuệ nào của Bồ Tát để giải thoát phiền não trong lòng. Sau khi nói chuyện rồi thì: “Sư phụ, con đã hiểu rõ rồi. Thật đó, con rất vui và con đã hiểu thông rồi ạ. Con nhất định nghe lời sư phụ và cố gắng sửa sai.” Ngày hôm sau, “Ồ, tại sao con lại…” Lại thay đổi rồi – vô thường, nói đâu lại vào đó như cũ, vô thường. 

Thầy đã từng kể qua, có một cặp vợ chồng cãi nhau nhiều năm, cãi nhau xong họ nói thôi thì ly hôn đi để khỏi tranh cãi nữa. “Đi thôi! Đi, cùng nhau đi!” “Đi ly hôn thôi! Bây giờ cùng đi đến tòa án.” Toà án ở quê gần lắm nhưng phải đi bộ, không có phương tiện đi lại, lúc đó hai người đi bộ thì đến trước một cái ao lớn, không thể đi qua được cái ao. Người chồng mới nói: “Tôi cõng bà qua! Leo lên!” Người vợ nghĩ: “Phải làm sao đây? Không thể để ướt giày được! Vậy để ông ấy cõng qua thôi”. Trời sau mưa lại là một cái ao lớn. Vừa cõng đi qua, và đặt người vợ xuống thì: “Chồng về thôi! Tôi thấy ông cũng còn tốt mà”. Cuộc sống là như vậy, thay đổi trong vô thường, thay đổi, thay đổi, không ngừng thay đổi, thay đổi. Quý vị có biết rằng thay đổi sẽ làm tổn thương chính mình. Có lúc mặn, có lúc nhạt nhẽo. Ăn thử món đó, mặn quá, cho ít đường; cho ít đường, ngọt quá, thêm muối, thêm đường, rồi lại thêm muối… Sau vài lần, sẽ trở thành “muối tiêu” rồi, con người là như vậy, quý vị có hiểu không? Tình cảm cũng như vậy, tâm thái cũng như vậy. Quan trọng nhất là chú tâm vào giây phút hiện tại, hiện tại vui mới thực sự là vui, hiện tại khổ mới thực sự là đang khổ. 

Bồ Tát cho chúng ta biết rằng con người rất kỳ diệu, lúc thì nông nổi và lúc thì thanh tịnh, tất cả đều do tác động bên ngoài. Phàm phu thường bị bệnh vì ảnh hưởng của thế giới bên ngoài đối với họ. Quý vị thường xuyên bị bệnh vì những tác động từ bên ngoài vào quý vị. Quý vị thử nghĩ xem, bị ảnh hưởng bởi một vài lời nói của người khác, cảm xúc sẽ bị dao động rất lớn, ảnh hưởng bên ngoài đối với quý vị to lớn đến mức nào? Có khi sẽ làm tâm của quý vị biến động theo. Tác động đến nội tâm của quý vị, rồi quý vị sẽ sản sinh ra một loại nhân tố dục vọng. “Mua đi! Thứ này rất tốt lại rẻ, sau này giá cả sẽ tăng lên.” Được, mua rồi, nhân tố dục vọng đã đến, sau đó quý vị sẽ đấu tranh tìm kiếm trong nhân tố này và nổ lực phát hiện nó, cuối cùng làm cho mình bị trói buộc. 

Sư phụ đã thuyết Pháp cho quý vị được một giờ rồi thật là nhanh. Quý vị nghe rất vui phải không? Phải rồi, khi vui thì thời gian trôi qua rất nhanh. Nếu thầy bảo quý vị ngồi đó và tịnh toạ, nếu không tịnh tâm được thì giống như ngồi chịu phạt, nhưng nếu tịnh được rồi thì đó gọi là tọa thiền. Như quý vị bây giờ gọi nó là tọa thiền, toạ thiền, ngồi đây và tĩnh tâm lại, trong tâm không nghĩ ngợi gì. Vừa rồi quý vị đang nghe sư phụ hoằng pháp trong một giờ đồng hồ, không nghĩ ngợi điều gì trong đầu, nên thời gian sẽ trôi qua rất nhanh, nếu quý vị nghĩ: “Chuyện phiền toái này… ngày mai trong bộ phận làm việc… con cái thế nào, ở nhà ra sao… mua thứ này…” Tâm trí không thể ngồi thiền được chút nào. Không thể toạ thiền sẽ ảnh hưởng đến việc tu thiền của mình. Quý vị cho rằng tu thiền là gì? Ngồi đây ngồi yên định tĩnh tâm tu tập gọi là tu thiền, để tâm định lại được gọi là thiền định. Cuối cùng khi quý vị đạt được thiền định thì sẽ đạt được thiền trí – trí tuệ, trí tuệ thiền của Bồ Tát. 

Một lần nọ, khi một vị Tỳ kheo trẻ đang ở lại trong tịnh xá của một ngôi làng, có một người đã cúng dường cho vị ấy hai chiếc áo cà sa. (ngày xưa thứ gì cũng cúng dường, giống như bây giờ với pháp sư có thể cúng dường cơm. Có người thì trong nhà đúng lúc có áo cà sa nên đem cúng dường cho vị Tỳ kheo trẻ này. Pháp sư có thể tiếp nhận áo cà sa cúng dường). Vị Tỳ kheo này quyết định cúng dường một trong số chúng cho vị Tỳ kheo trưởng lão (nghĩa là trưởng lão trong chùa, là sư phụ, tức là người cậu của vị Tỳ kheo trẻ). Sau mùa An Cư Kiết Hạ vị Tỳ kheo trẻ đến gặp vị Tỳ kheo trưởng lão và dâng chiếc áo cà sa cúng dường cho vị Tỳ kheo trưởng lão. Vị Tỳ kheo trưởng lão này nói rằng ông đã có nhiều áo cà sa, nên ông từ chối. Vị Tỳ kheo trẻ nhiều lần nài nỉ, nhưng vị Tỳ kheo trưởng lão kiên quyết từ chối không nhận. Vị Tỳ kheo trẻ rất buồn, nghĩ rằng cậu của mình không chấp nhận chiếc áo cà sa là vì không thích mình. (Cho nên trong xã hội ngày nay, quý vị tặng cho người khác vật gì mà họ không nhận, thì quý vị sẽ cảm thấy không thoải mái; quý vị thành tâm thành ý tặng cho người khác vật gì, người ta nhận, thì đó thực ra là một sự tôn trọng đối với người tặng đồ. Đặc biệt là đối với một số người, người khác tặng cho họ một vật gì đó, nhìn vào nó trước rồi nói “không nhận, không nhận”, nghĩ xem người khác có xấu hổ không? Nếu như không nhìn và nói “không cần, cậu không cần tặng cho tôi bất cứ thứ gì”, đó lại là một khái niệm khác. Xem rồi, “Ồ, đừng đừng” người khác có xấu hổ không? Khi người khác tặng mình bất cứ thứ gì thì trong lòng luôn phải tràn đầy hoan hỷ, bởi vì đó là một món quà, một tấm lòng. Nếu ta không muốn nó, người khác sẽ không vui. Quý vị thấy đấy vị tiểu Tỳ kheo này cảm thấy rất buồn, và cảm thấy rằng cậu không thích mình. Thậm chí cậu ta còn nghĩ, vì cậu mình kiên quyết từ chối chia sẻ những nhu yếu phẩm với mình (áo cà sa là thứ cần thiết mà hòa thượng cần dùng) và cậu ta muốn hoàn tục: “Nếu cậu như vậy, con sẽ hoàn tục. Nếu cậu không thích con, thì con theo cậu làm gì? Hay là sống cuộc sống thế tục của riêng mình, và không xuất gia nữa.” 

Kể từ lúc đó, ý niệm của cậu ta phân phi, suy nghĩ của cậu ta loạn phi, tâm trí rối bời, và trong tâm nghĩ về những gì sẽ xảy ra sau khi mình hoàn tục: Sau khi tôi hoàn tục, tôi sẽ bán chiếc áo cà sa, mua một con cừu cái, rồi nhanh chóng sinh con, nuôi thật nhiều cừu con, có đủ thu nhập thì cưới vợ sinh con. Rồi đưa thê tử (vợ và con) đáp xe trở về chùa để thăm cậu: “Cậu xem, vợ tôi, con tôi, giờ tôi có tất cả rồi”. Thậm chí trên đường đi cậu ta còn định nói với vợ: “Để anh chăm sóc con”, nhưng người vợ nhất quyết bảo cậu ta giá xe và đừng quản đến chuyện của con, nhưng cậu ta cứ khăng khăng đòi chăm sóc đứa bé, và khi kéo đứa bé đến để chăm, rốt cuộc là đứa bé rớt khỏi xe, bị bánh xe cán qua, cậu ta tức giận đến mức muốn lấy gậy đánh vợ. Thực ra lúc này cậu ta đang tưởng tượng, đúng lúc cậu ta đang quạt cho cậu mình, do suy nghĩ lung tung (vì đang nghĩ đến việc cậu ta dùng vật gì đó để đánh vợ) nên cậu ta đã vô tình dùng quạt đánh vào đầu cậu mình.  

Vị Tỳ kheo trưởng lão rất có trí tuệ, ông rất lợi hại, và hiểu được suy nghĩ của đứa cháu nhỏ, nên ông nói với cậu ta: “Cậu đánh vợ cậu không được, sao cậu lại đánh tôi?” Vì vị Tỳ kheo trưởng lão biết cậu ta đang nghĩ gì. Khi vị Tỳ kheo trẻ tuổi nghe nói rằng cậu của mình là vị Tỳ kheo trưởng lão rất lợi hại thì vô cùng ngạc nhiên, trong lòng áy náy bất an muốn rời khỏi tịnh xá ngay lập tức. Nhưng vị Tỳ kheo trưởng lão đã nghĩ cách để đưa cậu ta đến gặp Đức Phật. (Lúc bấy giờ Đức Phật còn tại thế, họ thật là may mắn, chỉ vì một việc nhỏ như vậy mà đưa cậu ta đến gặp Đức Phật, thật sự rất may mắn.) 

Sau khi Đức Phật biết rõ đầu đuôi sự việc (Đức Phật vĩ đại như vậy mà Ngài khiêm nhường làm sao), Ngài rất nhân từ nói với vị Tỳ kheo trẻ: Tâm con người thất thường (tức là lung lay bất định, tạp niệm phân phi), dù ở Đông Tây Nam Bắc xa xôi, những nơi xa xôi tâm cũng luôn nghĩ ngợi lung tung (có thể một lúc về phía Đông, một lúc về phía Tây, tâm có thể chạy biết bao xa?) Cho nên con người nên cố gắng để giải thoát khỏi ba độc tham, sân, si trong tâm mình. Tham lam, vị tiểu Tỳ kheo này chẳng phải là tham lam sao? Cho nên phải giải thoát ra khỏi thì mới có thể có được hy vọng thành công. 

Được, hôm nay sư phụ khai thị cho đại chúng đến đây, mong đại chúng có thể học Phật tinh tấn, có thể an định tâm mình. Hôm nay muốn nói với mọi người rằng dù hoàn cảnh bên ngoài có thay đổi như thế nào thì tâm phải luôn bất động, tâm phải như như bất động, phải định tâm, tâm tĩnh thì mới có thể như nước. Cảm ơn đại chúng! 

Tập 11
CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG

(12/03/2020)

Quý Phật hữu thân mến, hôm nay Sư phụ sẽ tiếp tục giảng về “Bạch Thoại Phật Pháp” với quý vị. 

Mỗi người học Phật nên hiểu rằng, tâm trạng là một cảm giác của con người. Đôi khi tâm trạng tốt, ta cảm thấy tốt; khi tâm trạng không tốt, ta cảm thấy tồi tệ. Tâm trạng không phải là toàn bộ sinh mệnh của cuộc sống, nhưng đôi khi nó có thể kiểm soát phần lớn cuộc sống của chúng ta. Khi tâm trạng tốt, đôi khi mọi thứ đều tốt đẹp; nếu tâm trạng không tốt, tâm trí ta sẽ hỗn loạn. Đừng để tâm trạng của quý vị đánh bại cuộc sống của quý vị. Chúng ta thường thì không phải thua bởi người khác, mà thua bởi cảm xúc của chính mình. Vì vậy, đừng dùng tâm trạng xấu làm hạ thấp nhân cách và hình ảnh của những người học Phật chúng ta. Đôi khi tâm trạng không tốt, sẽ khiến người khác nhìn ra năng lực của chúng ta kém cõi, bởi vì như vậy sẽ làm giảm năng lực và làm rối loạn suy nghĩ của chúng ta, cuối cùng từ đó sẽ chịu thua với chính mình. Vì vậy, một người có trí tuệ, một người học Phật, họ có thể kiểm soát tốt tâm trạng của mình, ở bất cứ đâu cũng có thể hiểu được hoàn cảnh, vị trí đang ở hiện tại và những gì nên nói. Nếu hôm nay tâm trạng không tốt, nên giải quyết vấn đề này như thế nào. Khi tâm trạng tốt thì nên giải quyết vấn đề này như thế nào. Bằng cách này, chúng ta có thể kiểm soát cảm xúc của mình và cuộc sống sẽ mang lại sự bình yên tốt đẹp ở khắp mọi nơi. 

Cuộc sống lẽ ra không có gì là khổ, khổ là do chúng ta có quá nhiều ham muốn. Quý vị thấy đấy, hôm nay chúng ta muốn cái này, ngày mai muốn cái kia, ngày mốt chúng ta lại cần cái này, và lại cần cái kia. Tâm lẽ ra không có gì là mệt mỏi, mệt mỏi là vì chúng ta không thể buông bỏ quá nhiều thứ. Cuộc sống của chúng ta lẽ ra không có gì là khổ, khổ là do tâm của chúng ta, khổ là do chúng ta chạy theo ham muốn vật chất ở thế gian. Cuộc sống là một quá trình tăng giảm không ngừng của những dục vọng và mong cầu. Nếu những ham muốn thế gian của quý vị tăng lên càng nhiều thì phiền não càng nhiều và đau khổ cũng nhiều hơn. Nếu quý vị từ từ học cách buông bỏ ham muốn thế gian, thì quý vị sẽ dần dần lĩnh hội được chân lý của cuộc sống. Chân lý của thế giới này đó là khổ – không – vô thường. 

Chúng ta đến thế giới này chịu rất nhiều đau khổ, rồi cuối cùng khi chúng ta ra đi, tất cả những gì chúng ta có được đều trống rỗng, sinh không mang đến, chết không mang theo. Cuối cùng, chúng ta lại dùng sự vô thường của cuộc đời để tổng kết chính mình. Không có sự việc gì là tồn tại mãi mãi, không có lời nói nào là tồn tại mãi mãi, không có suy nghĩ nào có thể tồn tại mãi mãi và không có hành vi nào có thể có được nó mãi mãi. Vì vậy, về cơ bản không thể có cả về vật chất lẫn tinh thần. Ý nghĩa sâu xa của cuộc đời là để cho chúng ta hiểu được ý nghĩa thực sự của khổ – không – vô thường. 

Chúng ta phải học cách buông bỏ, phải học cách từ bỏ và quay trở về. Thử nghĩ xem, chúng ta khi còn bé rất dễ thương, khi còn nhỏ cái gì cũng: “chú dì ăn trước, anh chị ăn trước, cái này em không cần đâu, chị lấy đi, anh lấy đi”, nhưng bây giờ chúng ta ngày càng lớn, chúng ta biến thành muốn mọi thứ, thứ gì cũng muốn giành giật, cướp đoạt và tranh chấp với người khác, dù chỉ một lời nói, cũng phải tranh cãi với người ta. Đây chính là con người, đã quên đi bổn tánh và diện mạo sẵn có của mình, vì vậy điều chúng ta cần là trở về với bổn tánh của mình và từ bỏ dục vọng của cuộc sống. 

Thực ra, từ bỏ dục vọng là từ bỏ tính nóng nảy và tham tâm của đời mình, trở về với bổn tánh tự nhiên, trở về với sự bình an nội tâm. Làm sao để trở về? Trước hết phải trị dứt tham sân si, phải làm việc thiện, vì người nếu không làm việc thiện lâu ngày sẽ làm việc ác, cho nên trong cuộc sống chúng ta phải học tập làm việc thiện. Không những làm việc thiện, mà còn phải dạy con người chúng ta một loại tương tác Phật tánh giữa người và người với nhau. Tương tác Phật tánh là dựa trên cơ sở của lý trí, biết nghĩ đến người khác và có tấm lòng đại ái, trên cơ sở của lòng từ bi tạo ra sự tương tác với người khác như vậy mới chứng được Phật tánh. Ở đời, muốn học để kiến chứng được Phật tánh thì phải quản lý tốt thân, khẩu, ý của mình. Ngày nay quý vị muốn làm Phật, quý vị có thể kiểm soát được miệng của mình không? Hôm nay ý niệm của quý vị có trong sạch không? Ý niệm không trong sạch không thành Phật được, không thành Bồ Tát được. Hành động của chúng ta thể hiện nhân cách, thể hiện sự cao quý và thấp kém của mình. Vì vậy, những gì chúng ta nói ra, một hành động cũng sẽ khiến người khác ngưỡng mộ mình hoặc coi thường mình. 

Đạo Phật là để giúp bản thân mình học cách tĩnh tâm từ từ. Mỗi người chúng ta phải học cách tĩnh tâm và lắng lòng mình lại. Phải hiểu rằng những người hoằng Pháp sẽ được Pháp vi diệu. Hôm nay đi giúp đỡ người khác, quý vị sẽ có được diệu Pháp của Bồ Tát trong tâm. Người có khả năng giúp đỡ người khác thì trong tâm họ nhất định có được diệu Pháp, dùng phương tiện thiện xảo để cứu độ chúng sinh, giúp đỡ người khác; nhất là khi người khác đau khổ, khó khăn thì chúng ta lại càng phải học cách giúp đỡ họ. 

Học Phật độ chúng, trước hết phải học cách tự mình nhận biết thiện ác, nhận biết chính mình – tâm mình hôm nay rốt cuộc là thiện hay ác. Nếu hôm nay tâm quý 

vị là thiện thì quý vị có thể làm rất nhiều, rất nhiều việc tốt, việc thiện lương. Nếu hôm nay tâm trạng quý vị không tốt và đều nghĩ về những điều xấu xa, vậy thì quý vị không thể làm bất cứ việc gì. 

Đối nội mà nói, thân thể rất quan trọng, cần phải giữ gìn sức khỏe tốt. Đối với người học Phật mà nói, bên ngoài cần phải giữ gìn sức khỏe tinh thần và cân bằng trường khí của cơ thể – chúng ta nói “bình thuận” (bình an thuận lợi). Sao hôm nay hạnh phúc vô cùng? Vì khí rất thuận và rất vui, đó là không được có tâm sân hận nào. Hãy nhớ rằng, người không có tâm sân thì khí sẽ thuận, và sẽ có tình yêu thương xuất hiện; Một khi trường khí của quý vị thuận thông thì phiền não sẽ không phát sinh. Nếu hôm nay quý vị có diệu Pháp độ chúng thì phiền não của quý vị sẽ rời xa quý vị. 

Phải “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, đừng để tư duy của con người ngăn trở Phật tánh của nội tâm. Chiếu kiến tất cả, phải nhìn thấy nó, phải tiêu trừ nó, phải nhìn thấu nó, phải vượt qua nó. Ví dụ, nếu hôm nay quý vị muốn làm một việc tốt, quý vị nghĩ: “Tôi không có thời gian… không quan trọng, miễn là tôi học Quán Thế Âm Bồ Tát làm việc tốt, tôi vượt qua thời gian”; Hôm nay nói “Tôi đi giúp hàng xóm”, có thể có những người trong gia đình không thích hàng xóm, nên sẽ mắng mình, thì nghĩ rằng: “Tôi muốn giúp đỡ người khác vì tôi là một người học Phật”. Quý vị gạt bỏ tất cả những tạp niệm quanh mình và tiêu trừ toàn bộ tạp niệm trong tâm, chiếu kiến tức là phải chiếu xuyên thấu qua nó, “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, để cho ánh sáng và năng lượng của chư Phật, Bồ Tát trên thân mình dung hợp lẫn nhau, với nhân cách của mình dung hợp lẫn nhau. Như vậy mới có thể kiên định đạo tâm. Người ta nói: “Làm một việc thiện không hề khó, nhưng làm việc thiện cả đời mà không làm việc ác mới khó.” 

Hoằng pháp phải hiểu rằng, kiên trì tinh tấn và nỗ lực, nhất định sẽ nhận được nhiều sự giúp đỡ, người khác sẽ giúp đỡ quý vị. Quý vị đang học Phật, người khác sẽ ủng hộ quý vị, người khác sẽ kính trọng quý vị, người khác sẽ tôn trọng quý vị, và quý vị sẽ có quý nhân giúp đỡ. Cần phải tăng trưởng phước đức thông qua hoằng Pháp tự hành (tự mình hoằng pháp), vì vậy sư phụ thường nói với quý vị rằng người học Phật phải có phúc khí, và những người không có phúc khí không thể học Phật. Nhiều người hàng ngày vẫn ăn uống, vui chơi, đang lãng phí thời gian, thì làm sao họ có được phúc khí này để nghe Phật Pháp? Khi họ có phiền não cũng không làm gì được, cũng như bao thanh niên trẻ đau khổ trong tình yêu, họ chỉ có thể đến tiệm Net, lên mạng giết thời gian để giảm bớt nỗi đau của mình về vấn đề này. Đây là do phước đức của họ không đủ. Phúc đến như thế nào? Giúp đỡ người khác, quảng kết thiện duyên thì có được phúc khí. Đức đến như thế nào? Tôn trọng người khác, không nói dối, làm một người bạn tốt với người khác, phụng sự tốt vì tất cả chúng sinh và có thể giúp đỡ người khác, thì quý vị sẽ có được đạo đức. Những thứ đó đều thuộc về trợ duyên gieo duyên không tính toán chi li, âm thầm trợ duyên của người học phật, những thứ đó không có hình dạng , sự trợ duyên gieo duyên đó không nhìn thấy được, chính sự gieo duyên đó nó sẽ giúp ích cho năng lượng của quý vị. Vì vậy, quý vị nhìn xem, một người học Phật sẽ được nhiều người giúp đỡ, nhưng cũng có nhiều người không có được sự giúp đỡ này. Tại sao? Vì họ chỉ biết đến bản thân, chỉ biết ích kỷ, không bao giờ nghĩ đến việc giúp đỡ người khác. Tất cả mọi thứ là do tâm của mình tạo thành. Nếu hôm nay quý vị có thể giúp đỡ người khác bằng tấm lòng của mình, thì quý vị chính là người lương thiện. Nếu mỗi ngày quý vị giúp đỡ người khác một chút, trong 365 ngày, quý vị sẽ có 365 điểm sáng và điểm lương thiện, quý vị chính là một người lương thiện. Nếu hôm nay quý vị làm một chút việc xấu, tích thành ác, thì quý vị là người ác, tâm quý vị làm sao mà trong sạch được? Cho nên người tu tâm chúng ta nên tu cho trong sạch, có như thế những tà niệm, tà kiến và những điều không đúng lý không đúng pháp bên ngoài sẽ không vào được tâm quý vị để kiểm soát quý vị thì trong tâm quý vị mới trong sạch được. Cũng giống như một người chưa bao giờ hút thuốc, nếu có người rủ quý vị hút, quý vị sẽ không hút. Nếu quý vị là người hút thuốc thường xuyên, hoặc đôi khi ngẫu nhiên hút một điếu, hút một điếu thuốc, có người nói: “Tôi tặng cậu một cây thuốc lá”, và quý vị sẽ nhanh chóng hút theo. Trong tâm chúng ta phải vô tư (lợi), thì trời đất đều rộng lớn vô cùng và ngoại tà cũng không thể xâm nhập. 

Người học Phật chúng ta nên tinh tấn tu định lực, vậy định lực là gì? Dù khó khăn gian khổ đến đâu chúng ta cũng đều có được định lực, không bị những gì nhìn thấy làm cho mê mờ, xao động. Điều đó có nghĩa là, hôm nay những gì quý vị nhìn thấy tận mắt có thể không phải là sự thật, người khác nói với quý vị rằng thứ này tốt, thứ kia không tốt, và những gì quý vị thấy tận mắt chưa chắc đã là sự thật. Phải dùng trí tuệ từ nội tâm để cảm nhận ý nghĩa thực sự của sự việc này. Lấy một ví dụ đơn giản, có người nói xấu bố hoặc mẹ mình ở nhà không tốt như thế nào, và bản thân chúng ta khi về nhà nhìn thấy bố mình, “Tại sao làm điều này? Tại sao bố lại làm như vậy?” Người ta nói: “Bố cậu ở ngoài đường lượm ve chai, lượm đồ người ta vứt đi, vì điều kiện gia đình cậu không tốt.” Về nhà thấy ngay bố thật sự lấy đồ vừa lượm được ra, trong lòng cậu ta sẽ rất ghét bố: “Sao bố lại làm con xấu hổ? Sao bố đi lượm ve chai ở ngoài đường, để người khác nhìn thấy xấu hổ lắm à?” Thực ra là người bố muốn tiết kiệm, nhặt ít đồ đem bán đi, sau đó có thêm một ít tiền để nuôi dưỡng cậu ấy. Đôi khi tình cha, tình mẹ là tấm lòng từ ái vô bờ bến. Cho nên mắt chúng ta nhìn thấy chưa chắc là thật, những điều ác nhìn thấy cũng chưa chắc là thật, cho nên Bồ Tát bảo chúng ta hãy dùng trí tuệ để lý giải việc mình đang làm hôm nay. 

Tập 12
NHẪN NHỤC LÀ ĐỨC, BÌNH TĨNH LÀ PHƯỚC

(12/03/2020)

Sư phụ nói với mọi người rằng bất kể điều gì xảy ra, trí tuệ chỉ có thể được tạo ra trong định. Hôm nay định được thì sẽ có trí tuệ, không định được thì hoàn toàn không có trí tuệ. Hành giả phải dùng tinh thần vô úy. Tinh thần vô úy là gì? Có thể cống hiến thời gian của mình, sức lực ít ỏi của mình, tiền bạc, bố thí pháp, bố thí tài, và có cả bố thí vô úy, chỉ có như vậy chúng ta mới có thể hiểu được tinh thần này, mới có thể truyền bá Phật pháp và mới có thể có được ý nghĩa thực sự của lòng nhân ái. Nhiều cha mẹ đã hy sinh rất nhiều cho chúng ta khi chúng ta còn nhỏ, giống như sư phụ bây giờ hy sinh và nghĩ đến rất nhiều cho các đệ tử, nhưng có người trong số các con không cảm nhận được điều đó. Cũng giống như rất nhiều đứa con từ nhỏ đến lớn cha mẹ hy sinh rất nhiều cho mình mà bản thân họ không cảm nhận được, sau khi học Phật mới biết cha mẹ mình đâu có dễ dàng. Học Phật nhất định không được để ngoại cảnh ảnh hưởng, cho dù người khác nói gì bản thân chúng ta cũng phải có tấm lòng chân thành, phải có một trái tim kiên định, đừng để tâm thay đổi theo hoàn cảnh. Nhiều người nhẹ dạ cả tin, có nghĩa là lúc thì đối xử tốt với người này, lúc thì đối xử không tốt với họ. Vì người khác nói người đó không tốt, nên mình đối xử tệ bạc với họ, khiến họ vì mình mà buồn lòng, bởi vì bản thân mình bị người khác nói gì là mình liền thay đổi. 

Sư phụ hy vọng rằng quý vị phải thay đổi tâm thái của mình. Nếu chẳng may xảy ra chuyện xấu đi chăng nữa, người bình thường rất khó tự chủ để thoát khỏi kiếp nạn, nhưng người học Phật chúng ta, dù gặp chuyện gì, trước hết phải có niềm tin vững chắc “Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ từ bi, phù hộ cho chúng ta, chúng ta là người tốt, chúng ta là người lương thiện, Bồ Tát sẽ phù hộ chúng ta, chúng ta có thể hy sinh vì tất cả chúng sinh, chúng ta chắc chắn sẽ được tiêu tai giải nạn, bởi vì chúng ta có 3 đại pháp bảo, chúng ta từ bi cứu độ tất cả chúng sinh”, như vậy thì trong tâm mình mới có được sự bình yên. Thầy hy vọng mọi người nên quán tâm, “Quán” có nghĩa là “Quán Tự Tại”, “Quán” của Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán tâm tức là chúng ta thường xuyên theo dõi, quan sát vào tâm mình: “Ta có phải là người tốt không? Hay ta là một người ác? Ta làm những việc này, tâm mình phải quản chặt bản thân, đừng để nó nhìn thấy có lợi rồi quên ngay lòng từ bi là gì! Có tiếng tăm rồi thì quên ngay đạo đức là gì?” 

Trong tâm của mình phải giữ vững kiên định đừng để những thứ bên ngoài xã hội này ảnh hưởng tới mình mà thay đổi, đây là phương châm của sư phụ: “Cho dù bên ngoài có bao nhiêu dục vọng chúng ta cũng phải vô dục (không có dục vọng), ta phải thuận theo tự nhiên, tức là tuỳ duyên. Tâm ta tịnh như nước, bất kể chuyện gì xảy ra thì nước vẫn chảy, cho nên không có dục vọng mới có thể tự nhiên, và mới có thể tâm tịnh như nước.” 

Hãy bình tĩnh, cho dù điều gì xảy ra với chúng ta đi chăng nữa thì cũng phải bình tĩnh (xử thế bất kinh). Con người có đôi khi bị oan ức, căm hận, đố kị, đó là những độc tố được sản sinh trong cơ thể chúng ta, và phải kiểm soát những độc tố này một cách hợp lý. Đôi khi, khi tâm chúng ta nới lỏng, chất độc sẽ bắt đầu ăn mòn cơ thể của chúng ta, nếu chúng ta sử dụng năng lượng tích cực trong tâm, thì chất độc đó sẽ không thể đi vào cơ thể. Đôi khi chúng ta để sự đố kị, thù hận và phiền muộn xâm nhập vào tâm mình, thì sau đó chúng ta sẽ trở thành một con người khác. Vậy nên hãy học cách điều phục thân tâm, điều phục cảm xúc, tu nhẫn nhục Ba-la-mật, mọi thứ sẽ qua đi, như quá nhãn vân yên, như dấu chân trên bãi biển. Khi ta đi qua bãi biển, để lại dấu chân của mình, khi ta quay đầu nhìn lại, một cơn sóng đã xóa sạch tất cả dấu chân của mình. Trong cuộc sống, nên có tấm lòng rộng lớn, dùng trí tuệ để tẩy rửa những chất độc trong lòng mỗi ngày, đừng để những chất độc trong tâm này làm ô nhiễm tâm hồn của chúng ta, và mỗi ngày dùng tấm lòng từ bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và tấm lòng cứu độ chúng sinh để giữ cho tâm hồn của mình thanh tịnh. 

Bái sư thực ra không phải là bái sư phụ mà là bái Phật đạo đại từ đại bi đại trí tuệ, chư Bồ Tát muốn mọi người tuân thủ giới luật, phải hiểu rằng ngày nay khi bước ra học Phật, tức là tự mình tôn trọng chính mình, vì tôi muốn thay đổi, tôi không thể suy đồi như xưa, tôi không nên tự hủy hoại mình. Ngày nay nếu muốn được người khác tôn trọng thì trước tiên chúng ta phải biết tôn trọng chính mình, hãy dành không gian riêng cho mình, đừng lạc lối. Đạo Phật, nhất định phải ngẩng cao đầu tiến về phía trước. Bây giờ các con đã có sư phụ, tốt hơn hết các con nên cùng sư phụ tiến về phía trước. Mọi thứ trên đời này đều không thể đạt được, và chân lý của vũ trụ sẽ không bao giờ thay đổi, đó là khổ – không – vô thường. 

Sư phụ thường nói với mọi người rằng, phiền não của con người giống như Lục tổ Huệ Năng đã nói: 

“Bồ-Đề bổn vô thọ

Minh kính diệc phi đài

Bổn lai vô nhất vật

Hà xứ nhạ trần ai?”

Nghĩa:

“Bồ-Đề vốn chẳng cây

Gương sáng cũng không đài

Xưa nay không một vật

Bụi trần bám vào đâu?”

Bản thân con người chúng ta vốn là trống rỗng, khi chúng ta đến nhân gian, bộ não của chúng ta đều trống rỗng, và chính những hiện tượng tự nhiên phía sau được đưa vào suy nghĩ của chúng ta. Nếu đưa vào điều tốt, thì tâm ta sẽ tốt. Nếu đưa vào điều xấu, thì tâm ta sẽ xấu. “Minh kính” có nghĩa là trái tim của ta giống như một tấm gương. Hy vọng mọi người hãy lấy tấm gương mới này để phản chiếu ngũ uẩn giai không mỗi ngày, để phản chiếu những điều thiện lương, từ bi và những điều tốt đẹp, vậy thì trong tâm chúng ta sẽ có được lòng từ bi, thiện lương và những điều tốt đẹp. Nếu hôm nay chúng ta phản chiếu là “trần ai” vậy thì trong lòng chúng ta sẽ có bụi trần, nếu trong lòng chúng ta vốn không có bụi trần thì lấy đâu ra bụi trần để bám? Lấy một ví dụ đơn giản: trong phòng làm việc có vài đồng nghiệp tranh cãi, quý vị là người không thích quan tâm với mọi thứ thì làm sao quý vị có thể gặp phiền não. Thì làm sao quý vị có thể tham gia vào những rắc rối ích kỷ như vậy? Vì vậy, sư phụ nói với mọi người là bụi trần không có nơi nào để bám. 

Phải hiểu rằng trong cuộc sống chúng ta không nên quan tâm quá nhiều đến những gì người khác nói. Người học Phật có Phật trong tâm, vạn vật trên đời: 

“Như mộng, huyễn, bọt, bóng,

Như sương, như chớp loé,”

Mong mọi người kiểm soát tốt nội tâm của mình, giúp đỡ người khác nhiều hơn, đừng để ý người khác nói gì, đừng xuyên tạc đúng sai. Có một số người bố thí chọn người, nói chuyện cũng thích chọn người: lời tốt thì họ nói với người họ thích, lời xấu thì cụ thể là chửi người không thích. Loại người này có tạp niệm oán thân trong lòng. “Không căm ghét người”, không sân, không kỳ thị hoặc cảm nhận gì về những người không tốt. Lòng từ bi của Bồ Tát là “nhân thương ngã thống”: Hôm nay cho dù là một người ác, ta cũng sẽ cứu ngươi, hôm nay nếu ngươi là người xấu, nếu có thể cứu được ta sẽ cứu ngươi. 

Trên thế gian có rất nhiều người một bên cứu người và đồng thời cứu lấy chính mình, cho nên họ đã trở thành một người tự tại trên thế gian này. Nhiều người học Phật trong chúng ta, khi có những suy nghĩ và thành kiến không tốt về người khác, còn cho rằng mình đang suy xét, còn nghĩ rằng mình đang cứu vãn thế giới, còn nghĩ rằng những gì mình nói thì người khác có thể hiểu được. Như chúng ta thường thấy, nhiều người nói cũng không được rõ ràng, khi nói chuyện với người khác họ nói rất nhanh, họ cho rằng mình nói rất tốt, nhưng sau khi nói xong, đối phương lại nhìn họ với ánh mắt ngơ ngác, nghe không hiểu. Nhưng nếu đi hỏi lại người nói, chắc chắn họ nghĩ rằng họ đã giải thích rõ ràng mọi thứ, đây là do ý thức của mỗi người là khác nhau. 

Mong sao người học Phật chúng ta luôn thấy được hy vọng, thấy được ánh sáng, phải sống trong tự tại và vượt qua thực tại. Nếu quý vị thường nghĩ rằng: “Sau này tôi sẽ tốt hơn, trong tương lai tôi sẽ càng tiến bộ hơn, và mọi thứ xung quanh tôi sẽ ngày càng tốt đẹp hơn”, thực ra là quý vị đã vượt qua được chính mình trong việc học Phật, và đó chính là đang tu pháp xuất thế gian. Quý vị có thể nhìn những vị pháp sư, sở dĩ họ có thể xuất gia là vì họ đã vượt qua được chính mình, những phiền muộn trong thế gian, danh văn lợi dưỡng trong thế gian, tất cả họ đều không cần, họ buông bỏ và họ đạt được sự tự tại vô thượng. 

Người học Phật phải học cách tha thứ cho chúng sinh, dù họ xấu xa đến đâu hay họ đã từng làm tổn thương qua chúng ta, hoặc họ làm tổn thương chúng ta thông qua người khác, cần phải học cách buông bỏ, thì chúng ta mới có thể thực sự hạnh phúc. Mỗi ngày chúng ta đều sống trong căm ghét người khác, càng sống càng ghen ghét căm giận, càng sống càng đau khổ, sư phụ nói cho quý vị biết chân tướng: Thế giới này vốn là rất đau khổ, nếu quý vị muốn tìm vĩnh viễn không đau khổ trong thế giới này, cách duy nhất là rời khỏi thế giới này, bằng không quý vị sẽ đau khổ mãi mãi trong cõi người này. Sư phụ nói mọi người biết, trong cuộc sống cần 4 loại tu tập. Tu tâm cần phải có tu tập đúng không? Tu tập như thế nào?  

Có 4 loại, hôm nay sư phụ sẽ nói cho mọi người biết có 4 loại tu tập nào. 

Loại thứ nhất là chịu đựng được. Phải kiên nhẫn với bất cứ điều gì và còn phải để cho bản thân mình vượt qua được. Văn hóa truyền thống Trung Hoa của chúng ta thường nói rằng “Nhẫn đắc nhất thời chi khí, tiêu đắc bách nhật chi tai.” Nếu lúc đó kiềm chế một chút, có thể vài tháng sau người khác sẽ không tính sổ với mình nữa, nếu hôm nay quý vị chiếm thế thượng phong trước mặt người khác, mắng mỏ họ, hoặc giành được chút thể diện ngắn hạn, có thể trong lòng họ sẽ ghi hận mình, có thể họ sẽ mang đến cho quý vị những tai họa trong tương lai. “Nhẫn đắc nhất thời chi khí, tiêu đắc bách nhật chi tai” nếu có thể nhẫn nhịn được thì người này là người có trí tuệ, không có nghĩa là họ hèn nhát. 

Loại tu tập thứ hai là nhìn thấu mọi thứ. Chuyện hôm nay, nếu có người làm tổn thương chúng ta, chúng ta có thể nhìn thấu nó bằng cách: Cậu ta không cố ý, cho nên càng phải tha thứ cho cậu ta hơn, còn nếu cậu ta cố ý, có lẽ kiếp trước là do tôi mắc nợ cậu ta, hoặc tôi không làm tốt sự việc này trong kiếp này, trước đó đã  từ lâu lắm rồi đã kết mối nhân này. Vì vậy, hãy học cách bình tĩnh và nhìn thấu hồng trần, giống như học cách nhìn thấu những việc mình làm trong quá khứ, như hôm nay một đi không quay trở lại. Sau khi nhìn thấu cuộc đời, vẫn có thể yêu cuộc sống như xưa. Vì tôi muốn mượn giả để tu thật, muốn làm việc của Bồ Tát ở thế gian này, tôi đến thế gian không phải đến để phiền não, không phải đến để khổ đau, mà đến để giải thoát cho mình và giúp đỡ người khác – Chúng ta có được tâm thái như vậy mới có thể xem như nhìn thấu. 

Thứ ba là cầm lên được. Như thế nào gọi là cầm lên được? Có nghĩa là một người phải có trách nhiệm. Sư phụ thường nói với các đệ tử rằng: Có làm sai điều gì cũng không sao, người biết thừa nhận là người có khí phách, và Bồ Tát thích điều đó. Người có thể nói mình sai là người có dũng khí, người không trốn tránh, người này không nói dối. Là do bản thân mình làm sai, thừa nhận điều đó và người như vậy sẽ được người khác đánh giá cao. Sự việc này, tôi đã đồng ý rồi thì tôi có thể kham nổi, nếu hôm nay tôi mắc sai lầm, tôi nên nói lời “xin lỗi” với người khác và trực tiếp đối mặt với cuộc sống của chính mình. Làm sai thì có thể sửa, còn giấu trong lòng, nói láo khoác lác, phạm giới luật thì nhân cách của mình sẽ bị hủy hoại. 

Thứ tư là buông bỏ được. Vậy thì buông bỏ gì đây? Không phải chỉ đơn thuần là kêu chúng ta buông bỏ những gì mà chúng ta đã sở hữu. Chẳng hạn như quý vị tranh giành với người khác một thứ gì đó, cái tủ lạnh hay thứ gì đó, “Ồ, thật tuyệt…” Buông bỏ đây không có nghĩa là như vậy. Buông bỏ là gì? Buông bỏ thiên chấp của mình. Quý vị có ý kiến với người này, quý vị phải học cách buông bỏ: “Tôi không muốn nhìn người này, vì người này trước đây đối xử không tốt với tôi, tôi cố chấp, và tôi ghét cậu ta khi nhìn thấy cậu ta” Quý vị có thể buông bỏ không? Bắt đầu ngay bây giờ, nhìn cậu ấy đáng yêu một chút có được không? Cảm thấy cậu ấy đang thay đổi đúng không? Cũng giống như nhiều bạn trong ban thư ký của đài phát thanh chúng ta, đôi khi các con ghét cậu ấy khi nhìn thấy cậu ấy, nhưng hãy nghĩ xem, cậu ấy đang thay đổi sau sự giáo dục của sư phụ, các con nên nhìn thấy sự thay đổi của cậu ấy, từ từ thay đổi thành một người có phẩm chất tốt, lúc này trong tâm các con cần phải sản sinh biến hoá, các con phải buông bỏ thiên chấp của mình, phải quên đi ký ức của mình, ký ức mà cậu ấy đã làm tổn thương con trong quá khứ. Vì vậy, hãy học cách quên đi, quên đi những thiếu sót của người khác, quên đi những tổn hại mà người ta đã gây ra cho mình, ta chính là người được lợi lớn nhất, nếu ngày ngày chúng ta không thể quên đi quá khứ, thì không thể rời bỏ những muộn phiền và u sầu. 

Còn phải buông bỏ bất cam. Bất cam là gì? Là không cam lòng, “Tại sao vậy?” Thầy đã từng quen biết với 1 ông chủ, ông ấy bị phá sản, ông ấy bỏ đi, đến một nơi rất rất xa, người ta bảo ông ấy quay lại: “Có rất nhiều người ở đây có thể giúp ông.” Ông ta nói: “Tôi mà làm không nên trò trống gì thì tôi sẽ không trở về để gặp mọi người!” “Hôm nay ở bên ngoài tôi không phát tài thì tôi sẽ không về!” Cuối cùng ông ấy đã chết ở bên ngoài. Đây là sự chấp trước và không cam lòng của một con người. Chỉ vì đã từng giàu có, không có nghĩa là sẽ luôn giàu có mãi mãi. Nếu ông ấy biết lẽ vô thường, ông đã không tuỳ tiện mà dễ chết như vậy. Cho nên ở đời phải biết buông bỏ dục vọng, bình bình đạm đạm, đơn đơn giản giản, “vô dục tự nhiên tâm như thủy” (không ham muốn, lòng tự nhiên như nước). Làm người phải học những điều này, mới có thể dần dần hiểu thế nào là xuất ly. 

Con người chúng ta, thứ nhất không được phạm nghiệp, thứ hai nếu phạm nghiệp rồi thì phải nhanh chóng sám hối. Đôi khi một sự khuyên bảo từ người khác có thể khiến ta bắt đầu có lại một cuộc sống mới. Vì vậy, đôi khi quý vị có thể nghe được lời khuyên của người khác, đó là điều may mắn của quý vị. Nếu như cho đến bây giờ quý vị vẫn không biết phải làm gì trong thế giới này, không biết rằng có rất nhiều đau khổ trên thế giới này, thì quý vị sẽ càng ngày càng đau khổ hơn. 

Vì vậy, cuối cùng sư phụ nói với mọi người rằng con người có bốn nỗi khổ. 

Nỗi khổ đầu tiên của con người là nhìn không thấu, vì sự việc gì chúng ta cũng không nhìn thấu được. Trên thực tế, sự phức tạp, vướng mắc và đấu tranh trong các mối quan hệ giữa các cá nhân sẽ luôn tiềm ẩn những vết thương – những vết sẹo lúc ẩn lúc hiện không nhìn thấy. Sau khi quý vị cãi nhau với người này, mặc dù quý vị đã nói “không sao đâu, chúng ta chỉ đùa thôi, quên nó đi quên nó đi”, sẽ có một nỗi đau tiềm ẩn đấy – nỗi đau ẩn giấu. Cho nên con người cần phải học, dù có chuyện gì xảy ra cũng phải học cách bình đạm, biết rằng bất kỳ tranh chấp, xích mích gì cũng sẽ để lại hậu quả cho mình. Vì vậy, dù cho người có trí tuệ nhất thì cũng phải học cách im lặng. 

Cái khổ thứ hai là tiếc nuối quá khứ. Nhiều người tiếc nuối những gì họ đã từng có được trong quá khứ, kể cả danh lợi, danh dự, tất cả những thứ này đều trong hoài niệm, “Nghĩ lại năm ấy mình như thế nào…” Đây là một loại phù phiếm, và sự luyến tiếc này sẽ khiến ta càng ngày càng sa sút và càng ngày càng không thể phấn chấn tinh thần, ta chỉ muốn khắp nơi vang lên tiếng vỗ tay kiêu hãnh trong quá khứ của mình, nhưng bây giờ đã không còn, mà vẫn còn nhớ. Luyến tiếc vinh hoa phú quý trong quá khứ sẽ khiến ta tổn thương tim, tổn thương phổi, tổn thương gan và ruột. 

Thứ ba là không vượt qua thất bại. Nhiều người trong chúng ta không thể vượt qua thất bại. Tại sao? Khi thất bại thì cảm xúc của mình sẽ bị tổn thương, khi thất bại thì cảm thấy cuộc sống đã bị thất bại thảm hại. Trên thực tế, trong cuộc sống khi vấp ngã lại tiếp tục đứng dậy được thì chính là như chưa bao giờ gục ngã qua, và cú ngã thực sự là khi ta ngã xuống mà ta không đứng dậy hoặc đứng dậy không được, đó mới gọi là thất bại thật sự. 

Thứ tư là không thể buông bỏ. Con người chúng ta không thể buông bỏ được người và sự việc đã đi qua đời mình, trước đây chúng ta đã từng có rất nhiều bạn tốt và gặp được người tốt, ghi nhớ cả đời những chuyện này trong lòng, giống như chúng ta nhớ ông bà ngoại, ông bà nội, cha mẹ vậy, chúng ta không thể buông bỏ những điều này, chỉ tạo thêm nỗi đau trong lòng chúng ta. Vì vậy, hãy học cách buông bỏ. Vì buông bỏ được thì sẽ khiến cho chúng ta tránh xa đúng sai, người không buông bỏ được thì mãi quanh quẩn trong đúng sai. 

Người học Phật, người có trí tuệ cần biết làm thế nào để tiêu trừ mọi chướng ngại trong tâm, làm sao cho tâm trở nên vô quái ngại. Phải “Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố”, phải hiểu rằng có được trí tuệ thì chắn chắn có thể vượt qua mọi phiền não ở thế gian. Người học Phật luôn thấy được tương lai, luôn thấy được tiền đồ, luôn thấy được quang minh, đó chính là trí tuệ của chúng ta. Khi chúng ta thấy khó khăn, phiền não, đau buồn và đố kỵ thì trong lòng thì sẽ sinh ra năng lượng tiêu cực, mãi mãi không thể phai mờ, sẽ khiến lòng mình luôn sinh ra đau khổ. Vì vậy, người mà có thể gạt bỏ khổ đau, gạt bỏ mọi khó khăn, thì người đó có được trí tuệ tinh tấn, có được nghị lực nhẫn nhục, biết được thế nào là giữ giới, biết được làm thế nào để hướng về quang minh và tránh xa bóng tối. Hôm nay bài “Bạch thoại Phật pháp” giảng cho đại chúng xin tạm dừng tại đây, cảm ơn đại chúng. 

Tập 13
LUÔN ĐỂ TÂM NIỆM KHÔNG TĂNG GIẢM

(14/03/2020)

Xin chào quý Phật hữu. Hôm nay, sư phụ tiếp tục nói về Bạch Thoại Phật Pháp. Mối quan hệ giữa người và người trong chúng ta đều là do duyên phận, có đôi khi là thiện duyên và có đôi khi là ác duyên. Khi thiện duyên đến, chúng ta nên trân trọng nó, vậy thì nó sẽ tiếp tục, vì thiện duyên có một quá trình tiếp nối. Sau khi ác duyên đến, đừng tăng thêm ác quả của nó và đừng để nó bùng phát sớm, mà hãy học cách nhẫn nhịn thì ác quả của nó sẽ không đến ngay lập tức. Thiện và ác đều là duyên phận, nếu hôm nay quý vị không vui vẻ, nhất định là do quả báo nhãn tiền. Nếu là quả báo nhãn tiền thì thiện báo cũng là chính ta nhận, ác báo cũng là chính ta nhận. Trong kinh Phật có nói “Nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ.” Điều này cho chúng ta biết rằng làm người, có đôi khi chúng ta nhìn thấu rồi “đây là một loại quả báo”, thì chúng ta sẽ không chấp trước nữa. Biết rằng hôm nay thiện duyên đến rồi cũng đừng quá vui mừng bởi vì là do mình gieo trồng; biết rằng hôm nay ác duyên đến cũng đừng quá đau buồn, đây cũng là do mình gieo trồng, hơn nữa không ai thay thế được. Ví dụ, người này đã kết oán với quý vị, quý vị nói “người khác thay thế tôi kết oán có được không”, vậy thì không được, người kết oán họ sẽ luôn dán mắt vào quý vị. Nếu hôm nay quý vị có thiện duyên, người khác nói “điều tốt này để cho tôi nào”, cũng không thể, nó phải được trao cho quý vị, bởi vì đó là nhân tốt mà quý vị đã gieo trồng. Cho nên con người cần phải biết nhẫn nhịn, bất luận duyên gì đến, trước hết phải tiếp nhận nó, sau đó mới từ từ thay đổi nó, chịu đựng nó, cuối cùng là hóa giải mối nhân duyên này. Sư phụ nói cho đại chúng biết, thế nào là thụ giới trong “Phật Pháp Tăng”? Thụ giới là bịt kín những lỗ hổng trong phước đức của mình. Quý vị có phúc khí không? Khi còn nhỏ, thầy bói xem cho quý vị, nói rằng quý vị rất có phúc khí, tại sao khi lớn lên lại không có? Khi lớn lên có thể phát tài, khi lớn lên có thể làm quan. Tại sao về sau lại không thể làm quan, lại không thể phát tài? Không có nữa, là do chính mình làm rò rỉ mất rồi. 

Chúng ta phải hiểu rằng, trước hết, một người không được sát sanh, bởi vì nghiệp báo sát sanh rất lớn, sát sanh sẽ lậu tận (tiêu hết) toàn bộ phước đức của mình, bởi vì nếu một người sát sanh, thì chính là cắt đứt hạt giống đại bi của họ – hạt giống đại từ đại bi. Sư phụ hy vọng mọi người hiểu rằng, cho dù quý vị nói: “để tôi tu bổ lại hạt giống đại bi này, để tôi tu sửa phục hồi nó, để tôi niệm kinh, để tôi phát nguyện, để tôi tiêu trừ nghiệp sát sinh trước đây”, có khả năng qua một kiếp, hai kiếp nghiệp này vẫn còn, vì khó có thể tiêu trừ hoàn toàn. Đợi đến khi tái sinh đời sau có Bồ Tát hay chúng sinh đến cứu độ quý vị, những vong linh đó không cho quý vị được cứu độ, quý vị muốn nghe Phật pháp, những vong linh đó cũng không cho quý vị nghe Phật pháp. Đây chính là đạo lý. Người học Phật nên hiểu rằng, dù làm việc gì thì làm người cũng không được tạo ác nghiệp và không thể sống thiếu thiện lành.  

A-la-hán Thánh giả đoạn trừ chấp ngã, nhưng chưa đoạn trừ chấp pháp. Tức là khi quý vị tu đến một trình độ nhất định, cho dù quý vị có tu thành A-la-hán Thánh giả, quý vị có thể tu đến mức không còn kiến tư phiền não (quý vị nhìn thấy một số sự việc, vì do tư duy của chính mình mà dẫn đến phiền não, đó là chấp ngã – A-la-hán Thánh giả có thể không có, nhưng chấp pháp của họ chưa đoạn), nghĩa là mặc dù hôm nay có thể đoạn trừ chấp trước trong tư duy, nhưng không thể giải quyết nó một cách hoàn hảo hơn. Một người vô minh không thể đoạn trừ được chấp ngã, thì càng không đoạn trừ được chấp pháp, bởi vì họ không có lòng từ bi, không biết làm cách nào để giúp đỡ người khác, chỉ biết đến bản thân mình, cho nên họ không giúp được người khác. Vì thế họ sẽ xa phước và gần tai họa. Tại sao có người lại bị xui xẻo còn người khác thì không? Bởi vì họ đang cận kề tai họa. Tại sao họ lại cận kề tai họa? Rất đơn giản là vì họ không phát khởi lòng từ bi, vì họ đã có nghiệp sát sanh trong quá khứ. 

Vì vậy, phải giáo hoá cho các Phật hữu của chúng ta hiểu rằng “nhân duyên chín muồi, nhân quả ắt tới”. Nếu hôm nay nhân duyên cầu Phật của quý vị đã chín muồi thì nhân duyên của quý vị cũng sẽ đến. Nếu nhân duyên cầu Phật của quý vị hôm nay chưa chín muồi thì dù quý vị có cầu xin bao nhiêu cũng không có linh ứng. Bồ Tát thường nói với chúng ta rằng “thủy đáo cừ thành”. Mỗi ngày đều cầu xin, chẳng lẽ chư vị Bồ Tát không biết sao? Bản thân chúng ta đã làm được bao nhiêu công đức? Hôm nay chúng ta đã phát tâm cầu xin như thế nào? Điều này rất quan trọng. Tại sao con người chúng ta có phiền não? Vì nhân duyên chưa đến nên tất nhiên có phiền não. Quý vị cầu xin việc này, vì quả chưa đến, nên quý vị sẽ đau khổ và khó chịu. 

Sư phụ dạy quý vị phải noi gương như Phật, phải “bi trí song vận” (vừa từ bi vừa trí tuệ). Thế nào là “bi trí song vận”? Đại từ đại bi, thương xót chúng sinh, giúp đỡ người khác, khi một bên giúp đỡ người khác thì một bên phải tác thành chúng sinh – Dùng trí tuệ của mình để tác thành chúng sinh, nhiều người nói, thấy người này rất đáng thương mà quý vị lại không nghĩ ra cách giúp họ, vậy thì quý vị chỉ có “bi” mà không có trí tuệ, nếu hôm nay quý vị thương xót họ và sau đó quý vị lại có trí tuệ giải quyết phiền não của họ, vậy thì quý vị chính là người “bi trí song vận”. Hãy nói xem, người có trí tuệ làm sao không thể cứu được người khác chứ? Hãy nghĩ xem, người có trí tuệ làm sao có thể bị “ngu si điên đảo” chứ? 

Là con người, chúng ta phải biết “tự tịnh kỳ ý”, phải biết làm sạch sẽ tâm niệm của mình. Làm sao để mình ngày càng trong sạch? Trước hết phải tu tập “chỉ quán” tức là luôn luôn giữ cho tâm “vô quái ngại”. Cũng giống như một căn phòng, quý vị đừng để đồ đạc lấp đầy, nếu trống không, khi bước vào sẽ rất thoải mái, cũng như phòng khách ở nhà, nhiều người để đồ đạt chất đầy phòng khách của mình, quý vị bảo người khác ngồi ở đâu? Hôm nay chúng ta để cho trong não mình nhét đầy danh, văn, lợi dưỡng của thế gian thì quý vị nói xem, làm sao quý vị có thể ngăn được suy nghĩ của mình chứ? Làm sao có thể ngưng được sự quan sát của chúng ta với nhân gian? 

“Chỉ quán” tức là tham thiền. Tham thiền là gì? Đối với những sự việc trong nhân gian cần có ngộ tính để hiểu nó, lý giải nó: Tại sao người này lại làm việc này? Tại sao ta thích người này nhiều như vậy và tại sao ta không thích người kia? Tất cả những điều này đều phải “tham thiền”. Phải suy nghĩ. Vậy nghĩ như thế nào? 

Trí tưởng tượng do thiền định tạo ra không phải là quán tưởng, mà là “thiền”. Thiền là gì? Đó là một loại nhận thức tự nhiên, làm cho quý vị cảm nhận được sự tồn tại của một sự vật nào đó và cả sự ảnh hưởng của nó đối với quý vị và còn có cả sự sản sinh cảm giác trong tâm quý vị về nó. 

Con người chúng ta ngày ngày thường cầu nguyện Bồ Tát: “Bồ Tát, Ngài gia hộ…” Nhưng thực ra, làm người lại có những tạp niệm, tạp loạn vô chướng (vọng tưởng hỗn độn), trong đầu mỗi ngày thứ gì cũng có nhưng lại không có Phật. “Ăn gì, mặc gì, tôi nên làm thế nào để tốt hơn, tôi nên làm thế nào, làm những gì…” Mỗi ngày đều sống trong tạp niệm, khiến cho mình mất đi rất nhiều trí tuệ, nên sự thất vọng cũng theo đó mà ra. Tục ngữ có câu “Nhân chi thất ý, thập chi bát cửu” (trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều những sự việc không như ý muốn) ai cũng sẽ gặp rất nhiều thất ý, không vui, không thoải mái. 

Làm thế nào để kiềm chế sự thất ý của bản thân? Làm thế nào để ngăn chặn chính bản thân mình? Bồ Tát bảo chúng ta phải “trị chi dĩ nhẫn” (dùng nhẫn trị nó), người biết nhẫn nại thì từ từ sẽ hóa giải được sự bực tức của mình. Quý vị thấy đó rất nhiều người khi không vui họ vẫn có thể chịu đựng và tiếp tục cười hihi, khi thấy chồng gây chuyện với mình thì người vợ cũng cười hihi, vì cô ấy biết rằng đây là vô thường, rồi cũng sẽ qua thôi, “trị chi dĩ nhẫn” (dùng nhẫn trị nó) đó là cô ấy biết kiềm chế. 

Khi chúng ta vui vẻ, thoải mái đến thì “trị chi dĩ đạm” (dùng đạm trị nó), cách trị liệu nó là đạm – bình đạm. Vì vậy, vui cũng đừng vui quá, buồn cũng đừng buồn quá. 

“Luôn giữ tâm không tăng không giảm”, tức là thường làm cho tâm không thêm không bớt. Lúc vui thì tăng cảm xúc hân hoan, hạnh phúc. Lúc không vui thì giảm hết cảm xúc, thấy không thú vị nữa đây chính là “giảm”. Một người thuộc loại âm (khí), mà âm thì nhìn cái gì cũng không thú vị, làm việc gì cũng không thú vị, nghĩ đến việc gì cũng không có ý nghĩa. Hôm nay quý vị không vui, người khác nói: “Nào, tôi đưa cậu đi chơi, mình đi mua sắm.” “Tôi không hứng thú.” “Chuyện hôm nay cho qua đi đừng nghĩ nữa” “Tôi không hứng thú, tôi không muốn đi, tôi không muốn đi ra ngoài” Khi đó tâm quý vị sẽ tăng giảm. “Tâm Kinh” đã cho chúng ta biết rằng “Bất tăng, bất giảm”, thực ra là nói về cuộc sống của chúng ta, thấy điều tốt thì cũng không nên tăng, tâm trạng vui mừng, thấy điều xấu thì buồn chán cả ngày, như thể thế giới này toàn bộ đều là… Điều này sẽ mang lại cho chúng ta những phiền muộn. Trước đây có câu nói, nói rằng: “Khi đứng lên thì không thấy con kiến nào, nhưng khi ngồi xổm xuống thì rất nhiều kiến“ Chân tâm của một người “bất tăng diệt”, không tăng không giảm, là “danh nhập đạo chi nhân” – người đã khai ngộ được một chút rồi. Trước đây cổ nhân thường nói, “Chư vị khai ngộ chưa?” Kỳ thực họ không nói quý vị “Khai ngộ”, mà họ nói: “Chư vị đã đắc đạo rồi, chư vị đã nhập đạo rồi.” Nhập đạo là gì? Vừa mới bước vào giác ngộ. Đắc đạo là gì? Quý vị đã giác ngộ. Sự soi sáng của Phật pháp là vô cùng, vô cùng quan trọng. 

Con người phải học cách bao dung lỗi lầm của người khác. Bất kể họ có làm sai điều gì, chúng ta phải có khả năng khoan dung họ, bởi vì họ không phải là ta, tâm của ta không tiêu biểu cho tâm của họ, hành vi của ta không tiêu biểu cho hành vi của họ, nếu ta không thể khoan dung họ, tức là trái tim của ta không thể bao dung họ. Có nhiều người làm việc quả thực hoàn toàn không vừa ý, thực sự không suôn sẻ như mình mong muốn, nhưng quý vị phải biết rằng tất cả mọi người và mọi vật trên thế gian này đều không phải dành cho chúng ta sử dụng – Họ đến nhân gian không phải vì quý vị mà đến, người ta đến là vì có oán báo oán, có thiện trả thiện, có thù báo thù, họ đến nhân gian là có việc của họ. 

Không vì ta mà có, không vì ta mà dùng. Trên đời này, không phải bất cứ thứ gì chúng ta đều luôn có thể dùng được mãi, cũng không có thứ gì luôn có được nó mãi. Có được loại trí tuệ này của Bồ Tát thì sẽ dần dần hiểu rằng những dục vọng của con người không bao giờ làm cho chúng ta đạt được sự thỏa mãn. Quý vị nghĩ xem trên đời này có điều gì có thể làm cho quý vị hài lòng không? Cho dù quý vị nói “Hôm nay tôi hài lòng rồi”, ngày mai lại không hài lòng; Việc này hài lòng rồi, việc kia quý vị lại không hài lòng nữa. Cho nên con người luôn sống trong đau khổ với những ước muốn không được toại nguyện. Sư phụ sẽ cho quý vị biết tại sao không thể thỏa mãn. Thực ra, sự thỏa mãn là do ham muốn. Ham muốn không được toại nguyện, vậy thì lấy đâu ra sự thỏa mãn? Dục vọng đến từ đâu? Dục vọng giống như virus, chúng có khả năng sinh sản, bởi vì các ham muốn sẽ kết nối với nhau. Ví dụ như hôm nay quý vị có một chiếc ô tô và nó chạy rất tốt, khi nhìn thấy xe của người khác tốt hơn xe của mình, lập tức nảy sinh ham muốn – nó có sức sinh sản; sau đó quý vị lái xe của người khác và cho rằng nó tốt, sau khi mua một chiếc rồi, lại thấy một chiếc xe khác: “Ồ, chiếc xe đó tốt”, và dục vọng lại đến. Tại sao về sau có nhiều cuộc hôn nhân tan vỡ? Vì ham muốn của họ không được thỏa mãn. Họ sẽ nhìn thấy thứ này và nghĩ rằng thứ kia tốt, sau khi nhìn thấy thứ kia, lại nghĩ thứ này tốt. Sau khi xem ngôi nhà này, lại nghĩ ngôi nhà đó tốt. Nhiều người mua nhà như thế này: Tôi thích cấu trúc của ngôi nhà này, và tôi thì thích cấu trúc các phòng của ngôi nhà kia… Tôi thích bên trong của nó, nhưng tôi không không thích vẻ ngoài của nó… Một số khác lại nói: “Tôi thích vẻ ngoài của ngôi nhà, nó rất kiểu cách, nhưng khi bước vào thì nó rất nhỏ.” Giống như quý vị ở trong khách sạn, có những phòng rất là rộng, nhưng cửa chính của khách sạn không đẹp lắm. Cảm thấy xấu hổ, khi khách tiễn quý vị về đến gần đó, nghĩ về mặt tiền cửa chính của khách sạn mà mình đang ở rất nhỏ: “Xin dừng chân, xin dừng chân, xin mời cậu vui lòng lui về” có đúng không? Nếu trên đó căn phòng của quý vị ở rất lớn: “Đừng nhìn vào mặt tiền cửa chánh xấu xí của nó, cậu đi lên với tôi, vào phòng của tôi”, để người khác thấy căn phòng của quý vị rộng rãi như thế nào. Thực ra đây là dục vọng. Dục vọng của con người luôn được tăng cường bởi khả năng sinh sản của nó, bởi vì ham muốn có tính chất gây nghiện. Giống như nhiều người ăn thức ăn, một số người họ làm những việc mà bản thân họ thích, họ sẽ nghiện nó. Lấy một ví dụ đơn giản, khi chúng ta còn nhỏ, một người bạn học ở trong lớp, khi giáo viên bước vào, bạn ấy nói “mời đứng lên”, tất cả học sinh đều đứng dậy. Sau khi các bạn học sinh đứng dậy và nói “Chào thầy”, và người thầy nói “Chào các em, mời các em ngồi”. Người bạn đó sẽ nghĩ “mời đứng lên” câu này khiến bạn ấy nở mặt, bạn ấy có dục vọng và sẽ nghiện, nếu để bạn ấy đưa ba chữ này cho người khác, để người khác hô khẩu hiệu này, bạn ấy sẽ không vui. Sư phụ nói cho đại chúng biết, trong kinh Phật có nói, “Vu hư vọng xử” làm tăng cường sự phân biệt chấp trước (rỗng không, huyền ảo, những thứ này không trường tồn, gọi là hư vọng xử). Tâm phân biệt: “Ôi! Mình không giống các bạn khác, cậu xem, mình là lớp trưởng” cố chấp gì chứ? “Đây là vị trí của tôi, và nhất định phải để tôi hô nó.” Thực ra chỉ có ba chữ “mời đứng lên”, có lớp thì chỉ hô có hai chữ “đứng lên” mà thôi. 

Tập 14
TỰ CHỦ PHIỀN NÃO, BÁT NHÃ TƯỚNG TRÍ

(14/03/2020)

Nghiệp chướng hình thành như thế nào, sư phụ nói cho đại chúng biết, nghiệp chướng là sự phân biệt và chấp trước ở xứ vọng tưởng. Cho nên con người không nên chấp trước: “Cái này của tôi, cái kia của cậu ta”. Người đời phải học cách có trách nhiệm với pháp luật, còn chúng ta, những người học Phật tu tâm phải học cách có trách nhiệm với nhân quả. Hôm nay chúng ta có nhân quả không? Gieo nhân rồi thì có quả không? 

Con người cần giác ngộ sớm, thì sẽ ngộ đạo sớm hơn. Nhưng nhiều người sống ở thế gian mà không học Phật thì “bệnh đáo phương tri thân thị khổ” (đến khi bệnh mới biết cái thân này là khổ) Nhiều người cảm thấy sức khỏe tốt, không ốm đau, đến khi bị đau thắt lưng rồi thì… Quý vị có thể thấy nhiều người khi chân còn khỏe thì đi lại tung tăng, không cảm nhận được sự khó chịu ở đôi chân; 

Khi một ngày nào đó chân không cử động được, chống gậy rồi thì mới biết “tôi chịu khổ”, đợi đến khi họ khỏe lại rồi lại quên mất. Họ chưa bao giờ nghĩ rằng “Hôm nay tôi đi được bằng hai chân, đi được tốt như vậy, đó là do tôi đã an dưỡng và chú ý đến sức khỏe của mình, nên tôi mới có được sự báo đáp như ngày hôm nay” khi đối xử tốt với người khác cũng như vậy, bởi vì tôi đối xử tốt với người khác, nên tôi mới nhận được sự báo đáp – Người khác đối xử tốt với tôi. Vì vậy, khi khỏe thì nên nghĩ đến khi ốm, đó chính là triết học quan. Khi gặp khó khăn, hãy nghĩ về tương lai, nó sẽ tốt lên thôi. Khi hôm nay quý vị vẫn còn rất hạnh phúc, thì quý vị phải nghĩ rằng có thể có những lúc đau khổ trong tương lai. Chuyện gì cũng cần giữ lại một chút, giữ lại một phần trí tuệ, trí tuệ chính là để giúp chúng ta cân bằng giữa đau khổ và vui sướng, hạnh phúc và phiền muộn trong lòng. 

“Nhân bất cầu sự, sự tự nhiên thành”. Nhiều người nói ngày ngày cầu xin thì không linh ứng, khi ta đem việc cầu xin buông xuống rồi thì có một ngày nào đó sẽ nhận được thông báo thành công. Chỉ cần chúng ta nổ lực, cuối cùng thành công chắc chắn thuộc về mình. Cho nên “chỉ quản canh vân, bất vấn thu hoạch” (chỉ lo cày cấy mà không màng thu hoạch) đó là một loại trí tuệ. Cuộc sống của chúng ta vốn dĩ không quá nhiều đau khổ, không quá nhiều phiền não, không quá nhiều âu sầu, nhưng khi dục vọng của chúng ta quá mạnh mẽ, khi chúng ta so đo quá nhiều, chúng ta gánh chịu quá nhiều đau khổ, phiền não và buồn lo, thì dục vọng lại phát sinh. Bởi vì khi chúng ta có quá nhiều đau khổ thì ham muốn của chúng ta bắt đầu nảy sinh: “Làm thế nào để tôi có thể thay đổi nó, để không làm khổ bản thân mình nữa” đây cũng là một loại dục vọng. 

Dục vọng có thiện dục và cũng có ác dục. “Tôi muốn thay đổi bản thân để trở nên tốt hơn…” Loại dục vọng này, mặc dù không thể đạt tới cảnh giới rất cao, nhưng là một loại thiện dục. “Hôm nay tôi nhất định phải giúp con gái tôi thì vào trường trung học ưu tú”, đây có phải là dục vọng không? Phải. Nó có phải là loại dục vọng ác không? Không, nó chỉ là một loại thiện dục ích kỷ. 

Sư phụ nói cho quý vị biết, nếu quý vị có được cảnh giới, quý vị sẽ để dục vọng đặt ở mức thấp nhất “Chỉ lo cày cấy”, giúp con ôn bài cho tốt và nói với con: “Con ơi, con thi đậu là phúc phần của con, nếu hôm nay con thi không đậu, chúng ta cũng không nản lòng, cùng nhau cố gắng tu sửa.” Chỉ khi biết cách kiểm soát ham muốn của mình, chỉ những người biết hạn chế ham muốn của mình thì mới có thể tận hưởng hạnh phúc thực sự trên nhân gian. Thử nghĩ xem, người không có ham muốn có hạnh phúc không? Ăn cơm, thứ gì cũng ăn được, có hạnh phúc không? “Thứ này tôi không thích ăn, thứ kia tôi không muốn ăn” họ ăn cơm đều không cảm thấy ngon, họ đều có dục vọng, họ đều bị đau khổ, đúng không? Mọi người nói: “Chúng ta cùng nhau đi chơi nhé?” “Tôi không thích đi chơi với các bạn, vì có cậu ấy đi, nên tôi sẽ không đi” Hãy xem xem ham muốn của bạn ấy có phải làm bạn ấy mất đi nhiều hạnh phúc không? Điều này có nghĩa là không thể thuận theo duyên phận! Chỉ những ai biết vô ưu mới tận hưởng được thế nào là sự hòa hợp ở thế gian và thế nào là sự tuỳ duyên của Bồ Tát. Không quan trọng, gặp một lần ít đi một lần, hôm nay chúng ta kết bạn với nhau, tùy duyên cùng nhau làm một việc gì đó, đó là phúc phần của tất cả chúng ta, cho thấy rằng chúng ta vẫn còn có duyên với nhau. Chỉ những người biết cách không suy tính thiệt hơn và chỉ những người biết cách thực sự buông xả chính mình, mới có thể tận hưởng được sự tự tại và bình lặng của cuộc sống. 

Khi đã được an nhiên tự tại thì cảnh giới tiến thêm một bước nữa đó chính là giải thoát, giải thoát là gì? Giải thoát là không còn phiền não. Nhiều người thường nghe pháp sư nói: “Cậu phải giải thoát, cậu phải buông xả”. Nhiều người không hiểu nên hỏi: “Sư phụ, giải thoát là gì? Buông xả là gì? Buông xả cái gì?” Giải thoát, như sư phụ vừa nói, có nghĩa là không phiền não. Hôm nay quý vị có phiền muộn không? Quý vị nghĩ không thông nhưng nếu nghĩ thông rồi thì sẽ được giải thoát. Buông xả là gì? Buông xả có nghĩa là không nghĩ về nó. Nếu quý vị nói không muốn nghĩ nữa, thì sự việc này vẫn còn đó, vậy thì sư phụ hỏi quý vị: Nếu nghĩ rồi thì sự việc này có còn không? Vẫn còn. Quý vị có giải quyết được không? Không giải quyết được. Nếu không thể giải quyết được, thì bây giờ đừng nghĩ về nó, có được không? Được. Vậy quý vị niệm kinh rồi sau đó hãy nghĩ về nó, nói không chừng sự việc này đã được giải quyết rồi thì sao? Vậy thì chẳng phải quý vị đã buông xuống rồi sao? Ít ra trong khoảng thời gian buông xuống không nghĩ ngợi, là quý vị đã biết buông xả và đã biết giải thoát. Sau khi sư phụ giải thích theo cách này, mọi người đều hiểu. Thực ra, Phật pháp là để giúp chúng ta giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong cuộc sống. Tinh thần đích thực của Phật pháp là gì? Đó là giúp quý vị không bị vướng bận bởi những phiền não trong tâm mình, không bị khống chế bởi những ham muốn trong tâm mình và không bị lung lay bởi những tạp niệm của thế gian. Buông xả được tức là tu tâm, có thể giải thoát được là có trí tuệ. Người có trí tuệ thì họ sẽ nghĩ thông; không có trí tuệ thì làm sao họ có thể nghĩ thông được? Nhiều người nói: “Xếp hàng, xếp dài lắm, rất ghét. Xếp hàng dài mới mua được một món đồ, phiền lắm, không vui.” Nhưng có một số người nhìn vào đó thì nói: “Ai cũng như tôi, đều phải xếp hàng chờ, tại sao họ có thể đợi được, tôi lại không đợi được chứ?” Vừa nghĩ là đã thông rồi, buông xuống và không phiền não nữa, đây chính là buông xả. 

Sư phụ nói cho quý vị biết, tu hành, tu đến cuối cùng, có thể tự chủ được phiền não, có nghĩa là tự mình khống chế phiền não của mình. Khi phiền não đến, nghĩ không thông, không vui vẻ, hãy quên nó đi, “Hôm nay tôi có thể nghĩ thông suốt”. Hôm nay kẹt xe trầm trọng, quý vị đã không kịp giờ, quý vị rất khó chịu: “Kẹt xe thế này thì đi làm, phải làm sao đây?” Nhiều người muốn gấp rút đi, thì họ bực mình, họ không có trí tuệ, còn người có trí tuệ sẽ lập tức nhắn tin: “Tôi tên gì gì đó, Xin lỗi! Hôm nay tôi ngồi xe bị kẹt xe quá, hiện giờ kẹt ở đoạn đường nào, xin bạn hãy nói với tổ trưởng một tiếng” Vậy là xong rồi. Cậu ta ngồi trên xe sẽ không thấy nóng vội nữa, đây là giải quyết phiền não bằng trí tuệ. Và nhiều người thì ra sức cuống lên, muốn lao đến đó trong vài phút, cho dù còn có năm phút, liều mạng chạy vội chạy vàng.” Sau khi người này chạy vội xông vào, tất cả người trong bộ phận nhìn thấy người này vào đều biết người này đến muộn. Nhưng người đã gọi điện thoại qua thì từ từ thong thả khoảng nửa tiếng sau mới đến, người khác còn tưởng rằng cậu ta đi công tác mới về. Đây là trí tuệ, con người phải học cách buông xuống. 

Người có thể tiêu trừ nghiệp chướng là người có thần thông. Người có thể giải quyết được phiền não chẳng lẽ họ không có thần thông sao? Tại sao quý vị không có thần thông? Tại sao quý vị nghĩ không thông, quý vị có phiền não. Tại sao họ có thể nghĩ thông? Tại sao họ có thể giải quyết vấn đề? Họ có thần thông. “Thần” là gì? Tinh thần. “Thông” là gì? Nghĩ thông. Tinh thần nghĩ thông, không phải được gọi là “thần thông” sao? 

Thầy mong quý vị nổ lực học Phật thật tốt và phải biết cách thoát khỏi nghiệp chướng, giải thoát phiền não và giải thoát vô minh, tất cả đều là giải thoát. “Giải” là gì? Có nghĩa là phải gỡ, phải tháo ra. “Thoát” là gì? Thoát ly. Quý vị thoát ly phiền não, chẳng phải có trí tuệ rồi sao? Quý vị thoát ly nghiệp chướng, chẳng phải có công đức rồi sao? Quý vị thoát ly vô minh, quý vị nói xem quý vị có được bát nhã không? Dĩ nhiên là có trí tuệ bát nhã. Chỉ bằng cách này quý vị mới có thể Chánh tín Chánh niệm tu hành. Khi quý vị đã tu hành với Chánh tín Chánh niệm đến một trình độ nhất định, chẳng phải là Chánh Đẳng Chánh Giác rồi sao? Chánh Đẳng Chánh Giác đó là Bồ Tát. Sau khi quý vị Chánh tín Chánh niệm tu đến Chánh Đẳng Chánh Giác tiếp tục tu và tu rất nổ lực, cuối cùng chẳng phải tu đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rồi sao? Đó chẳng phải là thành Phật rồi sao? 

Chúng ta nói tu tâm rất khó, nhưng thực ra cũng rất đơn giản, đó là tu Tứ Vô Lượng Tâm (Từ bi hỷ xả). Quý vị dùng Tứ Vô Lượng Tâm để kiểm soát mình. Quý vị phải từ, phải bi mẫn {thương xót} chúng sinh, phải từ thiện. Quý vị phải có tâm hoan hỉ, khi nhìn thấy ai đều cười hihi và nhìn thấy việc gì đều làm một cách vui haha. Xả tức là bố thí. Hôm nay bố thí tài, bố thí pháp và bố thí vô úy. Chỉ cần hôm nay có thể giúp đỡ người khác, thì sẵn sàng đi giúp đỡ người khác. Quý vị chẳng phải đang làm việc của một vị Bồ Tát rồi sao? Chẳng phải quý vị có được Tứ Vô Lượng Tâm rồi sao? Nhiều người nói: “Tôi không thể thành Bồ Tát, tôi không thể thành Phật vì tôi quá ích kỷ.” Không có, quý vị không phải ích kỷ, mà quý vị không dám vượt lên và chiến thắng những ham muốn ích kỷ trong tâm mình, nếu quý vị vượt lên và chiến thắng những ham muốn ích kỷ trong tâm mình thì sẽ có được tâm vô lượng. Phải hiểu rằng, trong tâm thường nghĩ đến nỗi đau của người khác, và phải cảm nhận được nỗi khổ của người khác. Khi người khác gặp khó khăn, quý vị sẽ rất đau khổ. Khi người khác đau khổ, trong lòng quý vị luôn nghĩ: “Họ rất đau khổ, mình muốn giúp họ giải quyết”. 

Quý vị phải tiếp thêm sức mạnh cho người khác, các đệ tử phải học từ sư phụ, khi người khác đau khổ, sư phụ luôn nói với họ: “Cậu phải kiên trì, và cậu phải tin vào Quán Thế Âm Bồ Tát nhất định sẽ cứu cậu thôi”. Sư phụ cho họ sức mạnh kiên cường như vậy đó, họ tự tin rồi thì họ có thể sống một cuộc sống tốt, đúng không? 

Hơn nữa quý vị phải phát tâm hoan hỷ khi giúp đỡ người khác. Nhiều người đi giúp đỡ người khác và dọa họ: “Coi kìa, coi kìa cậu bị báo ứng đấy! Tại cậu tu chưa tốt, cậu thấy không quả báo đến rồi đó! Cậu thấy đó mắc loại bệnh này rồi đó! Cậu phải cố gắng tu tập hơn nữa mới được, nếu cậu không tu, sẽ chết bất kì lúc nào, Bồ Tát cũng không lay động được nhân quả đâu”. Quý vị nói thử xem, họ có còn sống nổi được nữa không? Làm sao mà cứu độ được họ đây? Cho nên, người có trí tuệ đích thực, giúp đỡ người khác phải hoan hoan hỷ hỷ. Có một số người rất thích cười, rất thích vui mừng hớn hở đi giúp đỡ người khác, thực ra đây cũng là một loại bố thí, họ luôn mang lại niềm vui cho người khác. “Cậu đừng lo lắng, không sao cả. Nhiều người cũng bị bệnh giống như cậu và họ đã nhờ niệm kinh mà khỏi bệnh. Cậu hãy xem trước đây tôi mắc bệnh gì, bây giờ tôi đã nhờ niệm kinh mà khỏi bệnh. Đó là sự thật. Vì vậy, tôi hy vọng cậu cũng giống như tôi, hãy vui lên nhé.” 

Tế bào ung thư sợ hãi khi nhìn thấy hạnh phúc. Những thứ không tốt như tế bào ung thư có sợ hãi khi nhìn thấy Bồ Tát không? Sợ chứ! Có hai loại mà những thứ đó đều sợ. Một loại giống như Kim Cang Bồ Tát, nó đều sẽ sợ, vậy thì trong lòng quý vị phải có Kim Cang Bồ Tát. Còn một loại khác, chúng nó cũng sợ, khi Di Lặc Bồ Tát đến, Di Lặc Bồ Tát vừa cười haha, là chúng nó đều chạy tán loạn. Vì vậy, pháp hỷ của một người cũng có thể cứu người. Có rất nhiều người khi mà vui vẻ, thì người đó có thể thay đổi quan niệm, họ sẽ không còn buồn rầu, ủ rũ và không bi thương nữa. 

Bỏ thì giờ quý báu, tiền của, và thậm chí hy sinh cả mạng sống của mình để cứu độ chúng sinh, đây chính là chân đế của Tứ Vô Lượng Tâm, và ý nghĩa thực sự của nó là ở chỗ đó. Học hạnh từ bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, tiếp tục kiên trì tu tập thì làm sao mà không thành Phật được, cho nên người muốn thành Phật thì phải dùng tâm, người dùng tâm mới có thể thành Phật. 

Chúng ta cần phải hiểu trí tuệ, trí tuệ đây là trí tuệ Như Lai, không phải trí tuệ của con người. Trí tuệ của thế gian là tính toán lợi thế hơn thiệt, “Sự việc này đi đường này tôi có thể tiết kiệm được một ít, chuyện kia tôi có thể tiết kiệm được một ít”, không phải như vậy. Trí tuệ của Như Lai là một loại trí tuệ đại từ đại bi và đại trí tuệ, không phải là trí tuệ của thế gian. 

Trí tuệ cũng có thể gọi là Bát Nhã tổng tướng trí, “Bát Nhã” là trí tuệ của Bồ Tát. Thực ra, khi một người thực sự học được trí tuệ của một vị Bồ Tát, thì người ấy có thể làm được mọi việc… tức là khi trí tuệ, đức năng của người ấy được hiển lộ đầy đủ. Trong trường học, mọi người đều rất thích chơi cùng người bạn học này, bởi vì bất kỳ vấn đề gì bạn ấy đều có thể nghĩ ra cách, và bạn ấy có thể giải quyết nó, bởi vì bạn ấy có thể phân biệt được trí tuệ của con người. “Tổng tướng trí” nghĩa là gì? Đó là trí tuệ của một vị Bồ Tát, bạn ấy có thể biết được trí tuệ này là cao cấp hay thấp kém, và đó là trí tuệ ích kỷ hay trí tuệ vô ngã. Phải làm được “Bát nhã biệt tướng trí”, tức là trí tuệ Bát Nhã của Bồ Tát phân biệt bởi các hình tướng khác và các trí tuệ khác của nó, tức là nó khác với hình tướng của thế gian con người. Nếu chúng ta có thể biết, hiểu được thói quen và tính cách của mọi người thì chúng ta sẽ có được tổng tướng trí, đó gọi là “Bát nhã nhất thiết trí”. Một người có được trí tuệ đích thực là đối với bất cứ chuyện gì họ đều có trí tuệ. Một số người có trí tuệ ở sự việc này nhưng không có trí tuệ ở sự việc khác, có một số người ở khía cạnh này rất có trí tuệ nhưng ở khía cạnh khác lại không có trí tuệ. Vì vậy, Bát nhã tổng tướng trí là hết thảy trí tuệ. Tu hành nhất định phải hiểu trí tuệ, đây gọi là nhất pháp tương ứng. Pháp nhất định phải tương ứng, tất cả những người học Phật, tất cả những người có trí tuệ, thì đều có trí tuệ. Tất cả những người cảnh giới cao, người tu học tốt, họ nhất định có được trí tuệ bát nhã. Pháp pháp đều thông, người học Phật đều như vậy, bất kể pháp môn nào, trưởng lão, thượng sư, đại hoà thượng, họ đều có trí huệ. Từ xưa đến nay đã có rất nhiều Cao Tăng Đại Đức, quý vị hãy nghe những gì họ nói ra, trí tuệ bố thí pháp mà họ mang đến cho nhân gian, đó đều là Bát nhã và rất cao quý. 

Tự mình phải kiểm tra bản thân xem có trí tuệ hay không, quý vị sẽ biết được bản thân tu tâm đã tu đến trình độ nào. Quý vị gặp chuyện thì đau khổ, gặp chuyện thì phiền não, gặp chuyện thì nghĩ không thông, vậy thì xin lỗi! Quý vị chỉ mới bắt đầu nhập môn. Nếu quý vị có thể nghĩ thông khi có chuyện gì đó xảy ra. Khi chuyện xảy ra mặc dù sẽ hơi buồn, nhưng nó sẽ trôi qua trong chốc lát, vậy thì quý vị đã nhập môn rồi.  

Tập 15
PHI HỮU PHI VÔ, TU XUẤT MINH ĐIỂM

(14/03/2020)

Chúng ta thường nghe chuyện chứng đắc quả A La Hán trong các câu chuyện Phật giáo, nhưng thực ra “chứng đắc” là một loại ngộ tánh, một loại khai ngộ. Nếu quý vị tu cho đến khi không rò rỉ (vô lậu) không để cho công đức bị rò rỉ, thì quý vị đã thành công. Còn một loại không rò rỉ khác nữa đó là quý vị phải rò rỉ cho hết sạch (lậu tận), phải để cho phiền não của mình rò rỉ sạch, để cho thống khổ của mình rò rỉ sạch, lậu tận, để cho dục vọng của mình rò rỉ sạch. Tiếp tục tu, tu đến cuối cùng sẽ tu ra một điểm sáng xuất hiện, giống như một quả bóng sáng chói, một quả bóng trí tuệ sáng chói, như vậy điều này trong Phật pháp giới được gọi là “minh điểm”. Minh điểm này chính là điểm sáng trong tâm, “việc gì tôi cũng có thể giải quyết được, việc gì tôi cũng có giải pháp”, điểm sáng này chính là điểm sáng trí tuệ của quý vị. Sau một thời gian dài, trong mắt quý vị sẽ thấy “người này là người tốt, kia là người xấu”, “việc này tôi có thể làm, việc kia tôi không thể làm”, sau đó trong tâm sẽ có một đốm sáng, và đốm sáng này chính là điểm ánh sáng. Điểm ánh sáng này sẽ làm cho quý vị nhìn thấy ánh Phật quang của Amala thức, thức thứ chín trong tâm mình, và quý vị sẽ minh tâm kiến tánh, sẽ cảm thấy thờ ơ với mọi thứ trên nhân gian. Biết rằng tất cả những điều này đều là không quan trọng, những điểm sáng của quý vị sẽ ngày càng tích lũy nhiều hơn, càng tích càng lớn và khi tích lũy được một lượng trí tuệ nhất định, một lượng bát nhã nhất định thì sẽ trở thành “đàn thành” {mandala} trên đầu quý vị. Nhiều người không biết vì sao trên đầu chư Bồ Tát luôn có những vòng tròn hào quang, đó chính là điểm ánh sáng của các Ngài, là “đàn thành” của các Ngài, là kết tinh trí tuệ, kết tinh bát nhã của các Ngài. Nếu quý vị có điểm sáng của trí tuệ bát nhã, quý vị có thể “thần hành đạo”, tức là tinh thần của quý vị có thể đi đến Tứ Thánh Đạo. Không tranh giành với người khác bất cứ thứ gì, không cướp đoạt của người khác bất cứ thứ gì, tinh thần của quý vị có thể giải quyết mọi phiền não trên đời, mặc dù thân quý vị còn ở thế gian, nhưng tinh thần của quý vị đã được giải thoát, và đã đi vào Tứ Thánh Đạo, tức là một vị A La Hán, tức là đã thành Phật Bồ Tát. 

Ở nhân gian đôi khi chúng ta rất muốn lên thiên đường, nhưng chỉ có thể lên thiên đường trong giấc mơ. Khi quý vị mơ thấy mình đang ở trên thiên đường, đó có thể là pháp thân của quý vị, khi người khác mơ thấy quý vị, đó cũng có thể là pháp thân của quý vị. Có thể nhìn thấy thân thể ở nhân gian của quý vị, đó là một báo thân – thân chịu báo. Thấy hóa thân của mình biến thành pháp thân, và từ từ dùng trí huệ của mình thăng lên cảnh giới Tứ Thánh Đạo của Bồ Tát, vậy thì quý vị sẽ minh tâm kiến tánh. 

Phi hữu phi vô (không phải có cũng không phải không), quý vị cho rằng mình là người hay là Bồ Tát ở nhân gian? Người khác nói không biết. Mọi việc quý vị làm, người khác đều gọi quý vị là Bồ Tát. Bởi vì quý vị luôn giúp đỡ người khác, không tính toán chi li, có thể nhẫn nại, có thể hy sinh cho người khác, quý vị chính là một vị Bồ Tát. Thế thì quý vị đã là Bồ Tát rồi sao còn có cái thân? Quý vị là người, tại sao cảnh giới lại cao như Bồ Tát? Vậy rốt cuộc quý vị là Bồ Tát hay là người đây? Phi hữu phi vô (không phải có cũng không phải không) phi tâm phi Phật (không phải tâm cũng không phải Phật), đây chính là sự nâng cao của cảnh giới. Có một số người tốt, quý vị đã không coi họ là một con người nữa rồi, họ suốt ngày làm việc thiện và giúp đỡ người khác, họ không còn giống người thường nữa, họ là một vị thánh nhân, cho nên khái niệm là như vậy. Tinh thần của họ khiến chúng ta có được vui vẻ và hạnh phúc, điều đó không thể diễn tả bằng lời, mà là cảm giác. Cũng giống như Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài giúp đỡ và yêu thương chúng ta, đó không phải là điều chúng ta có thể hiểu bằng lời, cũng không phải hoàn toàn là cảm giác của chúng ta không đâu, mà đó chính là sự biết ơn từ trong tâm chúng ta. Vì chúng ta cầu xin một điều rất nhỏ, Bồ Tát đều hữu cầu tất ứng, Vì vậy, chúng ta còn ngôn ngữ nào để có thể giải thích và hiểu được sự chăm sóc tỉ mỉ (vô vi bất chí), quan ái từ bi của Bồ Tát đối với chúng ta nữa đây? Con người sống trên thế giới này. Tu hành phải hiểu được trí tuệ là gì. Nếu quý vị không hiểu trí tuệ thì dần dần sẽ mất đi trí tuệ, quý vị không hiểu như thế nào là từ bi thì dần dần trở nên độc ác, quý vị không hiểu được như thế nào gọi là giúp đỡ người khác thì dần dần không thể giúp được chính mình. Chúng ta phải hiểu rằng để sống trên thế gian, chúng ta cần phải “diệu dụng nhi hoá chi” – diệu dụng Phật pháp để chuyển hóa thành trí tuệ của chúng ta. Phật pháp là trí tuệ tốt nhất của con người chúng ta, nó có thể giúp chúng ta khắc phục mọi phiền não. Thầy đã từng nói qua, thầy khiến cho một chàng trai ở vùng Đông Bắc niệm kinh, lúc đầu cậu ấy cũng không biết niệm kinh, nhưng cậu ta thích tiết mục “Quán thấy”(tuteng) của sư phụ. Cậu ta nói: “Sư phụ, thầy xem thật chính xác.” Thầy nói với cậu ta: “Chuỗi hạt Phật này thầy tặng cho cậu, cậu hãy đeo vào tay.” Cậu ta đeo vào tay và nói: “Sẽ có tác dụng gì?” Thầy nói: “Có thể phù hộ cậu mở mang trí tuệ.” Cậu ấy ở nhà thường đánh vợ, một thời gian sau cậu ấy đến và nói với thầy: “Sư phụ, có một lần con lại mất bình tĩnh, con vừa giơ tay, định đánh vợ con, cuối cùng con nhìn thấy chuỗi hạt Phật trên tay, nên con đã kiềm lại” Thầy nói: “Đây không phải là trí tuệ sao? Cậu đã có được trí tuệ sau khi đeo chuỗi hạt Phật này rồi. Cậu biết đấy, người có cái miệng không chỉ để ăn mà còn phải giải thích, thuyết minh và trao đổi cho người khác hiểu, chứ không thể dùng tay để đánh người”. Cậu ấy học được trí tuệ rồi. Vì vậy, chúng ta phải biết cách diệu dụng Phật pháp để chuyển hóa nó. 

Học Phật thực sự là khởi tâm động niệm đều phải như Bồ Tát, cần tu tâm thanh tịnh. Khởi tâm động niệm nghĩa là gì? Một chút ý nghĩ xấu dấy lên trong lòng chúng ta: “Ồ, không được động, điều này sẽ làm hại mình”, “Ôi! Nếu như thế tôi sẽ gặp xui xẻo”, trong đầu động một chút ý niệm là như vậy. Sư phụ nói cho mọi người biết, một người đàn ông muốn thành công, nếu muốn có hợp đồng lớn thì không nên có tư tưởng tà dâm, sau khi có ý nghĩ đó rồi thì hợp đồng này sẽ không thể ký được. Do đó, khi nhiều người đang làm kinh doanh, “Tôi không thể tà dâm. Như sư phụ đã từng nói qua nếu tà dâm thì sẽ gặp xui xẻo, nếu xui xẻo, công việc kinh doanh sẽ sụp đổ. Trong công ty nhiều nhân viên như vậy sao tôi nuôi nổi!” Họ tự kiềm chế mình, bởi vì lợi ích nào quan trọng hơn, để kìm hãm họ, thực ra đó chính là giữ giới. 

Thầy vừa nói với mọi người rằng giới luật là để bịt kín những lỗ hổng trong công đức của mình. Hôm nay phúc khí đến rồi, chúng ta bịt kín những lỗ hổng của mình, “tôi giữ giới”, Bồ Tát rất vui, tự bản thân mình cũng rất vui, nên nhất định phải tu học ý niệm của Bồ Tát. Khởi tâm động niệm đều là Phật trên thân mình, thời gian lâu dần sẽ có đạo tràng trên thân mình. Vì vậy, sư phụ mong rằng quý vị hãy giữ gìn để cho trong tư duy và hành vi của mình có được một đạo tràng của Bồ Tát. Học Phật phải có đạo tràng, mà đạo tràng là nơi chư Bồ Tát thường lui tới. Trong tâm chúng ta luôn có đạo tràng, tương đương với việc chúng ta có một sân bay, nếu ta có được sân bay này thì máy bay mới có thể đáp xuống sân bay. Hôm nay nếu trong tâm chúng ta có đạo tràng của chư Phật Bồ Tát, thì chư Phật Bồ Tát sẽ thường đi vào trong tâm chúng ta, vậy thì trong tâm ta vừa có được chư Bồ Tát lại vừa có được cả chư Phật. Nếu trong lòng một người có Bồ Tát, có Phật, thì làm sao họ không thuận lợi được! Làm sao họ có thể không hạnh phúc được? 

Hôm nay sẽ kể cho đại chúng nghe một câu chuyện khác về Đức Phật. 

Năm ấy, đức Phật trú tại Trúc Viên Già Lan ở thành Vương Xá. Có một hôm, Đức Phật bảo các Tỳ kheo: “Trên đời này có bốn loại ngựa tốt. Loại ngựa tốt thứ nhất, khi chúng ta cưỡi nó chỉ cần giơ roi lên và nó nhìn thấy được bóng roi da là nó lập tức sẽ thiện quan hành sự, biết chạy hoặc nhanh hoặc chậm, hoặc trái hoặc phải, đều thuận theo lòng người điều khiển (vì một khi chúng ta giơ roi lên, không cần quất nó, nó sẽ đi tiếp). Đây là con ngựa tốt thứ nhất trên thế gian.” 

Đức Phật nói tiếp: “Này các vị Tỳ kheo, trên đời lại có loại ngựa tốt không có khả năng kinh sát giật mình nhận ra bóng roi khua qua khua lại (nghĩa là còn có một loại ngựa tốt là nó không nhìn thấy bóng roi của người đánh xe giơ lên) nhưng nếu roi của người đánh xe hơi chạm vào lông và đuôi của nó, nó có thể lập tức kinh sát (tức là đột nhiên giật mình nhận ra ý nghĩ của người điều khiển), hoặc nhanh hoặc chậm, hoặc trái hoặc phải, đây là loại ngựa thứ hai trên thế gian.” Đức Phật nói tiếp: “Này các vị Tỳ kheo, nếu con ngựa tốt này không thể nhận ra bóng roi, cũng không thể thuận theo ý nghĩ của người điều khiển bằng cách chạm vào lông đuôi của nó, mà cần lấy roi quất vào da thịt của nó thì nó mới có thể phát giác được hoặc nhanh hoặc chậm, hoặc trái hoặc phải. Đây là con ngựa tốt thứ ba trên thế gian.” 

“Này các vị Tỳ kheo”, Đức Phật nói tiếp: “Nếu không thể nhận thức được tâm niệm của người đánh xe như ba loại ngựa tốt phía trên, mà phải lấy dùi sắt đâm vào thân cho đến nát xương tủy của nó rồi mới thấy được tâm niệm của người đánh xe, hơn nữa người điều khiển xe ngựa này phải dắt xe ngựa đi suốt quãng đường, để loại ngựa này có thể đi nhanh hay chậm, trái hay phải tùy theo ý niệm của người đánh xe, đây là loại ngựa thứ tư trên thế gian.” 

Trong thời kỳ Chánh Pháp, có bốn loại thiện nam tử tồn tại trên thế gian. Loại hiền thiện nam tử thứ nhất là người nghe nói có người vì bệnh tật, khó khăn, thậm chí tử vong, sau khi nghe người ta đau khổ vì sinh lão bệnh tử trong lòng liền sanh tâm bố uý (tức là tâm khủng khiếp sợ hãi), và chiếu theo chánh tư duy để tinh tấn học tập chăm chỉ, giống như con ngựa tốt có thể được thuần phục bằng cách nhìn vào bóng roi da (nó có thể tiến lên khi nhìn thấy bóng của roi da), đây là loại thiện nam tử đầu tiên ở thế gian. Đức Phật dùng điều này để làm ví dụ, chỉ ra rằng có thể điều phục bản thân, có thể nhìn thấy những thiếu sót của người khác và nghĩ về chính mình để sửa chữa những thiếu sót của mình ngay lập tức thì thuộc loại hiền thiện nam tử. 

Loại hiền thiện nam tử thứ hai, ở trên đời này là họ không thể vì nghe nói có người bệnh tật, khó khăn, thậm chí tử vong, mà sanh tâm sợ hãi (cũng có nghĩa là họ nghe người khác nói: “Người này chết rồi, người kia sinh bệnh rồi, rất đau khổ”, họ không coi trọng), họ tu hành chưa tinh tấn, họ phải tận mắt thấy người khác bị khổ vì sinh, lão, bệnh, tử mới biết sợ mà nổ lực tinh tấn, loại người này như Đức Phật đã nói “Ngựa tốt chỉ có thể điều phục bằng cách chạm vào lông đuôi của nó, thì mới có thể thuận theo tâm của người điều khiển” Đây là loại người hiền thiện nam tử thứ hai, trong Chánh Pháp biết tự điều phục để đắc thiện. Có một số người nghe được người khác nói và thay đổi ngay lập tức. Đôi khi thầy nói với các con rằng: “Con xem kìa, ai ai ai đó không ổn rồi, xui xẻo rồi, các con hãy biết tự mình tranh thủ thời gian”, có người không cảm nhận được, đợi đến khi người đó tận mắt nhìn thấy “thật đấy, người bạn học này bị ốm rồi” thì người đó mới lưu tâm. Đây là loại thứ hai. 

Đức Phật tiếp tục nói, nếu một hiền thiện nam tử không thể vì nghe thấy hoặc tận mắt chứng kiến có người vì sinh, lão, bệnh, tử và sinh tâm sợ hãi mới có thể tinh tấn tu hành, mà là nhất định phải tận mắt chứng kiến nỗi đau hoặc là cái chết của những người thân cận hay bạn bè của mình ở trong thành hoặc trong bộ lạc, họ mới sinh loại tâm khủng khiếp sợ hãi này, mới có thể tinh tấn tu tập với Chánh Pháp tư duy, giống như loại ngựa tốt thứ ba, phải bị quất roi vào thân xác mới có thể điều phục, mới có thể tinh tấn, loại này thuộc hiền thiện nam tử thứ ba. 

Loại hiền thiện nam tử thứ tư là loại như thế nào đây? Đó là không nghe không nhìn thấy nỗi khổ sinh, lão, bệnh, tử mà người khác bị gánh chịu. Cũng như nhiều người nói “ai ai ai đó chết rồi” (họ nói) “Liên quan gì đến tôi? Đâu phải tôi chết đâu”, như nhiều người bảo “người này rất khổ”, (họ nói) “Liên quan gì đến tôi? Đâu phải tôi khổ đâu”. Chỉ khi họ đích thân cảm nhận được thân thể già, khổ, đau của mình. Khi sắp chết mới nghĩ lại “Tôi sinh tâm chán ghét, tôi muốn ra đi, tôi sợ hãi và không muốn chết”, lúc này họ mới nổ lực tính tấn. Cũng như bao người mắc bệnh ung thư, họ mới cố gắng nổ lực niệm kinh hàng ngày vậy, loại người này cũng giống như loại ngựa tốt thứ tư, phải chịu đau đớn thấu xương mới có thể điều phục. Cũng có nghĩa là, chỉ khi bản thân họ đau rồi thì mới thay đổi. Vợ họ ốm rồi, họ cũng không thay đổi, con họ bị ốm, họ cũng không có cảm giác đau, chỉ khi bản thân họ bị đau, họ mới nghĩ “Tôi phải ăn chay, tôi phải tụng kinh”. 

Đây là hạng hiền thiện nam tử thứ tư. Trên thực tế, phải tự bản thân họ cảm nhận được, như vậy họ mới có thể điều phục tốt bản thân. Đây là câu chuyện được Đức Phật kể lại trong Kinh A Hàm. 

Sư phụ hy vọng mọi người phải điều phục nội tâm của mình, tu tâm tu lên cảnh giới cao hơn, dần dần giải thoát đau khổ và dần dần thấu hiểu người khác. Hiểu được nỗi đau của người khác, chúng ta mới không đi soi mói người ta, biết được nỗi buồn của người khác, chúng ta mới không chạm vào nỗi buồn của họ. Đừng đợi đến khi có người làm chúng ta đau khổ, bản thân mình bị đau, u buồn, thì khi đó mới nghĩ đến “Tôi phải tinh tấn, lần sau tôi không được nói họ nữa”. Giống như nhiều người khi cãi nhau mắng tổ tiên của người khác, bị người ta đánh, khi bị đau, thì họ mới biết sau này mắng người không được mắng trưởng bối của người khác, đạo lý cũng giống như vậy. Tại sao bị người khác đánh, họ mới chịu thay đổi? Đây chính là không có trí tuệ. Vì vậy, người không có trí tuệ sẽ sinh ra đau khổ và buồn phiền. Mong rằng mỗi người học Phật chúng ta phải có được trí tuệ, phải học được lòng đại từ đại bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, từ bi chúng sinh, nhất định sẽ có được một cuộc sống hạnh phúc. 

Hôm nay bài thuyết “Bạch Thoại Phật Pháp” với đại chúng xin tạm dừng tại đây. 

Cảm ơn đại chúng. 

Tập 16
THUẬN DUYÊN NGHỊCH DUYÊN, PHẬT ĐẠO TỰ NHIÊN

(18/03/2020)

Quý Phật hữu thân mến, hôm nay tiếp tục bài giảng về “Bạch Thoại Phật Pháp” dành cho đại chúng. Chúng ta sống trên đời này, thực ra tư tưởng là điều quan trọng nhất. Kinh Phật thường nói thiện niệm là Phật, ác niệm là ma, nên chúng ta phải luôn nghĩ thiện. Ở thế gian, lùi một bước chính là trí tuệ. Bất cứ chuyện gì ép buộc người khác làm, hoặc không thể hiểu được họ và thúc đẩy họ làm điều đó, đôi khi sẽ bị đoạn duyên – duyên phận sẽ không còn nữa (mối quan hệ sẽ bị phá vỡ). Vì vậy, người học Phật nên quay lưng rời khỏi và tịnh lặng suy nghĩ xem: Khi chúng ta làm việc gì, nếu có duyên thì nên thuận theo duyên, nếu không có duyên thì đừng làm khó khăn cho người khác (cưỡng nhân sở nan). Con người sống trên cõi đời này là một mối nhân duyên, mối duyên này phàm có thiện duyên và ác duyên. Nhất niệm chánh, nhất niệm tà đều có một sự khác biệt. Hôm nay, nếu có một ý tưởng là chánh niệm thì có thể sự việc này làm đúng rồi, nếu ý tưởng này là tà niệm thì có thể sự việc này làm sai. Giữa chánh và tà đó chính là giữa Phật và ma. 

Mỗi người chúng ta ở trong xã hội này đều phải biết cách làm thế nào để bản thân xem nhẹ đối với một số thứ chấp trước không buông được ở thế gian. Nếu không thể buông bỏ một thứ thì trong cuộc sống có nhiều thứ không thể buông bỏ được. Phải nghĩ cách giải thoát khỏi nó và buông bỏ nó, điều quan trọng nhất là phải hiểu: “Nhân sinh nhược chích như sơ kiến, hà sự thu phong bi họa phiến”. 

(Nhân sinh nếu chỉ như lần đầu gặp gỡ, thì sao có chuyện gió thu làm chiếc quạt đau lòng) 

Vào thời cổ đại, rất nhiều người vì bi thương trong lòng, bị ngăn cách tình cảm với người khác, lưu luyến không nỡ lìa xa, cuối cùng đem cảm xúc của chính mình viết thành một bài thơ. Bài thơ này nói cho chúng ta biết rằng, người với người tốt nhất là duy trì như lần đầu tiên gặp nhau, đây chính là một câu nói trong văn hóa truyền thống của Trung Hoa: “Quân tử chi giao đạm nhược thủy”.  Đôi khi quá tốt với nhau, tình cảm sẽ bị cuốn vào và bị vướng mắc. Lần đầu tiên gặp một người, không để ở trong lòng, thì cần gì phải bận tâm? Khi lần đầu tiên quý vị gặp một người, không yêu cầu quá nhiều đối với họ, và quý vị luôn nói “rất tốt”. Gặp gỡ người khác cũng giống như lần đầu tiên gặp mặt, quý vị có thể duy trì một sự tôn trọng, một sự trầm lặng, một sự thấu hiểu, và cũng có thể duy trì một sự viên dung. Cho nên cảm giác lần đầu tiên gặp mặt là “Chúng ta là bạn tốt, chúng ta là đạo hữu tốt”, tất nhiên quý vị sẽ không tính toán chi li và nhất định quý vị sẽ tùy duyên buông xả. Khi quý vị tuỳ duyên buông xả, thì chính bản thân quý vị sẽ trở nên tự tại vô cùng. Nhiều người nói, cuộc sống người này thật tự tại, tại sao người kia thì lại không được tự tại? Thực ra tự tại chính là bản thân mỗi người đang điều hòa tâm trí của mình. Có rất nhiều người bạn cũ, một số người bên ngoài hay người làm việc trong cơ quan, hoặc những người có thói quen tật xấu, quý vị cảm thấy họ như: “lần đầu tiên tôi gặp họ”, thì chắc chắn quý vị sẽ không có yêu cầu quá mức đối với họ. Đây là trí tuệ của đạo Phật. 

Đôi khi trong một ý nghĩ, nghĩ về quá khứ thì lại hận, nghĩ về quá khứ thì lại thấy vui, nên con người ta lang thang giữa bi thương và trí tuệ. Làm sao để không có phiền não? Làm sao để không có phân biệt khó khăn? Đó là đừng nên có tâm phân biệt. Con người chúng ta rất đáng thương vì thường có tâm phân biệt. Bởi vì người này đã từng làm tổn thương quý vị trong quá khứ, bởi vì người kia đã từng giúp đỡ quý vị trong quá khứ, nên khi quý vị nhìn thấy họ, tâm phân biệt bắt đầu và hỷ nộ ái lạc sẽ nảy sinh trong lòng mình. Sư phụ nói với mọi người rằng không có đúng sai trong yêu và hận mà đó chính là buông tay. Quý vị đối với người này không có yêu, cũng không có nhiều thù hận, vậy thì chẳng phải quý vị đã buông tay rồi sao? Cũng giống như một người đi ngang qua đường, quý vị đối với họ có yêu có hận không? Chỉ là lướt qua nhau mà thôi, vì vậy trong tâm quý vị sẽ không có thuận cảnh và nghịch cảnh. Nhìn thấy người này thật đáng ghét thì nghịch cảnh trong tâm sẽ xuất hiện, nhìn thấy người này mình rất thích thì thuận cảnh trong tâm sẽ xuất hiện. Cũng như có nhiều người thích mặt trời, có người thích mặt trăng, quan niệm của mỗi người mỗi khác. Khi mặt trời mọc, đối với họ mà nói thì đó là thịnh vượng, khi mặt trời lặn, họ lại bi thương. Cũng có người thích cả mặt trời lẫn mặt trăng, cho nên mặt trời đến cũng yêu, mà mặt trăng đến thì cũng thích, không phân biệt, không chấp trước, thì sẽ không đi lạc lối. Tự nhiên trong lòng sẽ không có phiền não của sự chọn lựa. Mọi người thử nghĩ xem, phiền não của sự chọn lựa là gì? Phiền não của sự lựa chọn chỉ trong một ý nghĩ mà thôi. Nếu hôm nay quý vị nghĩ “Tôi nhất định muốn”, quý vị đã bước vào quá trình đau khổ. Nếu hôm nay quý vị nói “Tôi không quan trọng, có thì có, không có thì thôi”, quý vị đã bước vào quá trình hạnh phúc. Vì vậy, phiền não đến từ tâm phân biệt. Đối xử với người khác phải có tâm bình đẳng, nên đối xử bình đẳng với người khác (nhất nhị đồng nhân).  

Người học Phật bất luận thuận duyên hay nghịch duyên, chúng ta phải học cách vượt qua, phải ung dung tự tại như dạo chơi trong vườn, không quan tâm hơn thua, ở hay đi tùy ý. Trong cuộc hành trình của cuộc đời, tất cả chúng ta đều muốn vui vẻ và gặp gỡ nhiều người hơn, nghĩ rằng cuộc sống của chúng ta sẽ luôn như vậy, và tình cảm của chúng ta sẽ luôn như vậy – điều này trái ngược với những gì giới đạo Phật nói, mọi thứ trên thế gian này đều vô thường, không có gì là trường tồn mãi mãi. Vì vậy, điều quan trọng nhất là nhận biết chính mình, khoảnh khắc một lần nữa được gặp lại chính mình. Trong tâm mỗi người đều phải có giây phút nhận thức lại chính mình một lần nữa, có như vậy chúng ta mới có thể ngộ ra, mới có thể đi khắp thế gian. Người hiểu chính mình thì đi đâu cũng không bị thiệt thòi, người khác kính trọng họ, vì họ biết mình nên nói gì, nên làm gì, nên có suy nghĩ nào, người này dễ được lòng người khác. Nhưng có người hoàn toàn không biết mình đang làm gì, không biết mình là người mấy cân mấy lạng, nói năng khoác lác, cơm ăn đầy miệng, hành xử đều khác người, còn nghĩ là: “Tôi là một cây siêu phàm” Kỳ thực những điều này chỉ là để giải tỏa một quan niệm trong lòng: “Tôi là như vậy? Mặc dù tôi khác người, nhưng nhất định tôi có lý do của tôi” Trên thực tế, loại người này đã lựa chọn suy nghĩ của chính mình giữa định kiến và chấp trước. 

Suy nghĩ của một người đúng và sai, tất nhiên là không giống nhau. Suy nghĩ tích cực khiến người khác tôn trọng, suy nghĩ tiêu cực sẽ khiến người khác cảnh báo họ. Mọi người có thể thấy rằng trong hội cộng tu chúng ta, nếu hôm nay có người lên phát biểu đúng lý đúng pháp, mọi người đều thích nghe, nhưng một số người thêm rất nhiều quan điểm cá nhân của mình vào và một số điều nói lệch đi, dần dần người khác sẽ nói: Bạn gì đó trong buổi chia sẻ có định kiến nghiêm trọng khi nói về kinh nghiệm của mình. Một người chính trực trước hết phải hiểu mình thì mới có thể chính trực. Không hiểu mình thì làm sao hiểu người? Tu tâm là để trở về với nội tâm của chính mình. Quý vị hiểu được chính mình, không phải là vì muốn nội tâm phải hiểu được chính mình sao? Phải buông bỏ nhiều dục vọng và tư tưởng để trở về vô niệm. 

Vô niệm là điều tự nhiên mà có, đó là tự nhiên, tự nhiên không theo một loại khuôn khổ chấp trước và trong quan niệm: “Chỉ nghĩ đến mình không nghĩ đến người khác”. Do đó, việc một người có thể khiến người khác chấp nhận lời nói, hành vi và suy nghĩ thì đó là một phản ứng tự nhiên, người khác đều có thể tiếp nhận. Giống như một đứa trẻ: “Chú ơi, con khát rồi, con muốn ăn cái này.” Có người nói: “Con trai, chú mua cho con.” Người khác sẽ không nghi ngờ đứa trẻ này tham ăn, bởi vì nó nói ra với một giọng nói rất tự nhiên. Một người có bao nhiêu tạp niệm thì sẽ có bấy nhiêu đau khổ. Họ càng nghĩ nhiều: “Tôi phải làm thế nào để người khác không cảm nhận rằng tôi đang dùng mánh khoé của mình, và tôi phải làm những việc này để người khác không nhìn ra được”, nhưng sau khi họ nói ra, thì người khác đã nhìn ra rồi. Và họ sẽ đau khổ. Sau khi bị người khác phát hiện ra mục đích thì nhiều người cũng sẽ bị đau khổ, vì vốn dĩ họ muốn lừa người khác. Cho nên, học Phật càng học về sau, vẫn phải học cách tự nhiên. 

Trong quá khứ, văn hóa truyền thống Trung Hoa đã nói về “đại đạo tự nhiên”.  Dù là cõi thiên, cõi người hay cõi A-tu-la, thực ra đều là bổn tánh thiện lương, đây chính là thiện đạo. Sư phụ thường nói với mọi người về tam thiện đạo: Thiên nhân, A-tu-la và người. Cõi người cũng được coi là một đường thiện đạo, nhưng đường thiện đạo này gần với đường đạo súc sinh nhất, nếu một người làm bất cứ việc gì không cẩn thận thì những gì họ làm ra là việc của súc sinh, vì vậy phải hết sức cẩn thận, bởi vì nó quá gần với cõi súc sinh. Thường thì không được có tâm thù hận, bởi vì động vật rất dễ dàng hận người khác. Khi chúng ta nhìn thấy một con chó, nếu đá vào chân nó, nó sẽ sủa và cắn vào người đá nó hoặc đuổi theo. Động vật có bản tính rất hận, hơn nữa rất cố chấp và thích tranh giành. Người học Phật chúng ta phải học cách không tranh giành với người khác, phải học cách thiện lương, đôi khi tâm ta sẽ khiến mình gây nên sóng gió, ta không muốn tranh đấu với người này, nhưng người này giận đến mức khiến ta muốn tranh đấu với họ. Trên thực tế, hiếu chiến (hảo dũng đấu ngoan) đây là hơi giống với cõi A-tu-la. 

Ở nhân gian đừng nên cố chấp. Âm mưu là suy nghĩ và tưởng tượng mà ra. Rốt cuộc nên làm như thế nào, nên làm việc này như thế nào cho tốt, làm sao để bản thân mình không bị mê muội, điên đảo trước bất kì sự việc và con người, đây mới là quan trọng nhất. Dù chúng ta có làm gì đi chăng nữa, đừng nghĩ rằng trên đời này: “việc này là tôi đúng” hay “là tôi sai”, để rồi ta bị cuốn vào vòng xoáy của đúng sai, và sẽ không thể thoát ra khỏi những điều thị phi này. Nếu hôm nay ta thoát ra khỏi vòng xoáy đúng sai, hiểu được lòng trắc ẩn, đạo lý từ bi vô biên, và cảm nhận được nhân thương ngã thống (người bị tổn thương thì ta đau xót). Ngay cả khi đối phương cương quyết với quý vị, đó cũng là một loại hèn nhát, đối phương nhân từ với quý vị, ngược lại đó là biểu tượng của sự kiên cường. Tuy nhiên, con người chúng ta thường coi lòng từ bi của đối phương là một sự hèn nhát, và coi suy nghĩ rất cương quyết của mình là một sự dũng cảm của bản thân. Trên thực tế, sự dũng cảm này sẽ làm tổn hại cho chính bản thân nhiều hơn. 

Tập 17
ĐIỀU DƯỠNG THÂN TÂM, NHẪN NHỤC LÀM ĐẦU

(18/03/2020)

Sư phụ thường nói, người học Phật phải học cách tu trí huệ, nhất định phải tu trí huệ. Bất luận chúng ta gặp người như thế nào, cũng đừng nhìn họ đúng sai, thiện ác hay quá khứ của họ, việc này không liên quan gì đến chúng ta, bởi vì họ có làm đúng hay sai, chỉ cần tự trong tâm ta minh bạch là được rồi. Mặc dù họ có làm điều thiện hay ác, trong quá khứ cũng có những chuyện không tốt đi chăng nữa, thì chúng ta cũng phải nhìn chúng bằng góc độ tinh tế, đó là điều mà chúng ta thường nói đến, biết rằng sự vật này đang phát triển, hôm nay chúng có thể không tốt, nhưng ngày mai nó có thể trở nên tốt hơn, vì vậy nếu tự tánh của ta không động – thì bổn tánh của bản thân ta cũng sẽ không lay động. Đây là điều mà giới đạo Phật thường nói, ngoại cảnh thay đổi, nhưng bổn tánh của ta như như bất động. 

Khi quý vị đi gặp một người, hễ mở miệng ra là họ thường luận điều đúng sai của người khác, như vậy là họ đã trái với ý tưởng của chư Phật Bồ Tát, vì Bồ Tát không luận bàn đến đúng sai của con người, bởi vì khi quý vị bước vào trong đúng sai thì quý vị sẽ chấp trước. Nếu chúng ta có một cái tâm cố chấp, thì sẽ có những hành động cố chấp, bởi vì tâm điều khiển hành động, và quý vị sẽ dựng lên nhiều rào cản cho chính mình. Tại sao trong cơ quan làm việc có nhiều người không được người khác yêu thích? Rất đơn giản, vì họ nghĩ: “Cậu không thích tôi cũng không sao, tôi cũng chẳng thích cậu, cậu coi thường tôi, tôi cũng coi thường cậu.” Tự trong tâm họ có một bức rào cản, họ cảm thấy rằng người khác luôn sai, và bản thân họ đúng là được rồi. Điều này phải thích đáng và vừa phải, bởi vì nếu chấp trước của bản thân mình làm ảnh hưởng đến chính mình, khiến cho mối quan hệ của ta với người khác không thể dung hợp, thì quý vị đang ở trong chướng ngại. Có một cách để xem xét bản thân có đi quá xa hay không: đó là người mà quý vị không thích, khi họ nói gì quý vị có thể tuỳ duyên được không. Nếu khi họ kể chuyện cười, mà quý vị có thể cười theo họ và những gì họ nói, nếu quý vị cảm thấy không muốn nghe, và quý vị cũng có thể cười với họ, điều đó có nghĩa là quý vị tuỳ duyên và sẽ không bị vướng vào trở ngại này với họ. Có chướng ngại thì phải niệm Tiêu Tai Cát Tường Thần Chú, đúng không? Hoá giải với họ, hóa giải nhân duyên – thì niệm Giải Kết Chú. 

Chúng ta phải nhận biết về mọi thứ trên đời này, tức là nhận thức và hiểu biết. Trên đời này chỉ cần có thiện thì nó ắt có ác, chỉ cần nơi có ác thì nơi đó ắt có thiện. Vì vậy, nhìn người đừng xem thường họ. Trên đời này, thấy điều ác thì phải nghĩ vẫn còn có người tốt, nhìn thấy nhiều điều lành phải nghĩ rằng không dễ dàng vì còn nhiều chông gai ở phía trước. Nếu như quý vị không dính mắc, dần dần cảnh giới của quý vị sẽ trở nên tự tính bất động, đó là điều mà đạo Phật nói như như bất động. Không có nghĩa là ở nhân gian thấy rồi tâm không lay động, trên thực tế là tâm quý vị lay động về hướng nào: Rốt cuộc là quý vị bước vào thị phi, hay như như bất động trụ trong bổn tánh của Phật pháp. Nếu hôm nay quý vị trụ trong bổn tánh, thì quý vị sẽ không bước vào thị phi. 

Thầy nói điều này có thể mọi người không hiểu được, sư phụ lấy một ví dụ, ví dụ như hai người cãi nhau, quý vị ở bên cạnh quý vị biết rõ nhất người này đúng hay người kia đúng. Hai người cãi nhau kịch liệt, và trong tâm quý vị biết rất rõ. Nhưng đợi đến khi quý vị thực sự không kìm được và nhúng tay vào, quý vị nói: “Cậu sai rồi, cậu không thể đối xử với một phụ nữ như vậy”, quý vị tưởng rằng cô ấy đúng, và cậu ấy sai, thực ra quý vị đã bước vào một cảnh giới khác, và cảnh giới này chính là thị phi. Vì vậy, nhiều khi chúng ta không hiểu được người khác nên chúng ta mới vội kết luận họ, nếu có ấn tượng tốt với người này, có lẽ sẽ giúp đỡ và bao che cho họ. Thực ra những điều này đều là nhân quả nhưng do chúng ta không hiểu được. 

Sư phụ đưa ra một ví dụ đơn giản: nếu trên xe có hai người va chạm vào nhau, người phụ nữ đó bị cậu này va vào rất đau, nhưng người phụ nữa này cứ mắng mỏ cậu ấy trên xe, cứ như thế mắng suốt trên xe, những người bên cạnh cô ấy sẽ nói: “Thôi, người ta đã không nói rồi, cô mắng làm gì?” Cuối cùng, cho dù cô gái này bị cậu ta làm đau, nhưng cuối cùng đạo lý vẫn thuộc về chàng trai này, tại sao vậy? Là bởi vì những gì người khác nhìn thấy chỉ là một, không nhìn thấy hai, chỉ biết một, mà không biết hai. Trên thực tế, sự khởi đầu của vấn đề này được bắt đầu bởi vụ va chạm. Chính vì vậy chúng ta phải nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, đôi khi chúng ta không biết được chân tướng của thế gian, giống như rất nhiều người trong chúng ta, cả đời sống trong thế giới này, chúng ta đã làm quá nhiều điều sai trái, tại sao lại làm sai? Không ai muốn làm điều sai, nhưng những sự việc này đều là do chúng ta nhìn không thấu, chúng ta cho là đúng, nên về sau chúng ta mới phạm sai lầm, và sau khi chúng ta phạm sai lầm thì chúng ta lại tưởng là mình đúng, đây chính là vô minh của con người. Cả đời chúng ta đã làm nhiều điều mà chúng ta nghĩ là đúng đến khi có tuổi rồi và nhìn lại thì chúng ta đã làm quá nhiều điều sai, đôi khi chúng ta nghĩ rằng mình đã làm những điều sai, nhưng bây giờ nhìn lại và thấy rằng mình đã làm đúng. 

Vì vậy, giới đạo Phật nói rằng “nhãn kiến diệc phi chân”, những gì mắt chúng ta thấy cũng chưa chắc là thật. Chẳng hạn như trong nhà có hai người đang cãi nhau, là cha mẹ cãi nhau, chưa chắc cha đúng, cũng chưa hẳn mẹ đúng, nhưng nếu con cái đối xử tốt với cha thì sẽ giúp cha, và cho rằng cha đúng, nếu giúp mẹ thì sẽ thấy mẹ đúng, chỉ là con người đã bước vào đúng sai, đã bước vào trong một loại định kiến. Và một người thực sự có trí tuệ có thể hiểu rằng những gì mắt thấy chưa chắc đã là sự thật. 

“Nhĩ văn diệc thị giả.” Những gì chúng ta nghe chưa chắc là thật, giống như chúng ta ngày nay, trong cái xã hội rất phát triển này, mỗi ngày chúng ta xem biết bao nhiêu tin tức có bao nhiêu bản tin là thật và bao nhiêu bản tin là giả, có bản tin đều là không đúng sự thật, có bản phải bác bỏ đi tin đồn nhưng vào thời điểm đó khi chúng ta xem đã rất tức giận hoặc rất phấn khích, nhưng sau vài giờ, thì chúng ta đã biết được tin tức đó là thật hay giả. Vì vậy, trước hết chúng ta phải hiểu được nội tâm như như bất động, bất kể nghe tin tốt hay tin xấu, hãy kiểm soát tâm mình đừng để bị lay động, đừng nghĩ rằng việc này là tốt hay không tốt. 

Hiểu được những đạo lý này, tâm luôn thanh thản như dòng nước chảy. Mọi người thấy đấy, bất kể điều gì xảy ra, nước vẫn chảy. Nếu trong nhân gian bất luận xảy ra chuyện gì mà tâm ta vẫn như như bất động, học Phật, niệm kinh, phóng sinh, phát nguyện, đối xử tốt với chúng sinh, và có thể giúp đỡ chúng sinh. Đây chính là tâm chúng ta luôn thanh thản như dòng nước. Trong tâm ta có dòng Phật tánh, thì dù ngoại cảnh có thay đổi thế nào, chúng ta vẫn có thể như như bất động. “Vân như phiên cổn hà tất hữu”, cũng có nghĩa là: Hôm nay nhìn thấy những đám mây cuồn cuộn, chốc lát nó lại biến mất, phiền não hôm nay là của ngày hôm nay, ngày mai sẽ không còn nữa, ngày mai lại có những phiền não mới, và ngày mốt các vấn đề sẽ có được những giải pháp mới. Con người sống trên đời nên giữ vững cái tâm thanh tịnh của mình. 

Chúng ta phải hiểu rằng bất kể làm việc gì, đôi khi tâm trạng con người sẽ không tránh khỏi cảm giác buồn phiền và khó chịu, dùng từ hiện đại thời nay mà nói, thường xuyên gặp phải một số sự việc khiến con người suy sụp. Thời nay những thanh niên trẻ vừa mở miệng là nói: “Sư phụ, con suy sụp rồi”. Trước đây, mọi người không nói suy sụp mà trước đây họ sầu muộn, nghĩ không thông, đau khổ, phiền não trong tâm. Người bây giờ động chút là “suy sụp rồi”. Cho dù giận dữ, phẫn nộ, phát điên, hay tức giận, thì đều trong trạng thái tức giận. Sư phụ thường nói với mọi người rằng loại tức này là do sản sinh ra, chúng ta không tức thì lấy đâu ra giận? Quý vị nghĩ không thông, bị tắc nghẽn, khi van khí bị tắc nghẽn, thì trường khí sẽ không hoạt động, và sau đó khí (tức giận) của quý vị phát sinh ra. Nhưng cho dù quý vị có tức giận với ai đi chăng nữa, thì người bị tổn thương vẫn luôn là chính mình. Khi quý vị nổi giận với người khác, bất kể ai đúng ai sai, mọi người hãy nhớ rằng bản thân mình là người bị tổn thương trước, hơn nữa sẽ bị tổn thương nặng, vì vậy người thực sự có trí tuệ sẽ không dễ dàng gì nổi giận. 

Cuộc sống không thể tách rời khỏi phiền não, hôm nay chúng ta sống trong thế giới này, thì làm sao có thể rời khỏi được phiền não! Vì vậy điều chỉnh tâm thái của mình là rất quan trọng. Giống như y học cổ truyền nói, một người nên học cách điều dưỡng thân tâm, điều dưỡng các cơ quan nội tạng của mình, hôm nay nếu nhiệt trong người, hãy uống nhiều nước. Rất nhiều bạn Phật tử ở phương Nam thường thích hầm canh, gần đây thời tiết tương đối lạnh đã đến lúc bồi bổ, họ sẽ hầm thêm một ít canh bổ dưỡng và nhiệt tính hơn để bồi bổ cho bản thân. Nếu là mùa hè, thời tiết tương đối nóng, hỏa khí tương đối cao, thì phải bắt đầu thanh bổ lượng. Mỗi người đều phải học cách điều chỉnh bản thân, không được để tâm mình bị tổn thương, điều chỉnh sẽ dần dần khôi phục lại căn bản tâm linh của chính mình. Căn bản là gì? Nó vốn là bình tĩnh, “Bổn lai vô nhất vật. Hà xứ nhạ trần ai” (Xưa nay không một vật. Bụi trần bám vào đâu). Trên thế giới này, ngày nào cũng có người gây sự với chúng ta, ngày nào cũng có người mắng mỏ chúng ta, ngày nào chúng ta cũng không vui, hà cớ gì không vui? Hãy điều chỉnh bản thân và không cần lo lắng quá độ. Trong lòng ta vốn dĩ không có gì, chỉ là khi nghe người khác nói xấu mình, hoặc là mắt nhìn thấy những chuyện không vui, tâm thái của ta mới bắt đầu từ từ thay đổi. Từ góc độ tâm lý học mà nói, chính là có thể ổn định suy nghĩ bên trong của mình và ngăn những suy nghĩ này không bị ảnh hưởng bởi mắc xích của hoàn cảnh, bởi vì hoàn cảnh là tiếp nối từng mắc xích một, để cho chúng ta tiếp nhận. Rất nhiều người tính tình vốn không xấu, nhưng khi có một chuyện không tốt, rồi một chuyện không vui, lại thêm một chuyện không vui nữa, từ góc độ tâm lý học mà nói, nếu một người chịu đựng quá ba điều, thì tâm thái con người sẽ bắt đầu dần dần thay đổi và bị mất cân bằng. Hôm nay khi tôi gặp bạn, cho dù tôi cảm thấy bạn rất đáng ghét, tôi nói lần đầu: “Cảm thấy bạn rất đáng ghét”, ồ, tôi có thể chịu đựng được; lần thứ hai lại nói tiếp về bạn đó và bạn đó vẫn chịu đựng được; đợi đến lần thứ ba nói về bạn đó, bạn đó cũng có thể chịu được; đợi đến lần thứ tư, mặt bạn đó trở nên không vui và xụ xuống; đến lần thứ năm, có thể bạn đó chỉ tay vào mặt quý vị và bắt đầu mắng mỏ. Điều này có nghĩa là con người không có đủ sức chịu đựng để điều chỉnh tâm thái của mình. Hãy giữ tâm thái của mình, bằng không nhất định chúng ta sẽ phải hối hận về cuộc sống của mình, sẽ phải hối hận về số phận của mình. 

Rất nhiều người “Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” (không nhịn được điều nhỏ nhặt, sẽ làm hư chuyện đại sự). Đôi khi chúng ta thấy những thứ trước mắt vẫn chưa phát sinh biến hoá về tính nguyên tắc hay tính thật chất, chỉ là nhưng những phiền não bên ngoài lại khiến ta nghĩ rằng “Mình muốn thay đổi nó, mình muốn làm cho nó thay đổi”, kỳ thực sự thật là không có gì thay đổi cả. Tuy nhiên, đây là sự thay đổi của tâm thái con người chúng ta, đôi khi một lúc bốc đồng, hối hận không kịp. Một số người biết rằng sự bốc đồng của họ ngày nay sẽ dẫn đến tù tội và kiện cáo, nhưng họ vẫn làm điều đó một cách vội vã, điều đó cho thấy khả năng kiểm soát bản thân của họ là không đủ. 

Tập 18
KHẮC PHỤC TÂM MA, CHÁNH TÍN CHÁNH NIỆM

(18/03/2020)

Sau đây sư phụ kể cho mọi người nghe một câu chuyện nhỏ. Một hôm, có một vị tiểu hòa thượng gánh một cái thùng, thật không dễ dàng đựng được thùng nước đầy, vừa đi được vài bước thì bị một hòn đá làm trượt chân, cả người trượt ngã, tự mình trượt té còn kinh hãi nhảy thót lên. Tất cả nước trong thùng vất vả cực nhọc được đưa lên một cách khó khăn từ nơi xa xôi đã bị đổ sạch ra ngoài. Trong lúc nhất thời, cậu ta vô cùng tức giận, dùng chân đá vào hòn đá và trong lòng thầm mắng: “Đều là lỗi của ngươi.” Lúc này khi vừa đá vào, không chỉ cả người trượt ngã, mà ngay cả cái thùng cũng bị vỡ. Sau đó, cậu ta đến hỏi một vị thiền sư. Và vị sư phụ nói với cậu ta rằng: “Này hài tử, con ngồi xuống trước đi, ta kể cho con nghe một câu chuyện được chứ? Hãy lắng nghe sư phụ kể chuyện để trấn an cảm xúc và bình tĩnh lại. Nếu không, con sẽ không thể làm tốt bất cứ điều gì.” Tiểu hòa thượng nói: “Thưa sư phụ! xin thầy hãy giảng giải cho con hiểu.” Thiền sư bắt đầu kể: “Ngày xửa ngày xưa có một con lạc đà đi trong sa mạc, đúng vào buổi trưa khi ánh nắng như một quả cầu lửa lớn. Nó bị cháy nắng, vừa khát vừa đói, trong lòng đầy bực tức và không biết trút giận vào đâu. Ngay lúc này, không ngờ có một mảnh kính vỡ lại đâm vào lòng bàn chân làm nó bị thương nhẹ, khá đau nhưng vẫn chưa chảy máu, con lạc đà vừa đói vừa kiệt sức, khi nó bị kiệt sức thì càng thêm tức giận, nó giơ chân đá mảnh vụn ra ngoài, lại vô tình làm rách vết thương ban đầu. Vết thương ngày càng sâu, máu đỏ tươi chảy ra từ chân lạc đà, nhuộm đỏ cả mặt cát. Sự việc còn chưa kết thúc, con lạc đà tức giận chỉ biết khập khiễng tiến về phía trước, vết máu bắn ra thu hút lũ kền kền bay lượn trên bầu trời. Con lạc đà sợ hãi đến nổi chạy về phía rìa sa mạc, cố gắng tránh chúng. Nó bị kiệt sức và chảy máu đầm đìa, trong lúc bất lực và hốt hoảng, không ngờ rằng nó lại lao vào một ổ kiến ăn thịt người. Kiến ăn thịt người là loài kiến ăn thịt, chúng rất to. Những con kiến ăn thịt người vừa ngửi thấy mùi máu liền lao về phía con lạc đà với mật độ dày đặc, một lúc sau con lạc đà đáng thương ngã xuống đất, máu me đầm đìa và bị hàng vạn con kiến ăn thịt người ăn sạch. Vị thiền sư kể đến đây và nói với vị tiểu hoà thượng rằng: “Này hài tử, con có biết lạc đà trước khi chết nó hối hận nhất điều gì không?” Lúc này vị tiểu hoà thượng mới hiểu ra và nói: “Thưa sư phụ, lạc đà hối hận nhất chính là không nên nổi giận với một mảnh thủy tinh nhỏ”. 

Người học Phật chúng ta nên rút ra bài học từ câu chuyện này, khi gặp chuyện không vui thì phải biết kìm nén cảm xúc, bình tĩnh lại rồi mới giải quyết được sự việc. Như sư phụ thường nói với quý vị, khi quý vị có khúc mắc trong lòng, hãy đặt nó xuống, đừng chạm vào nó, nếu không quý vị sẽ làm những việc khiến cho bản thân mình hối hận không kịp. Trong cuộc sống của chúng ta cũng vậy, khi gặp chuyện không vui, nhiều người trở nên hung bạo, mất đi lý trí và sự điềm tĩnh, từ đó ảnh hưởng đến chí khí của mình. Người học Phật chỉ khi có được tấm lòng trong sáng vô tư, thiện đãi sinh mệnh thì mới có thể thiện đãi được với chính mình. 

Thành tựu được đại sự trong đời đòi hỏi phải có sức chịu đựng phi thường, một người có thể thành công phải có sức chịu đựng và sức nhẫn nại vượt người thường. Người học Phật chúng ta mỗi ngày đọc kinh, ăn chay, học Phật, cứu độ chúng sinh, chẳng phải dựa vào sức nhẫn nại của mình sao? Một ngày nào đó khi chúng ta bước vào thế giới Tây Phương Cực Lạc, khi chúng ta bước vào Tâm Linh Tịnh Độ, thì người khác sẽ hâm mộ đấy! Khi chúng ta thực sự tận hưởng loại hạnh phúc ở nơi thiên giới, điều đó phụ thuộc vào sự kiên định và kiên nhẫn từng bước từng bước như thế này của chúng ta bây giờ, vì vậy để đạt được thành công, phải học cách vượt qua khó khăn. 

Hỷ nộ ái lạc là lẽ thường tình của con người, rất bình thường. Tại sao có người gặp chuyện thì nổi giận đùng đùng, có khi là mưa to gió lớn, trong khi đó thì lại có người dù gặp chuyện gì cũng luôn vui vẻ điềm đạm, mưa thuận gió hòa, đây chính là chúng ta có nắm vững được hay không về việc cân bằng nội tâm. Khi gặp chuyện không vui, nên điều chỉnh lại tâm thái của mình, điều chỉnh tâm trạng của mình, suy nghĩ nhiều hơn “chuyện này nhất định sẽ trôi qua”, khi tức giận thì hãy tự hỏi bản thân nhiều hơn, có thời gian để tức giận vì những điều này không, có được bao nhiêu sinh mệnh để lãng phí cho những điều tức giận đó. Người học Phật thực sự phải hiểu rằng, thị phi ngày ngày có, không nghe tự nhiên không có, thị phi ngày ngày có, không nghe thì vẫn có, thị phi ngày ngày có, và chúng ta đang tìm kiếm lý do hàng ngày. Đài trưởng nói cho mọi người biết, nếu trong lòng không có đúng sai, thì trong lòng tự nhiên sẽ không có đúng và ắt cũng chẳng có sai. 

Khi chúng ta có được một chút của cải, nó không phải là của riêng ta, mà đó là cho chúng ta vay mượn, và chúng ta đang tạm thời giúp người khác giữ số tài sản này ở chốn nhân gian, bởi vì khi chúng ta ra đi, những thứ này sẽ thuộc về người khác. Vì vậy đừng ham muốn có được bao nhiêu ở thế gian. Đừng nghĩ là mình có được những thứ tài sản đó, trên thực tế quý vị rất dễ dàng bị nó chiếm hữu, bởi khi quý vị bị những thứ tài sản này chi phối, thì cũng giống như những người đi vay tiền mua nhà, ngày ngày bị mắc kẹt trong khoản nợ nhà, nếu không đi làm không trả nợ thì tiền lãi cộng với tiền gốc nặng như một quả núi sẽ bị đè nặng đến thở không ra hơi. 

Chúng ta làm người, dù có danh lợi hay không, dù có được tài phú hay bần cùng, đừng bao giờ vì một tranh chấp nhỏ mà xa lánh những người bạn Phật tử hoặc người thân và bạn bè của mình, bởi những oán hận nhỏ trong lòng sẽ khiến chúng ta quên đi những ân tình mà người khác đã từng đối xử với chúng ta trong quá khứ. Không học Phật thì quý vị là “nhân”, học Phật rồi thì quý vị chính là “thánh nhân”, có thể khai ngộ thì quý vị chính là “Bồ Tát”; Nếu như có thể Chánh đẳng Chánh giác, hơn nữa đã triệt ngộ rồi, vậy thì quý vị chính là “Phật” Người học Phật đừng bao giờ phạm phải lỗi lầm lớn nhất của con người, đó là không dám đảm nhận cái tâm của một vị thánh nhân và sỡ hữu tâm từ bi của một vị Bồ Tát. 

Người học Phật chúng ta phải học cách bao dung với những người có ý kiến khác mình thì cuộc sống của chúng ta sẽ dễ dàng hơn, và sẽ không có quá nhiều hối tiếc. Hãy lắng nghe người khác nhiều hơn, sẽ thay đổi được chính mình, và sẽ giảm bớt đi những nỗi đau trong cuộc sống. Phải học cách khoan dung, thì mới có thể thay đổi được người khác, bởi vì nhiều người bị dính mắc bởi việc thay đổi người khác, nên mỗi ngày đều muốn đi uốn nắn người ta và gây ra nhiều hối tiếc cho chính mình vào ngày mai. 

Sư phụ kể một câu chuyện cho mọi người nghe, và những câu chuyện này đều rất quan trọng, bởi vì từ bên trong đó có thể nghe được nhiều triết lý của cuộc sống. 

Ngày xửa ngày xưa, ở một ngọn núi rậm rạp, trên một cái cây to, có một con quạ già tên là Cù Kỳ đã sinh ra một vài con quạ con dễ thương và nó rất yêu quý những con quạ con của mình. Con quạ già Cù Kỳ thường chơi trong núi sâu và rừng rậm, sau một thời gian dài, nó lại kết bạn với một con khỉ ở trong rừng, tình bạn của chúng rất sâu sắc. Con rắn độc sống trong khu rừng gần đó theo dõi những con quạ nhỏ dễ thương được sinh ra từ con quạ già, nó thường chăm chú nhìn lên cái cây đó và nghĩ: nếu một ngày nào đó, khi con quạ già và con khỉ đi vắng, thì nó sẽ có cơ hội đi đến và nuốt chửng những con quạ con. 

Một hôm, con quạ già ra ngoài kiếm ăn, con khỉ đầu đàn cũng lên núi hái quả, con rắn độc thấy có cơ hội tốt liền chui vào ổ quạ, nhanh chóng nuốt chửng mấy con quạ con, rồi trườn đi. Quạ già đi kiếm ăn vất vả trở về, khi vào ổ chỉ thấy vài chiếc lông nhỏ và một ít máu, lúc này mới chợt nhận ra những con quạ con của mình đã bị rắn độc nuốt chửng, lòng quặn thắt kêu khóc rất thảm thiết. Con quạ già muốn báo thù cho con của mình nhưng lại không phải là đối thủ của rắn vì thế nên nó càng buồn hơn. 

Lúc này, con khỉ đi hái quả về, nhìn thấy thì vô cùng sửng sốt, bèn hỏi quạ già: “Sao cậu buồn thảm vậy?” Quạ già thuật lại chuyện những con quạ con bị rắn độc nuốt chửng. Con khỉ nghe vậy vô cùng tức giận, giận dữ chửi bới: “Con rắn độc hung ác không có lương tâm, chuyên môn giết hại động vật, nhàn rỗi lười biếng, không chịu làm ăn. Nó thấy kẻ yếu hơn nó, nó giương nanh múa vuốt, ăn tươi nuốt sống kẻ yếu, thật đáng buồn cho kẻ ỷ mạnh hiếp yếu này”. Con khỉ rất có tinh thần chính nghĩa. Sau khi con khỉ đồng cảm an ủi con quạ già xong, nó kiên quyết nói với con quạ già: “Con rắn độc quá đáng ghét, ta sẽ báo thù cho cậu.” Nói xong, nó nhảy đi. 

Con khỉ đi được không xa, nó ở trên cây nhìn thấy con rắn độc đang uốn éo trên mặt đất, nó thầm nghĩ: “Con rắn độc khốn kiếp, ngươi dã tâm ăn tươi nuốt sống con của bạn ta, hôm nay ta sẽ tử chiến với ngươi, quyết không bao giờ bỏ cuộc.” 

Vì vậy, con khỉ đã nhanh nhẹn lao tới trước mặt con rắn độc, làm gián đoạn tiến trình của nó. Thấy vậy, con rắn độc vô cùng tức giận, lao tới quấn lấy con khỉ, con khỉ nhanh nhẹn nhảy qua rồi lại nhảy về phía trước, dùng sức tóm lấy đầu con rắn, lôi nó đến một tảng đá xù xì, dùng sức chà xát. Cuối cùng con rắn độc vỡ đầu chảy máu mất mạng. Con khỉ ném con rắn đã chết vào hố núi, rồi vui vẻ rời đi. Con quạ già cảm thấy rất an ủi khi nhìn thấy mối thù lớn đã được trả báo. 

Sau khi Đức Phật biết được chuyện này, Ngài nói: “Con khỉ chính nghĩa, nó là hóa thân của Bồ Tát, đã hy sinh thân mình để tiêu trừ con rắn độc và ngăn không cho nó làm hại những sinh vật yếu ớt khác, để bảo vệ mạng sống của tất cả chúng sinh, nó thà phạm tội sát nghiệp và bị sa đọa.” 

Mọi người hãy lắng nghe thật kỹ câu chuyện này, nó rất ý nghĩa. Mỗi con người chúng ta sống trên đời này, người tu tâm có thể học giới luật Tiểu thừa, tuyệt đối không sát sinh, nhưng đâu là tinh thần của Phật giáo Đại thừa? Không phải chấp pháp bất hóa (chấp hành giới luật không thay đổi). Mà là thà đọa địa ngục nhưng mong chúng sinh được thoát khổ, cho nên tinh thần vĩ đại của Bồ Tát, đó mới là tinh thần cứu độ chúng sinh đích thực. 

Từ câu chuyện này, chúng ta có thể biết rằng mỗi con người chúng ta trong tâm đều có vô số con rắn độc, ngày ngày đang làm tổn thương trái tim, phổi và dạ dày của chúng ta, làm tổn thương chỉ số IQ và năng lượng của chúng ta, chúng ta phải sử dụng năng lượng tích cực trong tâm giống như con khỉ, để loại bỏ từng con từng con ác ma trong tâm mình. Chúng ta cần phải tiêu trừ ma chướng trong tâm, chúng ta không những phải quản lý tốt cái tâm của mình, mà còn phải xua đuổi ma chướng đã làm tổn thương nó, nhất định phải tiêu diệt chúng. Giúp đỡ và cứu độ người khác mà không sợ gánh nghiệp, đó chính là tinh túy của Bồ Tát trong Phật giáo Đại thừa. Hy vọng rằng mọi người trước tiên hãy nổ lực tự tu cho tốt, khi tự mình tu tốt rồi, thì đồng thời phải học cách cứu độ chúng sinh, như vậy mới có thể lìa khổ được vui. 

“Bạch Thoại Bạch Pháp” dành cho đại chúng hôm nay xin tạm dừng tại đây, xin cảm ơn đại chúng. Hẹn gặp lại vào lần sau.

Tập 19
TRÁNH XA LỤC TẶC, SỞ HỮU THIỀN ĐỊNH

(21/03/2020)

Được rồi, hôm nay sẽ tiếp tục giảng về “Bạch thoại Phật pháp” cho đại chúng. 

Mỗi người chúng ta đều dựa vào “tinh khí thần” trong việc học Phật pháp. Có người nói: “Tinh khí thần của quý vị rất tốt.” Tinh nghĩa là tinh thần; Khí nghĩa là sảng khoái và hạnh phúc; Thần tức là tinh thần không được để cho nó rò rỉ. Tinh thần tức là để người khác nhìn thấy quý vị là một người thần thanh khí sảng vô cùng, thoạt nhìn là rất sạch sẽ. Mỗi con người chúng ta nếu như muốn tốt về mặt tinh thần, tốt về mặt trường khí và có thể hiểu người khác về mặt “thần”, thì họ sẽ thần thanh khí sảng. Một người có thể chấp nhận quan điểm của người khác và có thể tuỳ duyên, thì cái “thần” của người đó rất tốt. Vì vậy, một người có tinh thần là một người dễ gần gũi. Phương pháp giải thoát của người học Phật nằm ở sự hợp nhất của “tinh khí thần”, mới có thể sinh ra định lực và trí tuệ. Nhiều người cả đời sống trong bóng tối, không hài lòng với bất cứ điều gì, không thoải mái và bất lực, thì họ lấy đâu ra trí tuệ? Họ lấy đâu ra định lực đây? 

Vì vậy, người học Phật chúng ta phải học định. Phật pháp coi “Định” là “Thiền”, vì sau khi một người có thể tu được Thiền thì họ mới có thể Định lại được. Thiền Định sinh ra trí tuệ. Khi gặp phải vấn đề gì, có người nói với quý vị rằng, không ổn rồi, đã xảy ra chuyện gì rồi, thì quý vị có thể hoàn toàn định lại một cách rất nghiêm túc và viên dung, không lo lắng, từ từ nói: “Chúng ta vẫn có giải pháp, rồi thì chúng ta cũng sẽ tìm ra cách thôi”. Vậy thì cái thiền định này đã được toát ra. Vì vậy, người học Phật phải hiểu rằng sau khi thiền định mới có thể tu được trí tuệ. Nhiều người học Phật, tu đến về sau không biết tại sao phải thiền định. Ngồi thiền mỗi ngày, thì sẽ định lại được, sau khi ngồi thiền điều gì khác sẽ xảy ra đây? Đó chính là trí tuệ xuất hiện. Vì vậy, chỉ những người có trí tuệ mới có được thiền định. Định Huệ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quan hệ mật thiết tương đương với mối quan hệ giữa hơi thở với hơi thở.  Bởi vì khi quý vị thiền định, thì trí tuệ sẽ xuất hiện. Thử nghĩ xem, người trí tuệ thì có làm loạn không, có nhảy thót lên không? Thân và tâm thật sự được định lại, thì mới có thể sinh ra được trí tuệ đích thực, và mới có thể dễ dàng giải thoát. Tại sao có nhiều người không dễ giải thoát và gặp chuyện không thể định lại được. Khi quý vị nói với cậu ta: “Cậu nghĩ ra cách thử xem.” Thì cậu ấy trả lời: “Tôi không nghĩ ra cách nào!” Thế thì làm sao có thể giải thoát được đây? 

Giới Phật pháp thường nói: Thân tâm định, trí huệ sinh. Cả thân thể và tâm trí đều phải định. Nhiều người khi cái thân đã ngồi xuống: “Hãy bình tĩnh bình tĩnh, ngồi xuống và hãy nhanh nghĩ ra giải pháp”, họ không thể nghĩ ra giải pháp vì tâm không định lại được. Khi thân thể đã định, thì tâm cũng phải định theo. Còn có người nhìn thì có vẻ như tâm rất định, nhưng trên thực tế thân thể của họ không ngừng chạy tới chạy lui, bận rộn qua lại, váng đầu hoa mắt, hồn phách không đủ, là do thân thể, hơi thở, sinh mệnh và trí tuệ của người này không định lại được, thì họ sẽ không sản sinh ra được trí tuệ. Vì vậy, người trầm cảm thì sẽ không tìm thấy trí tuệ, không tìm thấy thiền định. 

Người có trí tuệ thì có hai cánh, vì hai cánh sẽ giúp họ thăng bằng, như con chim có hai cánh, nó sẽ không bị rơi xuống. Người học Phật chúng ta có hai cánh gì? Một là Thiền, hai là Định, thế nên mới có thể sinh ra được trí tuệ. Sau khi chúng ta học Phật học càng về sau, trí tuệ có thể bay lên trời xanh như chim, và có thể bay cao chao liệng trên không trung, bởi vì do có được Thiền và Định. Vì vậy, đối với một người khi có thể định được, thì không có gì trên đời có thể khiến họ lo lắng hay buồn phiền, bởi vì họ có tâm nên không sợ bất cứ điều gì, và tâm họ nhất định có thể định lại được. 

Trên thế gian này, nhiều người trong chúng ta có tâm bất định và tạp niệm phân phi: “Chuyện này phải làm sao, chuyện kia phải làm thế nào”, nếu không phân biệt được thì sẽ có đúng sai; không phân biệt được đúng sai, thì không biết chuyện gì nên làm và chuyện gì không nên làm. Nhiều người vì có quá nhiều tạp niệm, nên họ dần xa rời trí tuệ, dần dần làm nhiều điều sai trái, tiếp tục phạm sai lầm trong vòng luân hồi, và gây ra ân hận suốt đời. 

Cũng có một số người khi xảy ra chuyện gì, họ có được trí tuệ nhỏ, kế nhỏ, đầu óc rất linh hoạt, tiểu xảo nhiều… Nên nhớ, tiểu xảo dễ phạm tội, dễ phạm sai lầm, đại thông minh mới là trí tuệ, còn động tiểu não là sự thông minh nhỏ (là tiểu xảo). Đó là lý do tại sao sư phụ thường nói với mọi người rằng: Quý vị đừng động tiểu xảo. Nếu quý vị chân thực, thì người khác tin quý vị; Nếu quý vị chân thực thì người khác yêu mến quý vị. Nghĩ rằng động chút tiểu xảo là có thể lừa được người khác sao? Trên thực tế, thì IQ của người này là rất thấp. Con người thời nay có ai mà ngốc đâu? Ai mà không hiểu cơ chứ? Người dùng biết bao nhiêu chiêu trò nhỏ nhặt, trong cuộc sống, trong cơ quan, trong giao kết bạn bè, làm sao mà người khác không hiểu được? Vì vậy, chỉ có chân thực mới có thể biến thành đại trí tuệ, bằng không thì đó chỉ là trí tuệ phàm trần. Con người sống trên đời này luôn nghĩ ra nhiều thứ để đầu cơ trục lợi: “Việc này tôi có thể dùng chút mánh khóe, tôi có thể nghĩ ra cách cho việc này, tôi có thể làm được điều này…” Cuối cùng, phiền não đeo bám theo sau. Bất kì ai chỉ cần không có được đại trí tuệ, thì điều mà người ấy nghĩ ra gọi là tiểu xảo. Rồi dần dần, không có được trí tuệ thì sẽ không có được định, không có định lực thì sẽ đi sai đường. 

Điều cơ bản nhất của một người học Phật là học đạo lý làm người. Đạo lý làm người là gì? Đó là phải có trí tuệ và định lực thì mới có thể sống cuộc sống của một người bình thường. Khi người có trí tuệ nói chuyện chân thực với người khác thì sẽ được coi đó là con người; người có trí tuệ như thánh nhân sẽ được coi là thánh nhân; người mà suốt ngày dùng tiểu xảo của nhân gian, dùng mưu đồ xấu, thì sẽ bị người khác coi họ như ma. Vì vậy tại sao nhiều người cả đời không thành công, bởi vì họ coi người khác là kẻ tiểu nhân, và cho rằng người khác có thể bị lừa dối, bản thân mình có thể che giấu được tội lỗi, cuối cùng một bước sa chân ngàn lần ân hận. Sư phụ thường nói với mọi người rằng, nếu quý vị muốn sống một cuộc sống ổn định, nên coi việc nhỏ như việc lớn để làm, và việc lớn thì càng phải làm nghiêm túc hơn. Mỗi người chúng ta đều không nên coi thường người khác, tưởng rằng người khác sẽ không biết, hoặc không dễ dàng gì biết được, kỳ thực con người có trí tuệ vô cùng, nếu biết nghĩ như vậy thì quý vị mới có được trí tuệ. Cũng giống như chơi cờ, quý vị tìm bạn chơi cùng, quý vị cho rằng người này trình độ rất thấp, nếu quý vị coi thường địch thủ, thì sẽ sớm bị họ chiếu tướng ngay, nếu hôm nay có người nói với quý vị rằng đối thủ là một người chơi cờ rất cao tay, thì có khả năng quý vị đã khác rồi.  

Đôi khi chúng ta làm người đơn giản một chút nhưng lại khiến người khác tôn trọng mình hơn; ăn uống đơn giản một chút thì cuộc sống của quý vị sẽ viên mãn hơn; dùng đơn giản một chút thì quý vị sẽ không tham không cầu. Nếu không có định lực thì khó duy trì cuộc sống ổn định thường ngày, vì chúng ta không có định lực thì muốn cái này, muốn cái kia, muốn đủ thứ, cuối cùng chẳng được gì. 

Tu tập tốt hơn tùy thuộc vào hạt giống trí tuệ và thiền định, tu tâm tu càng về sau phải tu ra hạt giống đó. Cho nên sư phụ thường hỏi các đệ tử, các con có hạt giống từ bi không? Có hạt giống trí tuệ không? Nếu cả đời này các con đều rất có trí tuệ, thì hạt giống này sẽ tiếp tục nảy mầm, sinh sôi nảy nở và tiếp tục phát triển. Khi một người có trí tuệ thì trí tuệ của họ sẽ không ngừng sản sinh ra, kẻ ngu si thì họ sẽ nghĩ ra một ý tưởng ngu si, và nếu quý vị yêu cầu họ nghĩ ra một ý tưởng khác, thì họ vẫn sẽ nghĩ ra một ý tưởng ngu si. 

Con người thật sự cần đoạn trừ lục tặc trên thân mình, đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Tuyệt đối không được ngửi thấy mùi thơm là ham muốn. Mắt nhìn thấy của ngon lại muốn giành lấy. Tai thích nghe lời hay. Lưỡi thích ăn ngon. Thân thích ngủ êm ái v.v… Tất cả mọi thứ, kể cả ý niệm làm tổn thương người khác hoặc bản thân mình bị tổn thương, đây đều nằm trong lục tặc. Những tạp niệm này sẽ khiến cho chúng ta bị lạc lối trong việc tu tâm và làm cho suy nghĩ của bản thân trở nên lệch lạc. Người học Phật chúng ta phải khắc phục những lệch lạc này và sống trong năng lượng tích cực mỗi ngày. Chúng ta nói những điều tốt đẹp, nói những điều đúng đắn, không nói dối và làm tốt bản thân mình. Để cho người hiểu mình, mình cũng có thể hiểu người, có thể hoán đổi vị trí cho nhau, có thể dùng trí huệ của Bồ Tát mà hóa giải phiền não đôi bên trong xã hội, đó gọi là trí huệ bát nhã.  

Tu hành đôi khi không có nghĩa là bái lạy Phật, nghe nghe kinh văn, mà đây là: “Mong Bồ Tát phù hộ cho con, con hy vọng có thể nghe được kinh văn, có thể nghe thấy được Phật pháp”. Giống như nhiều người đệ tử trong chúng ta, bây giờ không phải chỉ là vấn đề về tai nghe, mà là phải làm sao có thể hiểu được Phật pháp “Như Thị Ngã Văn” (Tôi nghe như vậy). “Như Thị Ngã Văn”, tức là Phật Pháp y như chính mình nghe, giống như quý vị ở trong thức thứ tám, trong thức thứ 9, Amala thức trong tâm mình đã có sẵn Phật tánh vậy. Bởi vì chúng ta không đơn thuần chỉ nghe mà còn đang phân biệt và đang suy nghĩ, quý vị đã dùng trí tuệ của mình để từ từ hiểu được những đạo lý của thế giới này là chân thật hay không, đã và đang suy nghĩ xem những nguyên lý Phật giáo đó có phải là ý nghĩa thực sự mà chúng ta học Phật làm người hay không. 

Tu hành thực sự là dừng mọi suy nghĩ về tiểu ngã trong nhân gian. Rất nhiều người khi xảy ra chuyện đều dùng tiểu xảo, đều là tư duy vị kỷ, cho nên cần phải tu định, dần dần có được định tính, thì chúng ta mới có thể bắt đầu với ý niệm, tạp niệm, rồi mới từ từ đi vào dừng niệm, sau khi dừng niệm rồi thì mới có thể định niệm. Chúng ta định ở loại tư tưởng nào? Điều chúng ta cần định vào đó là Chánh tín Chánh niệm mà Đức Phật và đạo Phật đã truyền cho chúng ta, chỉ có định vào Chánh niệm này thì mới có được trí tuệ chân chính trong tu tập. Vì vậy, người học Phật phải hiểu được dừng niệm, định niệm, ngưng lại mọi tạp niệm của mình và định trụ trong Chánh tín Chánh niệm của mình. Khi quý vị có thể định trụ được những tạp niệm bay khắp nơi của mình thì dần dần đến ý nghĩ của một loại tạp niệm cũng sẽ không có nữa, đây gọi là định, và nó không dễ dàng chút nào. 

Nhiều bạn Phật tử mới bắt đầu học Phật, quỳ trước Quán Thế  Âm Bồ Tát, đầu óc đầy tạp niệm, nhiều người quỳ trước mặt Quán Thế  Âm Bồ Tát, mắt nhìn Bồ Tát chăm chú, nhưng tạp niệm không biết bay đi đâu, họ không có được định niệm, kỳ thực điều này còn cách xa với tu hành Bát nhã chân chính. Thấy được chư Bồ Tát thì phải nghĩ đến đại từ đại bi, gặp ác mộng sẽ biết thế nào là Chánh pháp. Sư phụ nói với mọi người rằng, định niệm đích thực đó chính là tâm vô quái ngại. 

Tập 20
TÌM BỔN TÁNH TRONG VÔ THƯỜNG

(21/03/2020)

Những người có thể định lại được thì không bị vướng ngại bất cứ điều gì ở nhân gian, còn những người không thể định lại được thì đầy những tạp niệm hoạnh phi. Nếu như những ý nghĩ tưởng tượng thậm chí cũng không còn xuất hiện nữa, thì tạp niệm dĩ nhiên cũng sẽ hoàn toàn biến mất. 

Sau khi quý vị trì niệm, quý vị sẽ có được định trụ một ý nghĩ của năng lượng tích cực. Khi quý vị tụng kinh, những kinh văn sẽ được chuyển hóa thành một loại năng lực huyền bí vô hình, loại năng lực này chính là ý nghĩ. Những loại năng lượng tích cực của ý nghĩ tốt này sẽ đi vào thức thứ 8 và thường ở lại trong thức thứ 8 hướng dẫn cho thức thứ 7 phân biệt ý thức, để cho quý vị biết đâu là điều tốt có thể đi vào, và đâu là không tốt là người xấu thì đẩy họ ra ngoài.Khi thức thứ 8 của quý vị tràn đầy những năng lượng tích cực thì quý vị có thể kết nối quan hệ với thức thứ 9 của mình. Điều này tương đương với việc người tốt ở bên người tốt, thì quý vị mới có thể gặp được người tốt nhất, còn khi người xấu ở bên người xấu, thì cuối cùng người đó sẽ giới thiệu cho quý vị người tồi tệ nhất. Sư phụ sẽ nói cho mọi người cùng biết, đôi khi chúng ta gặp một số vong linh trong giấc mơ của mình, nhưng chỉ cần ngay trong giấc mơ đó quý vị Chánh tín Chánh niệm, quý vị có thể hoàn toàn kiểm soát được ý niệm của mình, thì quý vị sẽ không phát sinh hiểu lầm và phiền não với thế giới tâm linh trong giấc mơ của mình. Tại sao nhiều người có thể chuyển nguy thành an ngay cả khi gặp nguy cấp trong giấc mơ? Bởi vì họ niệm “Nam Mô Đại Từ Bi Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát”.

 Như như bất động, không chỉ là miệng không động, điều quan trọng nhất là tâm của quý vị không được động. Tâm động thì miệng sẽ động, tâm động thì thân cũng sẽ động; tâm động rồi thì mọi ý nghĩ đều động, vạn vật đều động. Vì vậy, tâm của quý vị có động hay không, người khác có thể nhìn ra được từ ánh mắt của quý vị. Nhiều người háu ăn đi ngang qua một cửa hàng thực phẩm, khi tâm của họ vừa động, mắt của họ sẽ sáng lên, thì miệng sẽ động ngay lập tức – nước miếng cũng chảy ra rồi. Con người chúng ta thực sự cần hiểu rằng, tâm là thứ không thể lay động, khi đã kiểm soát chặt chẽ ý niệm của mình thì hành vi và lời nói của quý vị giống như tâm bất động, hết thảy đều không lay động. Cho nên chúng ta cần “định”, nghĩa là khi tâm không động thì quý vị có được định lực. Bất kể những thứ tốt như thế nào, hay cho dù thức ăn có ngon đến đâu đi chăng nữa, nếu như hôm nay quý vị bị tiểu đường thì quý vị không được ăn những thứ đó, nhìn thấy bánh ngọt thì trong tâm phải như như bất động. Hôm nay, nếu quý vị là một kẻ háo sắc, khi nhìn thấy gái đẹp, nhìn thấy trai trẻ thì quý vị không được động tâm. Khi động tâm sẽ khắc sâu vào tiềm thức và quý vị dần dần sẽ luôn nghĩ về nó, điều này tương đương với việc quý vị thường xuyên bới đống rác ra xem, sau đó lại bới móc ra để xem lần nữa, tiếp theo đó trong tâm trong não của quý vị sẽ chứa đầy những thứ hôi hám bẩn thỉu. 

Vì vậy, niệm kinh gì để bản thân không nghĩ ngợi mới là điều quan trọng nhất. Vậy thì có thể niệm kinh gì để cho ý niệm của mình định trụ đây? Sư phụ sẽ nói cho mọi người biết: Trong tâm hãy thường trú Quán Thế Âm, trong tâm hãy thường niệm Quán Thế Âm, trong ý niệm phải luôn nghĩ đến Quán Thế Âm Bồ Tát. Phải hiểu rằng tiềm thức là một loại cảm giác, và tiềm thức là một loại cảm nhận của sự bất lực, kể cả những nỗi niềm bi thương và hạnh phúc trong cuộc sống, sở dĩ những cảm giác này tồn tại vì chúng đều là ảo tưởng. Giống như “Kinh Kim Cang” đã nói: “Như mộng, huyễn, bào, ảnh Như lộ diệc như điện Ưng tác như thị quán”. Những điều này đều là cảm giác. Giống như hôm nay chúng ta đến nhà hàng ăn cơm, cảm thấy nhà hàng này nấu ăn hương vị rất ngon, có người thì nói: “Hôm nay vì được đi du lịch đến một nơi nào đó tôi cảm thấy rất thoải mái và vui vẻ”, đó là một loại cảm giác. Cảm giác có thể tồn tại trong tích tắc, và cũng hoàn toàn có thể biến mất trong tích tắc. Vì vậy, có được trí tuệ thật sự chính là kiểm soát tốt tiềm thức của bản thân và đừng để cảm giác này xâm nhập vào sâu trong tận đáy lòng mình, bởi vì bất kỳ cảm giác nào cũng có thể gây tổn hại về mặt tinh thần cho chúng ta. Một cảm giác tốt có thể khiến cho trong lòng chúng ta tạm thời được an ủi, nhưng một cảm giác tồi tệ có thể tồn tại trong lòng chúng ta suốt đời. Nhiều người trong thời thơ ấu sẽ có những ký ức, khi cha mẹ đánh nhau và ném đồ đạc trong nhà, khi ấy còn nhỏ nên chúng ta cảm thấy rất sợ hãi, và có thể chúng ta sẽ nhớ cảm giác đó suốt đời. Còn nếu khi còn bé, chúng ta được cha mẹ đưa đi ăn một bữa ăn ngon, chúng ta sẽ nhanh chóng quên đi. Nói về mặt tâm lý học, đó là một loại cảm giác, một loại cảm xúc. Cảm giác là một điều hư ảo, cảm giác là thứ không thực tại. Đây là những gì mà Đức Phật đã dạy chúng ta, trong lòng chúng ta sẽ liên tục có cảm giác, rồi lại liên tục không ngừng xóa sạch nó. Chúng ta có những câu hỏi liên tục được sinh ra và bản thân chúng ta cũng sẽ liên tục tự hồi đáp những câu hỏi đó từ trong tâm mình. Chúng ta liên tục sản sinh loại cảm giác tốt và cảm giác xấu, và rồi những cảm giác đó lại biến mất đi trong sự khẳng định và phủ định của chính bản thân mình. Vì vậy, con người chúng ta không nên tin vào những thứ hão huyền trên thế gian, không gì tồn tại mãi mãi, mọi thứ đều sẽ thay đổi. 

Cho nên, người thật sự có trí tuệ, tu tập đến một lúc nào đó, đến khi nội tâm của mình có thể chế ngự được ngoại tâm. Khi ngoại tâm của mình muốn làm một việc gì đó, và rõ ràng biết rằng điều đó là không đúng lý không đúng pháp, thì trong tâm quý vị lúc này sẽ có một loại năng lượng tích cực phát ra từ trong thức thứ 8, để loại bỏ giác quan ý thức của thức thứ 7 và thức thứ 6. Chẳng hạn như: “Hôm nay tôi có thể kiếm được tiền của người này”, đó là tiền tôi xứng đáng có được, cho nên tôi có thể kiếm, nhưng trong thức thứ 8 của quý vị lúc này sẽ nói rằng, chúng ta là người học Phật, chúng ta không thể kiếm tiền của những người già, yếu, bệnh, tàn, người nghèo và những người có kinh tế không được tốt lắm. Vì vậy sự tồn tại của thức thứ 8 trong lúc này sẽ phủ nhận cái khái niệm “Chỉ biết kiếm tiền vì bản thân” trong thức thứ 7 của quý vị. Như vậy năng lượng tích cực của quý vị đã chiến thắng được năng lượng tiêu cực của bản thân và quý vị đã ngừng suy nghĩ rồi. Quý vị đã có thể ngăn chặn được những ý niệm tham lam không tốt và những tạp niệm của mình ở chốn hồng trần. 

Người tu hành phải biết tự tu, thường xuyên tự hỏi bản thân mình: “Việc này mình làm như vậy có đúng không”, và thường xuyên tự kiểm điểm bản thân mình: “Trong thời gian qua mình có tham, sân, si, mạn, nghi không? Có thường không làm một số việc thiện và thường nghĩ về những điều nhỏ nhặt gì hay không?” Chúng ta hãy đừng nói những điều không nên nói, đừng làm những điều không nên làm. Hãy luôn tự hỏi lòng mình, nói theo cách ở nhân gian chúng ta bây giờ là hãy luôn tự hỏi lương tâm của mình, lương tâm của mình có xứng đáng với những việc mình đã làm và những gì mình đã nói hôm nay không, đây gọi là giác ngộ, hay còn gọi là sự tự giác. 

Đôi khi đừng xem bản thân mình quá to lớn hay vĩ đại, chúng ta còn không biết mình là ai. Chúng ta là ai? Rốt cuộc là chúng ta đi về đâu? Và từ đâu đến? Mọi thứ đều trong vô thường. Con người chúng ta nên đi tìm cái nguyên thủy, cái mộc mạc, cái giản dị của loài người, đó chính là Phật tánh nguyên thủy của mình, và tìm thấy sự thức tỉnh nguyên thủy đích thực của chính mình. Từ “Phật” vốn dĩ được dịch từ tiếng Phạn, mang ý nghĩa là giác giả, tức là một người giác ngộ. Một khi ở thế gian quý vị đã giác ngộ rồi, thì quý vị có thể làm chủ được thế giới này, khi quý vị vẫn còn mê muội điên đảo, ngày ngày không biết làm thế nào để thoát ra khỏi nó, sống trong phiền não, quý vị không cảm nhận được sự đau khổ nhưng thực ra cái tâm này của quý vị đang chịu đựng đau khổ và rồi bản thân tự nhiên mang nhiều năng lượng tiêu cực hơn, khiến quý vị không thể giải thoát được. Sau khi quý vị học Phật, quý vị cần phải trở thành một người giác ngộ, trở thành một người có thể kiểm soát suy nghĩ của mình và là một người biết được bản thân đang làm gì, có như thế thì quý vị mới có thể nâng cao được cảnh giới.

“Thế giới bổn vô sự, dung nhân tự nhiễu”. Có rất nhiều chuyện là do bản thân mình tự nghĩ ra, bởi lòng ích kỷ của con người sẽ gây xích mích với người khác, cũng sẽ dẫn đến tổn thương cho chính mình. Điều quan trọng nhất đối với một người là phải có tố chất cơ bản của một con người, tố chất cơ bản của một người là nên học cách giao tiếp, học cách tín nhiệm, học cách thận trọng và nên học cách đồng cảm hoán đổi vị trí, để chúng ta có thể hạnh phúc. Đây là một yếu tố cơ bản để làm người. 

Sư phụ kể cho mọi người nghe một câu chuyện ngụ ngôn, để nói với mọi người rằng: Thế giới không có gì là sai, mà chính tâm người đã gây hại cho xã hội, cho người khác và cho chính bản thân mình. Có một con sư tử và một con hổ, mỗi con chiếm giữ một ngọn đồi. Một ngày nọ, một trận chiến khốc liệt nổ ra giữa chúng nó. Sư tử và hổ đã chiến đấu, nan giải nan phân (rất khó phân thắng thua). Cuối cùng, con sư tử bị đánh đến nổi không thể di chuyển được nữa, con hổ bị bầm tím khắp người, và cả hai bên đều bị thiệt hại. Khi con sư tử sắp chết, nó xông qua nói với con hổ đang nằm nghiêng không dậy được: “Nếu không phải mày nhất quyết cướp địa bàn của tao thì chúng ta đã không như bây giờ”. Con hổ kinh ngạc nói: “Ta chưa từng nghĩ tới cướp đoạt địa bàn của ngươi, ta luôn nghĩ rằng chính ngươi muốn xâm chiếm ta.” 

Câu chuyện này muốn nói với mọi người rằng: Giao tiếp với nhau rất quan trọng, nếu không hiểu người khác thì sẽ gây tổn hại giữa người với người. Vì vậy, để duy trì mối quan hệ với một người (kể cả đối với sếp hay cấp trên trong công việc), quý vị phải biết cách trao đổi nhiều hơn, tin tưởng nhau, tôn trọng nhau, đồng cảm hoán đổi vị trí và học cách vui vẻ, đó là năm yếu tố cơ bản nhất của một con người. Đừng nên chuyện gì cũng đè nén trong lòng, hãy giao tiếp nhiều hơn với người khác, để đồng nghiệp, nhân viên, bạn bè và người thân có thể hiểu mình, thì quý vị sẽ tránh được nhiều hiểu lầm và xích mích không đáng có. Sư phụ chỉ hy vọng rằng mọi người sẽ học Phật pháp tốt và hiểu rõ những nguyên lý này cho tốt. 

Thật ra, học Phật có liên quan rất lớn đến đời sống của chúng ta. Trong cuộc sống chúng ta gặp phiền não, nhiều người cho rằng học Phật là việc của người học Phật, tụng kinh là việc của Tăng Ni, ít liên quan gì đến đời sống thực tế của chúng ta. Sư phụ nói cho mọi người biết từ góc độ tâm lý học mà nói, thực ra giữa người và người đều có những ảnh hưởng từ trường lẫn nhau. Xưa nay xét về tướng mạo, hai người có tướng phu thê, thì ở với nhau được lâu dài. Trên thực tế, vợ chồng sống cùng nhau trong một thời gian dài, thật sự họ sẽ càng ngày càng giống nhau, không chỉ khuôn mặt rất giống nhau, mà cuối cùng tính cách, tính tình cũng rất giống nhau. Đây cũng là điều mà tâm lý học đã chứng minh, con người có một mối quan hệ truyền nhiễm ở trong nội tâm sâu thẳm, một mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau. Khi vui, hai người có tính cách giống nhau, sẽ cùng vui vẻ. Còn khi buồn, hai người sẽ cùng nổi giận, không chịu nhường nhịn nhau, càng cãi càng dữ dội, càng ngày càng giận dữ. Đây là lý do tại sao nhiều cặp vợ chồng khi cãi nhau như kẻ thù, khi tốt với nhau lại tốt vô cùng, bởi vì tính khí và tính cách của họ giống nhau, đó là sự lây nhiễm và ảnh hưởng lẫn nhau, vì vậy họ hạnh phúc và tức giận cùng nhau, cho nên mọi người nói hai người này là trời sinh một cặp, cãi nhau thì cũng ầm ĩ như vậy và cái tâm thì cũng giống như vậy. 

Trong tâm lý học cũng có một thuật ngữ gọi là “lây nhiễm cảm xúc”. Cảm xúc có thể lây sang đối phương, quý vị thường truyền tâm trạng không tốt của mình cho một người đang có tâm trạng tốt, nếu thường xuyên tiếp xúc, tâm trạng không tốt của quý vị sẽ truyền sang cho họ. Lấy một ví dụ đơn giản, một người trước đây vui vẻ hào phóng đột nhiên ở bên một người mà suốt ngày tâm tư u buồn, lâu ngày cảm xúc bị lây nhiễm, và người này cũng sẽ trở nên rất buồn bã. Nhà tâm lý học người Mỹ John Cacioppo từng đề xuất khái niệm lây nhiễn cảm xúc, ông cho rằng cảm xúc có thể lây lan cho nhau giống như virus. Vậy khái niệm lây nhiễm cảm xúc này hoạt động theo nguyên tắc như thế nào? Vì chúng ta trong tình trạng vô thức mà bắt chước ngôn ngữ, giọng điệu, cử chỉ và hành động của những người xung quanh, kể cả hình ảnh và tư duy của họ, cho nên đôi khi nó kích thích các nguyên tố thần kinh tương ứng trong não chúng ta, đó là cách mà Phật pháp nói về việc đi vào trong thức thứ 8 của mỗi người. Các nhà tâm lý học đã nói rằng cảm xúc của người bị bắt chước có thể đi vào đại não của đối phương ngay lập tức với tốc độ lan truyền chỉ là 21 phần nghìn giây. Nói cách khác, sự ảnh hưởng cảm xúc của người này đối với người kia có thể khiến đối phương nhảy thót lên chỉ bằng một câu nói, và cũng có thể khiến đối phương bật cười cũng chỉ bằng một câu nói mà thôi.

Tập 21
ĐẠI TRÍ TUỆ CỦA ĐỨC PHẬT

(21/03/2020)

Triết học chính là đang phân tích mối quan hệ giữa người với người tại sao lại bị nhiễm quá nhiều cảm xúc. Tâm thái người học Phật chúng ta sẽ trở nên thiện lương khi ở cùng với những người cũng tu tập học Phật. Nếu hôm nay chúng ta ở cùng với người không tử tế, tâm thái của chúng ta sẽ trở nên bất thiện. 

Sư phụ nói với mọi người rằng mong muốn mọi người thoát khỏi trầm cảm, đó là phải hoán đổi vị trí cho nhau. Thường xuyên nghĩ đến đối phương, thì quý vị sẽ giảm bớt đi áp lực trong lòng mình. Bởi vì điều này không phát sinh trên người quý vị, thì áp lực của quý vị rõ ràng là sẽ nhẹ đi. Nếu điều này phát sinh trên người quý vị, thì quý vị sẽ bị rơi vào trầm cảm. Đó là lý do tại sao sư phụ nói với quý vị rằng cảm xúc giống như virus, chúng có thể lây lan rất nhanh, “bất tri bất giác”, chỉ vô tình thôi mà lây lan cho người khác. Vì vậy, chúng ta phải học cách tự bảo vệ mình khỏi bị lây nhiễm bởi cảm xúc của người khác, đây mới được gọi là có trí tuệ. Lòng từ bi cũng có tính lây lan, hôm nay quý vị từ bi, người khác cũng từ bi, chúng ta cùng nhau biểu lộ lòng từ bi, đó gọi là đại từ đại bi. Cho nên chúng ta cùng nhau cứu độ người, đó gọi là quảng độ hữu duyên. Hôm nay chúng ta tịnh tâm tịnh ý, hoàn toàn dùng tâm trong sáng của mình để giúp đỡ người khác, thì quý vị chính là đang tạo ra một môi trường yêu thương. Cho nên tâm chúng ta tịnh thì tự nhiên linh, tâm định bách chướng bất xâm. Người mà tâm có thể định lại được, thì mọi chướng ngại không thể xâm nhập vào họ. Tâm linh là ổ khóa, vậy thì có chìa khóa không? Đó chính là pháp môn, để mở tâm linh của quý vị.

Bất kể chúng ta làm việc gì, phải nhớ rằng những gì bây giờ không thể làm được có khả năng sau này sẽ làm được. Nếu trong lòng quý vị mọc đầy cỏ dại, và quý vị nghĩ rằng điều này là không thể làm thì quả thực không thể nào mà đơm hoa kết trái được. Chỉ cần trong lòng quý vị có hoa sen, hoa sen dù chưa nở nhưng nó cũng là một hạt giống, một ngày nào đó nó sẽ lớn thành hoa sen. Một tâm linh bị tạp niệm quấn quanh thì sẽ không thể tu tập thành công đức. Người học Phật chúng ta nên học theo lòng đại từ đại bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, dùng tâm từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát để cứu độ chúng sinh, để cảm hóa từng người Phật tử, để khơi dậy Phật tánh trong lòng mọi người. Đây chính là chân lý đích thực của việc học Phật của chúng ta ngày nay. 

Chà, thời gian trôi qua nhanh quá, sư phụ muốn kể cho đại chúng nghe một câu chuyện. 

Đức Phật có một người em trai tên là Nan Đà. Nan Đà là em trai cùng cha khác mẹ của Đức Phật Thích Ca, tên đầy đủ là “Tôn Đà La Nan Đà (Phạm: Sundara-Nanda)” mọi người đều gọi cậu ấy là “Nan Đà”. Người em trai này cưới được một cô vợ xinh như hoa, vợ chồng rất là ân ái. Nhưng người em này rất hâm mộ trí tuệ và sự tu tập của Đức Phật, cậu ta cũng muốn theo Đức Phật xuất gia, và vì vợ cậu ta ở nhà, lưu luyến không dứt bỏ được nên trong lòng cậu ta rất mâu thuẫn. 

Một hôm, Đức Phật tình cờ đến cửa nhà Nan Đà khất thực, Ngài hỏi Nan Đà: “Cậu đang bận việc gì vậy?” 

Nan Đà, em trai của Đức Phật, nói: “Con và Tôn Đà Lợi (Sundarī, 孫陀利) kết hôn cách đây không lâu. Cô ấy là người phụ nữ đẹp nhất trong mười sáu thành của nước Ca Bì La Vệ (Kapilavastu). Con phải làm nhiều việc cho cô ấy mỗi ngày, bao gồm cả việc giúp cô ấy trang điểm. Vì vậy con không có thời gian đến thăm Đức Phật”. Ông nói tiếp: “Hạnh phúc nhất đời người là lấy được vợ đẹp, giờ đã lấy được rồi nên những chuyện khác không còn khiến con bận tâm nữa”. Nàng muốn con suốt ngày đi theo nàng, không được phép để tâm đến chuyện của người khác, phải nghe lời nàng, bởi vì nàng thật sự là bảo bối của con, hôm nay Phật Tổ đại từ đại bi, đi đến tệ xá (nhà). Không biết muốn tiếp nhận cúng dường gì từ con. Xin hãy nhanh lên, con sợ Tôn Đà Lợi sẽ phải sốt ruột chờ con. 

Sau khi nghe điều này, Đức Phật biết rằng không đạo lý nào có thể lay chuyển được cậu ta, chỉ có sự thật mới có thể khiến cậu ta giác ngộ trở lại. Vì Đức Phật có thần thông vĩ đại của Phật nên Ngài đã dùng thần thông biến hóa đột ngột đưa người em ra ngoại thành. Chỉ vào một con khỉ cái rất bẩn thỉu và xấu xí, Đức Phật hỏi người em: “Này Nan Đà, Tôn Đà Lợi vợ cậu, so với con khỉ cái này như thế nào?” 

“Đức Phật, xin Ngài đừng chế giễu con được không!” Nan Đà không vui, “Vợ con có vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, và cô ấy còn có khuôn mặt thanh tú vô song, cô ấy không thể tách rời khỏi tình yêu của con. Cô ấy giống như một nàng tiên trên trời, làm sao có thể sánh cùng con khỉ cái này cơ chứ?” 

Đức Phật lại ân cần nói: “Này Nan Đà, vợ cậu thật sự xinh đẹp như tiên trên trời sao? Thảo nào cậu nghe ta nói mà tức giận. Tuy nhiên, cậu chưa từng thấy tiên nữ trên trời bao giờ. Cho nên không thể so sánh với phụ nữ ở thế gian. Nếu cậu muốn nhìn thấy tiên trên trời, ta có thể đáp ứng mong muốn của cậu và đưa cậu lên trời ngay lập tức.” 

Tức thì, Đức Phật dùng thần lực uy đức đưa người em lên cõi trời ngay tức khắc. Nan Đà nhìn thấy lầu quỳnh gác ngọc nguy nga lộng lẫy trên trời, nghe thấy tiếng nhạc du dương êm ái, ngửi thấy hương hoa thơm ngát, lúc này tâm hồn Nan Đà bay bổng. Dạo bước giữa biển hoa thơm ngát và rực rỡ. Nan Đà nhìn thấy một số cô gái xinh đẹp đang chơi ở đó, và đã bị vẻ đẹp của họ quyến rũ đến ngớ ngẩn. Đó là các tiên nữ trên trời, khi họ nhìn thấy Đức Phật đều đến cung kính đảnh lễ và cúi đầu chào hỏi. 

Đức Phật hỏi một vị tiên nữ: “Này tiên nữ, ngươi đã kết hôn chưa?” 

Vị tiên nữ ngượng ngùng đáp: “Dạ chưa.” 

Đức Phật lại hỏi: “Tại sao ngươi vẫn chưa kết hôn?” 

Vị tiên nữ nói: “Cuộc hôn duyên của con vẫn chưa chín muồi. Người chồng tương lai của con vẫn còn ở nhân gian của thế giới Ta bà. Chàng tên là Nan Đà, phải chờ đợi nhân duyên phước báo ở nhân gian của chàng báo hết, khi sinh về cõi trời thì con sẽ kết hôn với chàng, hiện giờ con vẫn đang chờ đợi.” 

Đức Phật nghe xong và gật đầu. Nhưng Nan Đà ở bên cạnh nghe thấy cũng không nhịn được và nói: “Bạch Thế Tôn, nếu vị tiên nữ này có duyên với con, thì con không muốn trở lại nhân gian nữa. Vợ con người phàm không thể so sánh với sắc đẹp một phần triệu của cô tiên nữ này.” 

Đức Phật giơ tay ra hiệu bảo các thiên nữ tiếp tục chơi đùa như lúc nảy, và vừa đi vừa nói với Nan Đà: “Cậu không nghe tiên nữ nói là nhân duyên của hai người vẫn chưa chín muồi sao? Yên tâm, ta dẫn cậu đi nơi khác xem một chút.” 

Khi đang nói, Đức Phật đã đưa em trai của Ngài là Nan Đà đến địa ngục tối tăm như một cơn gió. Nan Đà không khỏi khiếp sợ, trở nên sợ hãi, cẩn thận đi theo Đức Phật. Dọc theo đường đi, cậu ta cảm thấy sàn nhà gồ ghề không bằng phẳng, dường như còn nghe thấy tiếng thần quỷ kêu gào xa gần, nghe thấy cũng không đành lòng. Đột nhiên, đến một nơi, dường như mảnh đất rộng lớn trước hang động của núi nham thạch, âm khí nặng nề, khắp nơi lò lửa đỏ rực, trên bếp là chảo dầu lửa nóng hầm hập, dầu sôi ùng ục. Tất cả những quỷ sai đều xấu xí, mặt xanh, răng nanh, hung dữ và đáng sợ, chúng cầm một chiếc nĩa sắt lớn để xiên một tù nhân bỏ vào chảo dầu, tiếng la hét thảm thiết, da thịt bị xé toạc, bộ mặt hoàn toàn thay đổi, nhưng quỷ sai sẽ không giết chết tù nhân mà chỉ đợi đến khi tù nhân đau đớn cùng cực, bị nâng lên, rồi lại bị ném xuống, đau khổ thảm thiết. Nan Đà chứng kiến tận mắt mọi thứ, và cậu ta vô cùng sợ hãi, lúc này cậu ta không thể đi được nữa, hai chân bủn rủn. 

Đức Phật chỉ một con quỷ già đang ngồi bên bếp lò trống và hỏi: “Này quỷ sai, sao ngươi lại ở đây?” 

Quỷ già đáp: “Diêm La Vương sai tôi đến đây để chờ đợi. Có một người nhiều đời nhiều kiếp tạo nghiệp ác tên là Nan Đà. Đợi hắn hưởng hết diễm phúc ở nhân gian và trên trời, thì hắn sẽ từ trên trời rơi xuống địa ngục và lúc đó thì tôi sẽ phải bận đốt lửa nấu dầu để chiên hắn ta.” 

Khi Nan Đà nghe được điều này, cậu ta sợ hãi đến hồn lìa khỏi xác. Cậu ta hiểu rõ, nếu mình không thể thoát khỏi sinh tử, dù thăng thiên cũng vẫn ở trong tam giới, không thể vượt qua bên ngoài ngũ hành, vẫn phải chịu sự thống khổ của lục đạo luân hồi, nên phải bức bách xuất ly học đạo. Vì vậy, cậu ta kiên quyết theo Đức Phật xuất gia để yên tâm tu tập. Chính vì tận mắt chứng kiến sự khủng khiếp của địa ngục nên trong quá trình tu tập sau này, thanh quy giới luật không nhuốm bụi trần, vi tế trong việc học Phật pháp không bao giờ vi phạm giới luật và giới điều. Đức Thế Tôn gọi cậu ta là đệ nhất giữ giới. 

Câu chuyện này khuyên chúng ta rằng người học Phật không nên tham lam, chỉ cần chúng ta tu học Phật là phải biết chân lý của thế sự vô thường. Chúng ta không thể vì bản chất phàm phu của chúng ta vì những tham lam nhất thời của nhân gian mà làm những việc ngu si điên đảo. Chúng ta nên thương xót họ và chấp nhận những chúng sinh đau khổ đó. Chúng ta cần quản lý tốt bản thân và còn phải cứu độ chúng sinh thông qua các phương tiện thiện xảo khác nhau. Cũng giống như nhiều tượng Phật, tại sao có tượng Phật có khuôn mặt giận dữ, có tượng có khuôn mặt ôn hòa, có tượng lại có hình ảnh Bồ Tát từ bi cứu độ chúng sinh? Sự cứng cỏi của Kim Cang Bồ Tát và lòng từ bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát đều vì phương tiện thiện xảo cứu độ chúng sinh. 

Được rồi, bài giảng hôm nay của sư phụ dành cho đại chúng đến đây là kết thúc. Mong rằng mọi người sẽ học Phật thật tốt, vì chỉ có Đức Phật mới có thể dẫn dắt chúng ta có Chánh tín Chánh niệm, thoát ra khỏi bể trầm luân của cuộc đời, và vươn đến Bát nhã vĩ đại, trí tuệ và viên mãn. Cảm ơn đại chúng.

Tập 22
SỰ NGUYÊN THUỶ CỦA TÁNH KHÔNG, SỞ HỮU CẢ BỔN TÁNH

(25/03/2020)

Cuộc đời của chúng ta thật chất là một cơ chế tuần hoàn, là một chương trình của lục đạo luân hồi. Con người chúng ta thực ra sinh ra đã phải có những nỗi khổ, rồi dần dần sau khi vượt qua được những nỗi khổ ấy, chúng ta mới hiểu được thế nào là ngọt ngào. Cảm nhận của con người chúng ta luôn ở trong trái tim: khi còn trẻ, chúng ta rất hạnh phúc, nhưng dần dần chúng ta bắt đầu cảm nhận được nỗi khổ khi bản thân chúng ta không thể có được những thứ mà mình đã mong cầu, đây cũng chính là việc “Cầu không được như ý nên khổ” mà giới Phật Pháp cũng hay nhắc đến. Khi chúng ta còn trẻ, chúng ta có rất nhiều lý tưởng hoài bão, chúng ta khao khát thực hiện những lý tưởng ấy, nhưng nếu như những lý tưởng, những hoài bão ấy không trở thành hiện thực, vô tình sẽ mang lại cho chúng ta không ít những nỗi niềm khổ đau. Ngay cả khi chúng ta dần dần bước vào cuộc sống của người trưởng thành, chúng ta bắt đầu có những quan điểm và quan niệm của chính mình, dần dần hiểu được bản thân mình cần điều gì và mong muốn điều gì, chúng ta đã không thể chấp nhận những quan điểm khác của cha mẹ, cũng như quan điểm của bạn học và bạn bè. Và lúc ấy, chúng ta lại bước vào một loại nỗi đau khác, đó là nỗi đau của tâm hồn. Sau khi tốt nghiệp, chúng ta dường như đã tìm thấy một khoảng không gian tự do cho riêng mình – bản thân tự nhủ “Cuối cùng thì tôi cũng tốt nghiệp rồi, bản thân cũng đã trông chờ ngày này đã lâu, cũng đã hoàn tất chương trình học tập. Bây giờ tôi đã có thể phát triển hoài bão của mình”.  Thế nhưng, sau khi có được việc làm, không ngờ rằng giữa đồng nghiệp và bạn bè lại nảy sinh ra rất nhiều vấn đề lại khiến sự đau khổ hiện diện, những đau khổ được tạo nên bởi chính quá nhiều sự khác biệt giữa con người với nhau về quan niệm và quan điểm, cộng thêm ý thức hình thái giữa con người cũng tồn tại những cách hiểu khác nhau về một sự việc nào đó, nếu không xử lý khôn khéo, chúng ta lại phải chuốc lấy khổ đau; dần dần chúng ta cảm thấy rằng người khác không hiểu mình, sự nghiệp bắt đầu không thuận lợi, và lại cảm thấy đau khổ. Sau đó đến khi tuổi tác lớn hơn một chút thì lập gia đình, nghĩ rằng gia đình nhỏ riêng có thể mang lại cho mình rất nhiều hạnh phúc. Nhưng dần dần chúng ta cũng cảm thấy rằng rồi bản thân cũng có rất nhiều những bất đồng quan điểm với người mình yêu, bản thân lại dấn sâu vào trong nổi khổ của gia đình. Cuối cùng, trong chính những mâu thuẫn gia đình, bản thân chúng ta lại bắt đầu sản sinh càng nhiều cố chấp hơn, cho rằng mình luôn đúng còn người khác thì sai; sau những mâu thuẫn gia đình đó, thì lại có nỗi đau khổ lo lắng về con cái, cha mẹ không hiểu con cái và con cái không hiểu cha mẹ, dần dần sản sinh ra càng nhiều những nỗi khổ mà nội tâm chúng ta không thể chấp nhận được, mà cũng không thể nào lý giải được. Sau khi con cái lớn lên, chúng dần dần ruồng bỏ đi nhiều thói quen, tính cách, lời nói v.v… của cha mẹ, và khoảng cách giữa các thế hệ, để rồi từ đó dần dần lại bắt đầu chịu đựng sự đau khổ của một con người. 

Đây là điều mà sư phụ cũng đã nói với mọi người, tất cả các vật chất hữu hình và vô hình trên thế gian, miễn là chúng có tình cảm, miễn là chúng ẩn chứa tất cả tình cảm của con người, về cơ bản thì đến cuối cùng chúng đều là trống rỗng. “Trống rỗng” là thứ đau khổ mà có thể khiến ta không thể hiểu nổi nó, mang đến cho chúng ta sự phi thực tế. Vì vậy, nhiều người nói rằng khi còn trẻ thơ rất hạnh phúc, nhưng tại sao càng lớn lên lại càng đau khổ, đây là một quy luật tất yếu trong cuộc đời chúng ta, đó cũng chính là luân hồi. 

Sư phụ đã nói với mọi người rằng tất cả mọi thứ trong thế giới vật chất đều sẽ: thành, trụ, hoại, không, kể cả con người, tất cả các hiện tượng sống và hiện tượng không sống trong thế giới vật chất, tất cả đều là “Không”. Ví dụ như bất kỳ ngôi nhà hay chiếc xe nào, khi đến một thời điểm nhất định, nó sẽ dần dần xuống cấp, mục nát, trở nên vô dụng, dần dần trở thành hư không, những gì bây giờ có được hay những vật chất đã từng có được cũng sẽ mất đi. Cũng giống như tình cảm của con người chúng ta, chúng ta đã từng dành nhiều tình cảm cho một người nào đó, nhưng khi vật chất dần mất đi và chúng ta dần im lặng với người ấy. Ông bà ngoại, ông bà nội đã từng cưu mang ta, đây là sự việc có thật đã từng tồn tại, nhưng cùng với sự thành, trụ, hoại, không của con người và vạn vật thì cuối cùng cũng mất đi. Trên thực tế, nó khiến chúng ta hiểu rằng tất cả Có đến cuối cùng vẫn là Không và tất cả Không thì lại bắt đầu từ Có, đây là điều mà trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh cũng đã nhắc đến “sắc tức thị không, không tức thị sắc”. 

Do đó, khi một người có trí tuệ thì họ nhìn vào mọi thứ trên nhân gian, họ sẽ không chấp trước vào một quan điểm nhất định. Họ biết rằng hôm nay có nhưng nó có thể đang ấp ủ sự mất đi vào ngày sau. Những gì hôm nay không có nhưng nó có thể đang ấp ủ sự có được vào ngày sau. Trong thế giới vô hình, cái được cho là tồn tại đó chính là linh hồn, vì nó tồn tại vĩnh viễn, cho dù thân xác không hoạt động, cho dù hơi thở không còn thì linh hồn vẫn tồn tại, nên linh hồn là vĩnh cửu. Còn đối với những sự vật trong thế giới vật chất thì đều là những sở hữu tạm thời, và chúng có thể biến mất cùng với thành, trụ, hoại, không. Trong thế giới này, tất cả các vật chất hữu hình và vô hình, thực ra thì đều đang biến mất. Nên thế giới của Phật giáo không gọi chúng là “Có”, mà gọi chúng là tạm thời, cho nên coi chúng là hư không. Chỉ có những thứ thuộc về tinh thần – linh hồn, mà thế giới của Phật giáo coi là sự chân hữu, chân không. Khi quý vị sở hữu được linh hồn của chính mình thì khi gặp phải chuyện gì đều có thể xử lý nó và lý giải được nó, khi mà quý vị có thể giải quyết các vấn đề khó khăn và trắc trở trong lòng, thì trên thực tế quý vị chính là Chân Không Diệu Hữu. 

Cần lưu ý rằng khi chúng ta tu tâm không nên dính mắc, nhất là không được dính mắc vào sự trống rỗng. Nhiều người nói, “Tôi nghĩ thông rồi, tôi đã hiểu, và tôi xuất gia rồi (độn nhập không môn)” nhưng cho dù quý vị xuất gia, cũng không biết thứ gì gọi là Không và thứ gì gọi là Chân Không. Bởi vì chúng ta phải hiểu Tánh không đích thực, đó chính là không thực tại, nó là một loại ảo ảnh, và nó không chịu được sự thử thách của thời gian, nhưng chúng ta có một linh hồn thực sự, nó có thể chịu đựng được sự thử thách của thời gian. Vì vậy, chúng ta không cần phải nghĩ về “Không” hay “Bất Không”, chúng ta chỉ cần tu tập cho tốt. Nếu một người nói: “Tôi phải tu để tôi đắc được Chân Không, tôi phải tu để tôi trở thành Không”, vậy thì người này đã tự mình dính mắc vào “Không”. Giống như một đứa trẻ nói: “Mẹ ơi, con không muốn đồ chơi nữa”, điều đó có nghĩa là nó vẫn nghĩ về những món đồ chơi. Nếu nó thật sự không muốn đồ chơi, nó sẽ không nhắc tới, thậm chí sẽ không nghĩ tới, cũng không còn loại suy nghĩ này, đó chính là thật sự không nghĩ đến nữa, thật sự là buông xuống. Chân Không chính là khái niệm này. 

Người có Phật trong lòng thì trong tâm sẽ có Phật tâm. Quý vị có thể thấy người tu học Phật thường hay giúp đỡ người khác, trên thực tế tâm họ đang làm việc của Phật. Chỉ khi quý vị thành Phật thì mới có Phật tâm. Nếu hôm nay quý vị có trái tim của một vị Phật, sẵn sàng giúp đỡ người khác và từ bi với tất cả chúng sinh, vậy thì tâm quý vị là Phật tâm. Giống như Tự Tâm Tự Phật này, Phi Tâm Phi Phật là chẳng phải Phật, mà cũng chẳng phải tâm mình. Vậy đó là cái gì? Đó là một loại trí tuệ bát nhã đã cắm sâu trong thức thứ 8 của quý vị, một loại hiểu biết, một loại khái niệm trọng yếu nhất của đạo Phật đã in sâu trong lòng quý vị và khái niệm này không còn khiến quý vị nghĩ nó là một khái niệm nữa và cũng không nghĩ đó là một ý tưởng, mà là một diệu pháp, một sự hiểu biết hão huyền mà khi quý vị gặp điều gì đó có thể tự nhiên hình dung và lý giải được, sau đó quý vị mới thực hiện nó. Đây gọi là “dĩ không phản tánh”. Khi quý vị nghĩ thông mọi thứ, thì quý vị sẽ tìm thấy bản chất thực sự của mình. Cái gì cũng buông xả hết rồi, không tranh luận với người khác, không quan tâm nữa, thì quý vị sẽ tìm thấy được Tánh Không của quý vị, tìm thấy bổn tánh của quý vị. Đó là hoàn tịnh bổn tánh của chính mình. Hoàn tịnh là gì? Trở về trong bổn tánh khởi nguyên nghĩa là trong sạch. Hãy nghĩ xem, khi chúng ta còn nhỏ tâm của chúng ta trong sạch biết nhường nào. Nếu như chúng ta làm vỡ đồ của người khác, sẽ không bỏ chạy và nhất định sẽ nói: “Bố mẹ à!, con đã làm vỡ đồ rồi, nếu dì ấy phát hiện ra thì sao?”. Nếu người mẹ nói: “Kệ nó đi, dì đó không biết đâu,” vậy thì bổn tánh của quý vị sẽ bị ô nhiễm. Chỉ khi còn trẻ thơ tuổi nhỏ, thì sự trong sạch của chúng ta mới được phát ra từ trong bổn tánh. Khi chúng ta càng lớn lên, chúng ta bị danh lợi, đúng sai của ngũ trọc ác thế quấy rối và dần trở nên nịnh bợ, trong tâm dần bị ô uế, chúng ta đánh mất ngộ tánh của minh tâm kiến tánh. Cho nên Bồ Tát để cho chúng ta tìm về bổn tánh của mình, đó gọi là “dĩ không phản tánh”, thì quý vị mới có thể minh tâm kiến tánh. 

Đừng chú ý đến Tánh Không của vật chất bên ngoài. Bất kì vật chất bên ngoài nào cũng có Tánh Không. Rất đơn giản, cũng không có gì đáng ngạc nhiên, tại sao? Có sự vật, sự việc nào đến cuối cùng mà không trống rỗng đâu? Ngay cả nhà cửa sau trăm năm cũng phải đập phá đi mà xây dựng lại, con người sau trăm năm cũng phải ra đi, tất cả đều có thời hạn. Và trong khoảng thời gian, không gian này quý vị không nên dính mắc vào Tánh Không của vật chất bên ngoài, quý vị cũng không nên dính mắc vào sự tồn tại và Tánh Không của thế giới bên trong. Quý vị không chấp trước vào việc có điều gì trong tâm hay không thì cuối cùng mọi thứ sẽ được tự nhiên. Nhiều người khi ra đi, họ buông không được cái này, buông không được cái kia, “Ồ, tôi có lỗi trong vấn đề này, tôi có lỗi trong sự việc kia”, thực ra là họ chấp trước, họ buông bỏ thế giới bên ngoài rồi, nhưng trong thế giới nội tâm của họ, họ không buông bỏ được giữa Không và Có. Ai trong chúng ta cũng có lúc làm điều có lỗi với người khác, thử nghĩ xem trong cuộc đời mỗi con người chúng ta đã làm bao nhiêu điều sai trái, khi sắp kết thúc và khi tổng kết lại, thì mới nghĩ đến “Tôi có lỗi với anh ấy, tôi có lỗi với cô ấy…”, kỳ thực đây chính là chấp trước, chấp trước của quý vị khiến quý vị không có được Tánh Không. Quý vị không buông xuống được trong lòng quý vị cảm thấy mình mắc nợ người khác, trong lòng có những thứ dơ bẩn thì quý vị sẽ mất đi Tánh Không trong Bổn Tánh. 

Sư phụ hy vọng rằng mọi người có thể lý giải được rằng mỗi người trong chúng ta nên phải từ một loại trạng thái tự nhiên mà đi tìm Tánh Không. Như thế nào là trong trạng thái tự nhiên? Nghĩa là người này là người tốt, ngày nào cũng quét nhà cho hàng xóm mà không cảm thấy mình đang làm việc thiện, ngày nào cũng chỉ biết quét nhà, cả một năm vẫn như thế giúp hàng xóm quét nhà. Bất kể người khác nói với họ như thế nào thì họ vẫn thực hiện việc giúp hàng xóm quét nhà này cho đến khi nó trở thành thói quen, không cho rằng việc giúp hàng xóm quét nhà là tốt hay xấu, và không để tâm, không nghĩ rằng: “Tôi đang làm một việc tốt”. “Tôi đang giúp họ”, đều được toát ra một cách tự nhiên. Nghĩ xem thời gian lâu dần, vài năm, mười năm, hay hai mươi năm nữa, người đó có phải là người tốt không? Có phải là một tấm gương mẫu mực, và là một người con tốt không? Vì vậy, phải tìm về cái Không trong tự tánh, tìm về một phẩm chất cao quý. Hàng ngày quý vị làm những việc này với phẩm chất cao quý, trong nội tâm của quý vị không chấp trước “Tôi làm những điều tốt này để cho bản chất và phẩm chất của mình trở nên cao thượng”, bởi vì quý vị cảm thấy tự tánh của mình vốn là trống rỗng, đây là những việc nên làm chứ không phải vì muốn có được lợi ích và danh tiếng nào đó mới đi làm những việc này, nếu biết nghĩ như vậy thì quý vị chính là Bổn Tánh Không Tánh (có được Tánh Không trong bổn tánh). 

Khi quý vị có thể hiểu những điều này, thì quý vị có thể ngộ ra chân lý về Tánh Không trong vũ trụ. Chân lý Tánh Không trong vũ trụ là gì? Vạn vật trở về Không, vạn vật do tâm tạo, khổ – không – vô thường. Vạn vật trên đời này đều là khổ – không – vô thường. Lúc này, khi quý vị làm bất cứ điều gì, quý vị sẽ không chấp trước vào “Tôi phải làm điều này”, hoặc “Tôi cố ý làm điều đó”, hoặc “Tôi làm điều đó rồi, tôi không muốn nhận nó, nhưng trong lòng tôi vẫn biết rõ làm việc này có thể mang lại chút lợi ích và danh tiếng”. Bồ Tát muốn chúng ta tu tập cho đến khi không cần những cái “biết” này nữa, đó gọi là tự nhiên, Tánh Không tự nhiên. Vậy thì chân lý Tánh Không đã được quý vị tu luyện rồi, tiếp đó thì quý vị sẽ hiểu được tâm thanh tịnh và từ đó sẽ bất vãng ngoại cầu (không truy cầu những thứ vật chất bên ngoài).

Tập 23
TỨ CHÁNH CẦN LÀ TRÍ TUỆ CỦA TÁNH KHÔNG

(25/03/2020)

Khi trong tâm một người biết những thứ thiện vĩnh viễn là thiện, những thứ dơ bẩn vĩnh viễn là dơ bẩn, thì sẽ không truy cầu ra bên ngoài. Tất cả vật chất đều dơ bẩn, chỉ có bản chất, đó mới chính là Tánh Không và thuần khiết nhất. Người học hạnh Bồ Tát không những phải tinh tấn tu hành mà còn phải học cách cứu độ chúng sinh, người học Phật chân chính phải cứu độ chúng sinh. Độ chúng sinh thực ra không phải là quý vị đi độ người khác, mà là sử dụng chính lòng đạo đức và bản tính từ bi của bản thân để thể hiện những việc này. Người có chánh niệm sẽ vô cùng hoan hỷ đi làm việc này, và sẽ rất siêng năng tích đức hành thiện. 

Chánh cần có nghĩa là đúng đắn và siêng năng, trong Phật giáo có “Tứ Chánh Cần”. Điều chúng ta làm hôm nay trước tiên là phải tăng trưởng trí huệ, với mục đích học hỏi trí tuệ của chư Phật Bồ Tát, rồi từ từ biến những việc thiện chúng ta nên làm thành tánh Không tự nhiên, và làm chúng không ngừng nghỉ. Nếu một người không đủ trí tuệ, họ không thể phân biệt được điều gì là xấu và điều gì là tốt. Tại sao trí tuệ lại quan trọng? Chính là phải học cách phân biệt thiện và ác, danh và lợi của nhân gian, phải có khả năng phân biệt mọi thứ. Trong thức thứ bảy của quý vị – thức cuối cùng của quý vị sẽ có một bức tường lửa được hình thành để ngăn chặn những thứ ác xâm nhập, và chỉ để cho những thứ tốt đẹp tiến vào lưu trữ tại đó, quý vị sẽ từ từ biết được, ở nhân gian việc gì là nên làm, việc gì là không nên làm. 

Chúng ta sống trên đời, người học Phật mỗi ngày đều tạo thiện nghiệp, nhưng không ít người hàng ngày bị mê lầm trụy lạc, mỗi ngày đều sống trong chấp trước, cho rằng “cái này là của tôi, cái kia là của tôi”, “cái này tôi nên có, cái kia tôi không thể buông bỏ, bởi vì những thứ này đều là của tôi”, thực ra họ chỉ đang mê muội giăng lưới cho mọi thứ trong đời mình mà thôi. Về mặt tình cảm, quý vị tự tạo ra tấm lưới tình. Sự tham luyến của quý vị đối với tiền tài khiến quý vị tạo ra tấm lưới tiền tài. Nếu quý vị sống trong sự hận thù thì quý vị lại tự tạo ra tấm lưới hận thù trong tâm mình. Và những việc bản thân làm dần dần sẽ cảm thấy đúng, “Đây là điều tôi nên làm”, thực tế là vì quý vị ở trong lưới (cái mạng lưới do chính quý vị giăng ra), quý vị hoàn toàn không biết trí tuệ là gì. Trí tuệ tăng trưởng là giúp chúng ta phân biệt được thiện ác ở đời này, và chúng ta phải thực hành “Tứ Chánh Cần”, nếu không chúng ta sẽ nhận ác là thiện, vì quý vị không biết thế nào là thiện, và sẽ lầm tưởng cái ác là cái tốt. Lấy một ví dụ đơn giản, khi còn nhỏ, cha mẹ cưng chiều, tác oai tác quái trong lớp, quý vị muốn thế này thế nọ, trái bắt nạt bạn học, phải bắt nạt bạn học. Quý vị luôn cho những việc làm đó là đúng, theo thời gian, tất cả hành vi, ngôn ngữ và tư duy phát ra từ trên người quý vị, tất cả đều là sai lầm và tiếp tục theo thời gian, quý vị sẽ trở thành một người xấu xa. Vì quý vị không biết đó là ác, quý vị cho là đúng, “Ta hơn người ta, nên ức hiếp người ta”, những tà niệm này cuối cùng sẽ khiến quý vị làm nhiều điều ác và sa vào tam ác đạo. 

Thực tế là, có rất nhiều người có những hành động hoàn toàn không phù hợp với chánh tín và chánh niệm của họ, thậm chí còn không được pháp luật của quốc gia nơi họ sinh sống cho phép. Có người giết người phóng hỏa, ức hiếp người khác, lừa gạt người khác, nhưng họ vẫn cảm thấy mình đúng. Giống như nhiều người khi bị bắt vẫn nói: “Việc này thì có gì là sai? Người khác đều làm, tại sao tôi không thể làm?” Ngay cả tà dâm, tạo nghiệp dâm dục, ngoại tình còn cho rằng mình là người tốt chứ không phải người xấu. Bởi vì, họ có sự sai lệch trong suy nghĩ, cho nên quan niệm và hành động của những người tiếp xúc với họ, đã khiến họ từ từ rời xa trí tuệ và ý thức sáng suốt của chính mình.  

Sự khác biệt được tạo ra bởi vì không có trí tuệ. Cho nên người trí biết việc này tốt, mình  nên làm; Việc này không tốt mình không nên làm. Mặc khác, có một số người biết rõ việc này không tốt nhưng họ vẫn làm. Đứa trẻ cho rằng cha mẹ làm được thì con cái cũng làm được. Đó là lý do tại sao Sư phụ nói với quý vị, “Người bất chính thì sẽ không ngay thẳng.” Quý vị nhất định phải trong sạch. Trong lối sống của quý vị, trí tuệ cho phép quý vị hiểu được điều gì là đúng và điều gì là sai. Rất nhiều người không có trí tuệ, cách sống của họ cách xa người khác vạn dặm: rõ ràng là sai họ cho là đúng, họ cảm thấy mình bị thiệt thòi, “Tôi đáng lẽ không phải chịu sự thiệt thòi này”. Quý vị nghĩ xem, vị Bồ Tát nào, người tốt nào mà không bắt đầu từ sự thiệt thòi? Nếu quý vị muốn làm việc thiện, quý vị có thể làm việc thiện mà không chịu sự thiệt thòi không? Đó chính là để loại bỏ những tạp niệm nơi hồng trần, để cho quý vị có thể hiểu được cách giúp đỡ và thấu hiểu người khác. 

Sư phụ nói với mọi người, “Tứ Chánh Cần”. “Dĩ sanh ác lệnh đoạn”, phải dứt bỏ những ác niệm đã khởi trong lòng. “Tôi lợi dụng anh ta, và anh ta lợi dụng tôi.” Đây chính là ác niệm đã sản sinh ra, quý vị nhất định phải đoạn trừ nó. “Ở đâu không có điều ác thì điều ác sẽ không sản sinh”, khi trong tâm chưa sinh ác niệm thì đừng để chúng phát khởi. Rất nhiều người đã học được cách kiềm chế, họ biết rõ nếu tiếp tục nói sẽ mất bình tĩnh, họ biết rõ nếu cứ tiếp tục nói như vậy và còn nghĩ ngợi lung tung, thì nhất định sẽ bị lạc lối, “Ở đâu không có điều ác, điều ác sẽ không sản sinh”. “Tiếp theo tôi phải ghét bỏ nó”, ác niệm này không thể sinh ra, nếu không nó sẽ phá hủy tâm tính của quý vị.  

Thứ ba, “Vị sanh thiện lệnh sanh”. Sự thiện lương trong tâm quý vị chưa được sinh ra, hãy để nó được sinh ra càng sớm càng tốt. Nhiều người thực ra là muốn giúp đỡ người khác, tâm họ rất tốt, nhưng họ lại không hành động, và họ không có khái niệm “Tôi muốn giúp đỡ người khác”, thực tế là, trong tâm họ thường xuyên nghĩ đến “Tôi muốn đi giúp đỡ người khác”, đã nghĩ vậy thì mau chóng làm cho lòng tốt sản sinh ra.  

“Chánh cần” thứ tư là “đã sinh thiện tăng trưởng rồi”. Đây đã là việc tử tế rồi, quý vị phải tự động viên mình làm, “Hôm nay, tôi không quan tâm có phải là phiên trực của tôi hay không, chỉ cần có thời gian là tôi giúp vệ sinh, giúp người khác lấy đồ. Không nhất thiết phải trực, tôi cũng sẽ làm như vậy khi không phải phiên trực ban của tôi.” Quý vị phải nhớ rằng lòng tốt đã được sinh ra, quý vị phải làm cho nó phát triển, quý vị phải lấp đầy cơ thể mình bằng lòng tốt, rồi từ từ khiến quý vị ngày càng trở nên tích cực hơn. Vì vậy, người Phật tử chúng ta nên học “Tứ Chánh Cần”, mỗi ngày làm nhiều việc thiện hơn, đừng nghĩ rằng mình nên làm việc này,  việc kia không nên làm. Hiện tại chỉ cần là việc tốt, chúng ta đều phải đi làm, chỉ cần là việc xấu, chúng ta đều không được phép làm. Đây chính là những gì mà Phật giáo giảng dạy “Đừng làm những việc ác, nên làm những việc lành”.  

Người Phật tử chân chính sống trong thế gian này, học Phật là học trí tuệ. Nhiều người sống cuộc sống rất khó khăn và đau khổ, nhưng có một số người có trí tuệ, họ có cuộc sống tương đối Bát Nhã. Trên đời có một số việc, không nên nhìn quá rõ ràng, nhìn rõ sẽ đau lòng; có những việc, không nên hiểu quá nhiều, nếu hiểu quá nhiều, sẽ tổn thương tình cảm của chính mình. Cho nên Bồ Tát yêu cầu chúng ta phải buông xuống nghĩa là nên biết giảm đi sự mê muội trong cuộc sống của mình. Đôi khi quý vị nhìn cuộc sống một cách rõ ràng, nó là hư ảo, nó không có thực và nó sẽ trôi qua theo thời gian. Có thì cũng không có, không có thì lại có. Đó là một quan niệm sống không thể hiểu và không thể giải thích rõ ràng. Vì vậy, Bồ Tát bảo chúng ta hãy buông bỏ. Đôi khi có quá nhiều thứ trong cuộc sống mà quý vị nhìn không quen (nhìn không thuận mắt), khi quý vị nhìn rõ và hiểu nó, thì quý vị đã tìm ra được chìa khóa cho nỗi buồn của chính mình, quý vị mở ra cánh cửa thương tâm của mình, mỗi ngày sẽ ở trong căn nhà đó, thống khổ ưu thương và không thể giải thoát. 

Cho nên, Sư phụ bảo quý vị rằng, tất cả mọi chuyện của quý vị không nên đi tìm sự bi thương của mình để sống cho qua ngày. Phiền não tùy tâm khởi, quý vị không phiền thì lấy đâu ra tức giận? Mọi cảnh đều do tâm tạo, rất nhiều người không phải là thường xuyên không vui, hôm nay quý vị đến nơi này, thấy chỗ ngồi này, thấy người này, tất cả cảnh giới đều do tâm tạo ra, hôm nay quý vị không muốn thấy người này thì quý vị liền thấy phiền phức. Hôm nay, quý vị cảm thấy người này rất đáng thương. Tuy rằng họ đã từng đối xử tệ bạc và làm tổn thương quý vị, nhưng quý vị lại cảm thấy người đó cũng là một người rất đáng thương, vì người ấy không hiểu Phật pháp. Người ấy hàng ngày sống trong chấp trước, và quý vị sẽ cảm thấy bình an trong lòng. Vì vậy, Bồ Tát cho chúng ta hiểu rằng “Vạn cảnh đều do tâm tạo”. Sư phụ dạy mọi người rằng nếu quý vị không thể kiểm soát vận mệnh của mình, quý vị sẽ bị nó chi phối; nếu quý vị có thể kiểm soát vận mệnh của chính mình, thì vận mệnh của quý vị sẽ do quý vị quản lý; nếu hôm nay quý vị không thể kiểm soát được vận mệnh của mình, vận mệnh của quý vị sẽ chi phối quý vị, dẫn dắt quý vị, khiến quý vị đau khổ, khiến quý vị bi thương. 

Ở chỗ này, Sư phụ lấy một ví dụ, cũng giống như con ngựa vạn dặm (thiên lý mã), khi quý vị thuần phục được con ngựa vạn dặm này, thì quý vị có thể phi nước đại trên chiến trường, quý vị hoàn toàn có thể điều khiển nó, để nó đi tới đâu, nó đưa quý vị tới đó; Nếu số phận là một con ngựa hoang, quý vị không thể khuất phục được nó, nó sẽ từ từ kéo quý vị đi, có khi chân bàn đạp ngựa còn chưa được móc vào thì nó đã bỏ chạy và quý vị sẽ bị nó kéo lê trên cát. 

Cho nên, khi chúng ta làm bất cứ điều gì, trước tiên chúng ta phải sửa đổi tâm thái của mình. Tâm thái là gì? Đó chính là sự hiểu biết đối với sự vật này. Hôm nay quý vị có thể hiểu nó, quý vị liền thành công. Hôm nay không hiểu được thì phiền muộn, đau khổ, giận hờn. 

Vì vậy, nếu quý vị kiểm soát tốt tâm lý của mình, cuộc sống của quý vị sẽ thuận buồm xuôi gió; nếu hôm nay quý vị có tâm lý không tốt và cảm thấy người khác đang dây dưa, làm tổn thương mình, cuộc sống của quý vị giống như một tòa tháp, nhất định sẽ bị nghiêng ngả. 

Làm thế nào để nắm chắc vận mệnh của mình, quan trọng là tu tâm dưỡng tính tốt. Một người có thái độ tốt nhất định phải có một số phận tốt. Những gì chúng ta không nhìn thấy, không nên thăm dò nghiên cứu quá mức, không nhất định phải biết tất cả mọi thứ. Trên đời này, đôi khi biết quá nhiều, tạo ra nhiều thương tổn cho mình. Biết ít hơn một chút, sẽ tạo ra ít thương tổn cho chính mình hơn. Cái gì nhìn không thấu, có khi không cần nhìn thấu bằng không quý vị sẽ âm thầm đau khổ. Bởi vì trên thế gian này, có thể thấy rằng vạn vật, mọi cảnh tượng và trạng thái của xã hội, lòng người dễ thay đổi (thế thái viêm lương), và đây đều là những thứ có thể thay đổi.  

Khi quý vị biết rằng một số điều không thể thay đổi, nếu quý vị để nó nguội dần đi thì nó có thể thay đổi. Tại sao thánh nhân lại có tâm thái cởi mở? Tại sao Bồ Tát có thể nhìn thấu, thấy rõ, thông suốt như vậy? Bởi vì, đối với mọi thứ, các Ngài nhìn vấn đề từ một góc độ khác, cho nên các Ngài thường sẽ có khoảnh khắc “liễu ám hoa minh” này. (Trong tiếng Trung, thành ngữ “liễu ám hoa minh” là chỉ mắt nhìn thấy tình huống không còn đường tiến nữa, thì đột nhiên xuất hiện chuyển biến và hy vọng). Sư phụ đưa ra một ví dụ đơn giản: chuyện này lẽ ra là của quý vị, nhưng lần này không đến lượt quý vị, quý vị sẽ rất đau khổ và không vui; Chỉ cần quý vị suy nghĩ một chút, đổi góc nhìn khác, chuyện này có thể người khác làm sẽ tốt hơn quý vị làm, mà người khác đi làm chuyện này có thể viên mãn hơn quý vị, quý vị phải cổ vũ họ, giúp đỡ họ, thế nên quý vị vẫn là quý vị của lúc ban đầu. Đây chính là đặt mình vào vị trí của người khác. 

Trái tim con người thực sự là biểu hiện duy nhất của tâm trí. Sư phụ muốn nói với mọi người một ít duy thức luận. Ý thức của chúng ta cho rằng việc này tốt thì quý vị vui; nếu nó cho rằng việc này xấu thì quý vị không vui. Quý vị có thể, trong ý thức của chính mình, xem một số điều đau đớn là tốt không? Giống như nếu quý vị bị người khác lừa, lần sau quý vị sẽ không bị người khác lừa, đây là một điều tốt; Và rất nhiều người không thể buông bỏ “đã từng bị người khác lừa dối”. Có thể quý vị bị người khác lừa gạt chuyện này, tuổi già của quý vị sẽ không bị người khác lừa gạt nữa.  

Tâm chúng ta có ác niệm, cảnh giới mà chúng ta biểu hiện nhất định là xấu. Hôm nay quý vị thấy người khác là kẻ ác, và lòng quý vị chắc hẳn chứa đầy điều ác, bởi vì quý vị có ác niệm và ác tâm. Quý vị thấy những người xung quanh quý vị rất ác, bản thân quý vị có cảm thấy rất ác không? Nếu tâm của chúng ta rất lương thiện, cảnh giới mà chúng ta biểu hiện nhất định rất lương thiện. Thế nên, những người mà chúng ta nhìn thấy sẽ rất đáng yêu và tâm của chúng ta tràn đầy tình yêu thương. Nếu hôm nay trong lòng quý vị không có thiện cũng không có ác, thì cảnh giới hiện tại của quý vị là gì? Tức là khi quý vị tìm hiểu đạo Phật đến một mức độ nhất định nào đó, đó gọi là tâm mát mẻ, chính là tâm thanh tịnh. Ít nhất trong lòng quý vị không có ác cũng không có thiện, không nghĩ ác, cũng không nghĩ thiện, tâm thanh tịnh của quý vị đã có rồi, thì tâm sẽ trở nên trống rỗng, “Tánh Không” sẽ mở ra trí tuệ. Người an tĩnh sẽ thanh lương tự tại. Quý vị lựa chọn sự thanh lương này, không nghĩ thiện, không nghĩ ác thì quý vị đã tạo ra quả thanh tịnh cho riêng mình. 

Tập 24
TỪ MÊ CHUYỂN GIẤC, TỪ NHIỄM CHUYỂN TỊNH

(25/03/2020)

Người có quả thanh tịnh thì có thể chiến thắng phiền não của mình. Quá trình của đời người, thực ra cuộc sống có tốt đẹp hay không hoàn toàn do quý vị và sinh mệnh tốt hay xấu cũng hoàn toàn là do quý vị, đừng đổ lỗi cho người khác, đừng đổ lỗi cho cha mẹ quý vị đã nuôi dạy quý vị những thói quen hay vấn đề tốt, xấu và đừng đổ lỗi cho bạn bè của quý vị. Khi quý vị chết, trái cũng hận phải cũng hận, cuối cùng là hận đến chết. Đó là điều mà những người trẻ thường nói “Tôi hận anh ta tới chết”, khi quý vị hận người khác đến chết, tâm của quý vị sẽ chết đi, cho nên có rất nhiều người khi mà tâm của họ đối với người nào đó đã chết đi rồi thì cũng chính là do sự hận thù gây ra. Họ đã không thấy rằng cuộc đời này vốn dĩ vô thường và có thể thay đổi nên đừng đổ lỗi cho người khác. Bởi vì tâm niệm của chúng ta không tốt, cho nên tâm của chúng ta mới tham luyến; Bởi vì trong tâm chúng ta có hư ảo nên những thứ chúng ta nhìn thấy đều là ảo ảnh. Vì lòng tham của chúng ta khiến người khác dễ dàng đến để lừa gạt. Nếu quý vị không tham lam, làm sao người khác có thể lừa dối quý vị? Cái tôi giả tạo khiến quý vị luôn không buông bỏ được cái sĩ diện của mình. Hãy nghĩ xem, quý vị được sinh ra, quý vị là ai? Khi quý vị còn trẻ, ở trường học thể diện của quý vị cũng rất quan trọng, bây giờ thể diện của quý vị ở đâu? Đừng để số phận của quý vị lên men và thối rữa mỗi ngày, bởi vì mỗi ngày quý vị suy nghĩ không thông, phúc khí của quý vị sẽ giảm mạnh và phúc khí của quý vị sẽ dần biến mất. 

Rất nhiều người nói, khi còn trẻ thầy bói nói phúc khí rất cao, vì sao hiện tại không còn phúc khí này? Bởi vì mỗi ngày quý vị ở trong phiền não, thống khổ, nó không ngừng tiêu hao phước báo của quý vị. Tâm của quý vị từ không tốt đến càng không tốt, đến càng ngày càng không tốt và đến mức liên tục không tốt, luôn luôn không tốt, đây chính là sự khởi đầu của việc những ác niệm nó sống nhờ vào nhau (dựa vào nhau mà tồn tại); Nếu như tâm của quý vị từ không tốt đến tốt, đem ác niệm dần dần chuyển đổi thành thiện niệm, từ ác chuyển thiện, từ tà chuyển chánh, từ mê chuyển giác (từ mê đến ngộ), từ nhiễm chuyển tịnh (từ nhơ nhớp đến trong sạch), đây là một quan niệm hướng thiện rất tốt. Mỗi ngày trong đầu óc quý vị tràn đầy tinh tấn, giác ngộ, trong sạch, năng lượng tích cực quyết tâm vươn lên thì quý vị sẽ càng ngày càng càng tốt. Cũng giống như khi quý vị đang đi, có người nói với quý vị rằng con đường lớn này có thể dẫn đến đích mà quý vị muốn tới, nhưng quý vị nhất quyết đi theo con đường nhỏ, càng đi trên con đường nhỏ càng không tìm được đường, càng đi càng sợ, cuối cùng sẽ không tìm thấy đường và có thể sẽ rơi xuống vực sâu. Nếu có người nói với quý vị, con đường lớn này quý vị chỉ cần tiếp tục đi, nhất định sẽ đi ra được, quý vị cứ đi chậm rãi, cho dù cảm giác có xa hơn nữa, khó khăn hơn nữa, dài như vậy, thì đó vẫn chỉ là ảo tưởng. Bởi vì một con đường trí tuệ chân chánh đã được tạo ra trong tâm quý vị, trước tiên quý vị phải sử dụng con đường trí tuệ này để thay đổi chính mình, cứ như vậy kiên trì đi tiếp. Cho nên nhất môn tinh tấn, là giúp quý vị đạt được trí tuệ mãi mãi. 

Sư phụ thường xuyên nói với mọi người, chỗ nào sai, ta sửa trước, nơi này ta sai, ta liền sửa. Khi sang một vị trí khác, quý vị lại sai ở vấn đề đó thì quý vị cũng cần cải sửa lại, nếu đúng quý vị có thể tiếp tục. Quý vị đã từ tà chuyển thành chánh, từ ác niệm chuyển thành thiện niệm, dần dần có chánh niệm thì trong tâm thức của quý vị, thức thứ sáu, thức thứ bảy và thức thứ tám đều sẽ trồng lên hạt giống thiện lương. Mỗi ngày đều ở trong hạt giống của sự thiện lương và tận hưởng niềm vui của một vụ mùa bội thu là điều mà trong Phật giáo thường nhắc tới, đó chính là “Phản Phác Quy Chân”. Con người rất cần “Phản Phác Quy Chân”. Ngu si điên đảo là bản chất của con người chúng ta nhưng có Phật tánh để cải sửa sự ngu si điên đảo đó. 

Bởi vì nghiệp và phước khác nhau nên có chúng sinh có thể được cứu độ ở kiếp này, có chúng sinh kiếp sau mới có thể được cứu độ, có chúng sinh chỉ có thể được cứu trong nhiều kiếp luân hồi, đây chính là sự khác biệt giữa phước báo và nhân duyên. Phước có kiếp trước cũng có kiếp này, nhân duyên có kiếp trước cũng có kiếp này, tùy quý vị sử dụng nó như thế nào. Hiện nay rất nhiều người không hiểu Phật pháp, thậm chí còn phỉ báng Phật pháp. Người học Phật chúng ta có lúc tự mình hiểu rõ lý lẽ của chính mình, phải không ngại phiền phức đi giúp đỡ họ và cố gắng đừng bỏ rơi họ. 

Có đôi khi chúng ta đối mặt với họ, có một ít cơ duyên giao lưu trò chuyện, nhưng  những cơ duyên này thực sự chỉ lướt qua. Nếu họ không trân trọng nó, thì họ sẽ đánh mất nó. Và nếu quý vị không làm điều đó, thì quý vị đã mất đi cơ hội phát tâm, phát nguyện cứu độ người khác. Cho nên hãy luôn nghĩ trong tâm: Mong sao họ cũng được gặp Phật trong tương lai. Trong lòng có phát tâm như vậy quý vị sẽ làm tăng trưởng công đức và phước lành của mình. Phải thường xuyên nghĩ như vậy, phải phát thiện tâm khắp nơi, phải kết thiện duyên khắp nơi, như vậy tương lai ác duyên của quý vị sẽ ít, thiện duyên sẽ nhiều, phạm vi lợi ích chúng sinh sẽ ngày càng rộng lớn. 

Đối xử tốt với chúng sinh, chúng sinh nhất định cũng sẽ đối xử tốt với quý vị. Quý vị cảm thấy họ không tốt, cả ngày làm tổn thương họ, chúng sinh cũng không nhất định cần phải biết, đây hoàn toàn là cảm ứng của tâm. Có đôi khi một câu nói, một biểu hiện, quý vị có thể khiến người khác cảm nhận được cái ác và cái thiện trong người quý vị. Quý vị có “cảm giác” tốt thì sẽ có “ứng” tốt, quý vị có “cảm giác” không tốt thì sẽ có “ứng” không tốt, cho nên “cảm ứng cảm ứng” là do cảm giác mà ứng. 

Bản thân phải có phát tâm vững chắc, học Phật làm người không nên bị ảnh hưởng bởi người khác. Người tu theo Phật giáo Đại thừa phải biết từ bi thương xót tất cả chúng sinh, đây cũng là điều mà một người học Phật cần phải làm được. Ngày nay muốn học Phật, nhất định phải chánh tín chánh niệm, điều này rất quan trọng. Khi tâm ta chỉ dừng lại ở một niệm, là một niệm rất trong sạch, “Ta sẽ học Phật, ta không màng gì cả”, tâm tánh của quý vị đơn thuần, đơn giản, thanh tịnh thì cuộc sống của quý vị sẽ không trở nên phức tạp; nhưng khi tâm tánh của quý vị mỗi ngày đầy những tạp niệm thì cuộc sống và số phận của quý vị sẽ bắt đầu trở nên phức tạp hơn. Và khi tâm tánh quý vị ngày ngày tạp niệm phân phi thì cuộc sống và vận mệnh của quý vị bắt đầu biến thành phức tạp.

Thường xuyên dùng chánh niệm, thiện niệm để nghĩ đến người khác, trong tâm quý vị không có so đo, quý vị đã có từ bi rồi. Nếu quý vị nghĩ người khác tốt, quý vị sẽ không dính mắc; nếu quý vị nghĩ người khác xấu, quý vị sẽ dính mắc với điều ác. Khi quý vị đã tu đến một trình độ nào đó, quý vị nghĩ đến người khác ở chỗ tốt, tạo thành trạng thái tự nhiên, thì quý vị không dính mắc vào chỗ tốt.  

Cho nên đây chính là không nghĩ thiện, không nghĩ ác. Nhìn thấy người khác, bất kể là ai, đều coi họ là một người tốt, một người thiện lương, chính là không dính mắc (chấp trước) vào thiện. Người không có thiện cũng không có ác, cho dù hôm nay quý vị không có thiện, quý vị cũng không thể làm ác. Rất nhiều người cả đời mất đi rất nhiều thiện tâm, nhưng họ bảo vệ tốt chính mình và không làm tổn thương người khác, đó cũng là một loại không nghĩ thiện cũng không nghĩ ác. Nhưng rất nhiều người bởi vì không có thiện tâm, thiếu từ bi, chỉ cần trong lòng nảy ra ác niệm, họ không kiềm chế được, không biết đây là ác mà vội làm, họ sẽ tiếp nhận tất cả đạo lý sai trái, họ sẽ nhận định những đạo lý tà ác này là chính nghĩa. Vì vậy, trong lòng họ không có thiện lương, không có chánh niệm, cho nên họ sẽ không bao giờ có thể chấp nhận những đạo lý khác biệt của người khác. Từ tâm lý học mà nói, từ triết lý Phật học mà nói, chính là chướng ngại của ý thức – ý thức có chướng ngại. Vì vậy, quý vị thấy đấy, một số người luôn nghĩ về người khác theo hướng xấu, và ý thức của họ nảy sinh trở ngại. Còn có người luôn nghĩ về người khác theo hướng tốt, ý thức của họ sẽ không có chướng ngại. 

Tâm tánh của chúng ta đôi khi rất vi tế, bởi vì chúng ta có thể nhìn thấy khuyết điểm của người khác, nghĩ người khác rất phức tạp, mà không quan sát chính mình. Giống như quý vị bảo một số người nói về khuyết điểm của người khác, nói khuyết điểm của người khác, anh ta có thể nói rất nhiều. Quý vị yêu cầu anh ta nói về vấn đề của mình, và anh ta nói, “Tôi ổn, tôi không có vấn đề gì”. Quý vị nói loại người này có vấn đề gì hay không? Anh ta thậm chí không thể phát hiện ra lỗi của mình, vì vậy khi nhân duyên của anh ta đến, nhân duyên vừa đến, khởi tâm động niệm của anh ta liền học được thói quen bảo vệ mình là trên hết. Đây chính là lý do vì sao luôn tìm lý do để phủ định người khác, gặp phải chuyện gì thì theo thói quen bảo vệ chính mình trước, bởi vì anh ta không nhìn thấy đúng sai của mình mà chỉ bị vướng mắc bởi thói quen bảo vệ chính mình, rồi nhân quả vừa đến, nhân duyên vừa đến, trước hết trong đầu anh ta tự xét, “Trong chuyện này mình có được lợi hay không, có thể sai lầm, tổn thất gì hay không”, bởi vì anh ta chưa thấy được tà niệm, tham lam, ma tính, ích kỷ của mình. Nếu một người thường xuyên có thể nhìn thấy vấn đề không tốt của bản thân thì người này chính là đang “giác”(giác ngộ).  

Sư phụ từng kể với quý vị, có một tiểu hòa thượng thường xuyên làm những việc sai trái, cậu ta nói: “Con không biết cái nào là đúng, cái nào là sai”. Kết quả là Sư phụ của cậu ta nói với cậu ta: “Nếu con sinh ra một ý niệm là ý niệm không tốt, con hãy bỏ một hạt đậu đen vào trong cái bát này; nếu con sinh ra một ý niệm tốt, con hãy bỏ một hạt đậu tương vào trong cái bát đó. Sau một tuần lễ, con có thể nhìn xem đậu tương của con nhiều hay đậu đen của con nhiều”. Tuần đầu tiên, một bát đậu đen, chỉ một ít đậu tương, cậu ta mới biết được trong ý thức và ý niệm của một người có bao nhiêu thứ dơ bẩn; dần dần, cậu ta sửa đổi nhiều đậu tương và ít đậu đen hơn. 

Con người chúng ta đang trong sự không ngừng chuyển đổi của lý niệm mà tu tâm, chính là trong sự nhận biết chính mình mà tu tâm, chính là quan sát chính mình ─ quan sát nghiệp chướng và quan sát những cảm giác không tốt của chính mình, xem xem mình có đủ và đã giác ngộ hay không. Cho nên “Quán Tự Tại Bồ Tát” chính là có thể thường xuyên “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, cái “Chiếu” này chính là thấy tất cả mọi vấn đề không tốt trên thân mình. Cho nên người nào biết tự soi xét mình, biết hiểu biết, biết ăn năn sám hối, biết quán chiếu, người ấy mới là người giác ngộ chân chính. Chúng ta phải thường xuyên học hỏi từ những người khác, và thật sự học tập trí tuệ trong tâm họ. Ai cũng đang khiêm nhường đi trên con đường chưa từng đi qua, nhiều lần vấp ngã sẽ khiến ta hiểu rằng tiến lên mới là điều đáng quý, nếu không buông bỏ được tất cả những gì đang có là ta đang dần hại trí tuệ của mình. Sư phụ nói với quý vị, bất kể làm việc gì, chúng ta phải luôn học cách thấu hiểu người khác. 

Đôi khi những cảm xúc tiêu cực của một người thu hút sự chú ý của chúng ta nhiều hơn những cảm xúc tích cực, bởi vì những cảm xúc tiêu cực có thể dễ dàng lây lan trong đám đông, trong tất cả chúng sinh, giống như dịch bệnh. Nếu một người nói một số điều không vui thì nhiều người sẽ không hài lòng với họ. 

Giống như khi một người đang tranh luận, một bên rất kích động, sẽ điều động cảm xúc của bên kia. Vì quý vị hào hứng nên đối phương cũng sẽ hào hứng, khiến cuộc cãi vã ngày càng trở nên gay gắt và mất kiểm soát. Cho nên người học Phật nên hiểu, chúng ta không nên phóng đại những cảm xúc tiêu cực. Một số người thích bày tỏ sắc mặt với người khác, động một tí là không vui, nhìn người khác với ánh nhìn không tốt, cố ý bày tỏ “Tôi không hài lòng về anh”, và hy vọng rằng người khác sẽ nhận ra “Hãy nhìn xem, tôi đã cho anh thấy cảm xúc của tôi, tôi không hài lòng về anh”, và hy vọng rằng bên kia có thể thỏa hiệp. Thực ra, trong cuộc sống của chúng ta chiến lược này không hề hiệu quả, bởi vì sự rầu rĩ không vui của bản thân quý vị sẽ lây lan cho những người xung quanh, bởi vì quý vị cố ý thể hiện sự bất mãn của quý vị với người khác, quý vị sẽ vô tình để người khác chấp nhận sự lây nhiễm cảm xúc của quý vị. Quý vị không vui, anh ta cũng không vui, quý vị có ý kiến với anh ta, anh ta cũng sẽ cố ý thể hiện sắc mặt với quý vị, khiến quý vị cũng trở nên không vui, chính anh ta cũng trở nên không vui, rồi ăn miếng trả miếng, rất khó để đưa ra những nhượng bộ hợp lý. 

Nhiều người nói rằng đạo Phật là dành cho người già. Sư phụ nói với quý vị, 2500 năm trước, Đức Phật đã truyền thụ trí tuệ giải quyết các vấn đề tâm lý của nhân loại đến nhân gian rồi, mà chúng ta không cố gắng học, chúng ta không hiểu được cảm xúc bị lây nhiễm. Quý vị thể hiện sắc mặt với người khác, họ sẽ nhận được năng lượng tiêu cực và họ nhất định cũng sẽ thể hiện sắc mặt với quý vị; nếu quý vị cho người khác thấy khuôn mặt tươi cười, họ sẽ nhận được năng lượng tích cực và họ nhất định cũng sẽ mỉm cười với quý vị. Quý vị nên hiểu rằng Phật Pháp chính là một phương pháp trí tuệ, chỉ có hiểu đạo Phật thì quý vị mới có thể từ từ thay đổi cuộc sống, thay đổi cuộc đời của chính mình. Hãy học cách buông bỏ và hiểu được ý nghĩa thực sự – ý nghĩa thực sự nơi thế gian là khổ – không – vô thường, thế gian này là đau khổ cả một đời, và cuối cùng khi quý vị chết đi, không còn gì cả. Cả cuộc đời là một quá trình của vô thường, và không có gì có thể kéo dài mãi mãi. Cho nên, vì vô thường nên chúng ta phải học cách buông bỏ, vì không bao giờ có được nên phải đi tìm cái mình có được mãi mãi – đó chính là sự phong phú trong tinh thần của chúng ta, là sự hiểu biết trong tinh thần của chúng ta và đó là trong tinh thần của chúng ta có được chân lý của Bồ Tát. Có thể hiểu được những điều này, chúng ta mới có thể dũng cảm tiến tới, có thể khắc phục đủ loại phiền não của nhân gian và đạt được sự giác ngộ vô thượng của Đức Phật. 

“Bạch Thoại Phật pháp” hôm nay giảng cho đại chúng đến đây, lần sau chúng ta gặp lại. 

Tập 25
TIÊU SẠCH NGHIỆP CHƯỚNG, ÔN DƯỠNG TRÍ TUỆ

(28/03/2020)

Được rồi, hôm nay Đài trưởng sẽ tiếp tục giảng về “Bạch Thoại Phật Pháp”. 

Chúng ta tu học Phật là vì muốn thay đổi số phận, thực ra muốn thay đổi số phận chính là thách đấu với những khuyết điểm và lỗi lầm của mình, là tự thề với lòng rằng: “Tôi muốn sửa đổi khuyết điểm, buông bỏ ưu phiền trong đời này”. Số phận thường tăng thêm rất nhiều bất hạnh cho chúng ta, và chúng ta có thể tránh nó bằng trí tuệ của Bồ Tát. Nhiều người cả đời lận đận, chuốc thêm rất nhiều bất hạnh cho chính mình, rồi cuối cùng tự nhìn thấy mình đọa lạc, và tự nhìn thấy chính mình không còn cách nào cứu vãn được nữa, cuối cùng rơi xuống vực sâu. Đây là điều mà con người không thể vượt qua tâm thái xấu của mình. Nhiều người thường cho rằng “Tôi sống trên đời này tính khí của tôi như vậy, tính cách của tôi như thế đó”, nhưng thực ra tính khí và tính cách có được đều do hậu thiên nuôi dưỡng (được hình thành về sau, không phải bẩm sinh đã có). Nếu không có tính nóng nảy này, nếu không có suy nghĩ cố chấp này, thì sẽ không tức giận. Vì vậy, ai tức giận thì đều là giận trước, từ từ mới bộc phát ra ngoài. Khí giận là được sinh ra, nếu không tức, thì sẽ không có giận. 

Sư phụ nói với mọi người rằng tâm của chúng ta phải ngay thẳng. Sư phụ thường nói với mọi người tại Pháp hội: Tâm chính thì Phật làm chủ, tâm tà thì ma làm chủ. Người ngộ thì nhận thức được bổn tánh của họ, nếu hôm nay quý vị là một người khai ngộ, thì quý vị sẽ nhận ra rằng bản chất của mình cần phải lương thiện từ bi. Người mê vĩnh viễn luân hồi, quý vị thấy đấy, những người không khai ngộ sẽ luôn phạm sai lầm lặp đi lặp lại trong những sai lầm mà họ đã tạo ra trong quá khứ, và họ sẽ không bao giờ thoát ra được. “Ôi chao, tôi làm sao vậy, tôi lại hợp tác với người này nữa rồi, tôi bị lừa như vậy chưa đủ sao?”, tại quý vị tham! Chỉ có minh tâm mới kiến tánh, và người kiến tánh thì mới có thể thấy được Bồ-đề. 

Chúng ta phải hiểu rằng Bồ Tát đến thế gian để giúp cho chúng ta học cách giải thoát, để chúng ta hiểu lẽ vô thường của sinh tử, để chúng ta biết vạn vật trên đời này là khổ – không – vô thường, không có gì trường tồn mãi mãi. Đức Phật đã từng nói với chúng ta rằng cuộc đời vốn là bể khổ. Đâu là gốc của khổ? Đức Phật dạy gốc của khổ là do lòng tham muốn. Nếu một người không có tham muốn, thì lấy đâu ra đau khổ? Nếu có quá nhiều tham muốn, thì nhất định sẽ có tật xấu tham lam. Muốn cái này, muốn cái kia, càng tham về sau thì sẽ ngày càng đi xuống. 

Cao Tăng Đại Đức đã từng nói rằng tật tham lam giống như uống nước muối, càng uống càng mặn và càng mặn lại càng muốn uống thêm nước. Vì vậy khi lòng tham dục dần dần vượt qua lý trí của con người thì đó là lòng tham lam quá độ. Vì tham chuyện này, có thể quên cả bản thân, nó sẽ vượt qua lý trí của con người, ngự trị trên tất cả tri thức của cuộc sống, nói cách khác, vì tham chuyện này mà thứ gì họ cũng có thể bất cần, thì người này chính là khởi đầu của sự mê muội, nó sẽ trở thành nguồn gốc ngăn chặn hạnh phúc của họ, một người tham lam đến cùng thì sẽ không có hạnh phúc nữa. Bất kỳ người có trí tuệ nào thì họ sẽ không tham lam quá độ. Biết rõ đó là những thứ hư ảo vô thường, nhưng quý vị vẫn đuổi theo chúng, vẫn không buông bỏ được chúng. 

Một người thực sự có trí tuệ không quan tâm đến những tổn thất bề ngoài. Trong nhân gian xưa có câu “Chịu thiệt nhất định chiếm ưu thế”, đôi khi chịu thiệt không có nghĩa là thực sự bản thân bị chịu thiệt thòi. Thực sự có thể hiểu được điều này và có thể buông xả vấn đề này đó mới là một thành công đáng kể. Người thực sự thành công là người biết vượt qua chính mình, chứ không phải những lợi ích hời hợt hay những bất lợi về lời nói. Ví dụ đơn giản, người này mắng người kia, không ai lên tiếng, người bị mắng cũng không lên tiếng, cuối cùng mọi người ở bên cạnh thấy người bị mắng không lên tiếng, họ sẽ hiểu, thông cảm và tha thứ cho người bị mắng đó, ngược lại người mà đi mắng mỏ người khác, mọi người đều coi thường họ, điều đó có nghĩa là người trách mắng người khác đã phải chịu một sự thiệt thòi về “lý”. Đó là lý do tại sao sư phụ khuyên mọi người học cách buông xả, bởi vì những người có thể chịu thiệt thường được bình an trong cuộc sống. Một người chịu thiệt về lời nói họ có sự bình yên trong tâm hồn. Người có thể chịu thiệt thòi được mọi người trong cơ quan, ngoài xã hội hay trong gia đình ai nấy đều rất quý mến họ, người này thực sự cả đời bình an vô sự thì nhất định có được hạnh phúc. Nhiều người tính toán chi li, bề ngoài họ đạt được như vậy, nhưng thực chất lại bị thiệt thòi nhiều hơn, không ai thích họ cả. Vì vậy, có thể chịu thiệt là một loại cảnh giới của con người. Sống mà biết chịu thiệt thòi là một loại trí tuệ, làm việc gì cũng phải học cách chịu đựng “Tôi xin lỗi”, “Tôi sẽ cố gắng hơn nữa” và “Không sao cả”, đó là một loại trí tuệ. Nhiều người trong chúng ta cả đời không muốn chịu tổn thất, cuối cùng bị gánh chịu tổn thất nặng nề. Cho nên sư phụ mới nói, chịu thiệt không hẳn là thiệt, tích phước mới có phước, tâm tĩnh mới định được, tâm định mới có tuệ. Hãy nhớ rằng, chịu thiệt chưa chắc là mất mát, người biết tích phước nhất định sẽ có được phúc khí, chỉ có những người tâm tịnh mới có thể định lại được, chỉ những người tâm định và chịu thiệt thòi thì mới có được trí tuệ. 

Có thể nhẫn nhịn là mọi người đã tạo ra sự thanh lương của trí tuệ. Mọi người có biết thanh lương là gì không? Thanh lương có nghĩa là quý vị ngồi ở nhà một mình đọc đọc sách. Hôm nay không có chuyện gì. Trong tâm rất yên tĩnh và vui vẻ. Không có ai xung quanh làm phiền mình. Không có điện thoại và bản thân rất yên tĩnh. Đó là một loại thanh lương của tâm hồn. Nhiều nhà thơ cổ đại đã nói rằng thanh lương là “Ôn lương cung kiệm nhượng”, là một loại ôn dưỡng, loại tu dưỡng này là ôn dưỡng, nó là một loại thư thái, trong lòng vô cùng hạnh phúc. Hôm nay không có ưu phiền, hôm nay sống thật hạnh phúc và mãn nguyện, ăn xong nằm dài trên sô pha, không ai nói chuyện với mình. Tâm định lại, đó chính là một loại tu dưỡng. 

Để điều hòa ngọn lửa trong tâm, phải học cách điều hòa bất cứ điều gì khi có ở trong tâm. Chúng ta là người tu tâm không được cực đoan, không được quá phiền muộn. Có người cả đời cực đoan, việc gì cũng “Ta nhất định phải đạt được” việc gì cũng “Ta nhất định phải làm”, Đây gọi là cực đoan. “Nếu không thể đạt được, tôi sẽ như thế này, như thế kia.” Điều này giống như khi Gia Cát Lượng chặt đầu Mã Tắc trong nước mắt, Mã Tắc đi trấn giữ Nhai Đình, nhưng cuối cùng bị thất thủ, và trước khi đi đã lập tờ quân lệnh với Gia Cát Lượng. Vì vậy, nếu không cố chấp, thì có thể sẽ không gặp rắc rối thất bại này. Một người không thể để trong lòng có ngọn lửa giận, bởi vì quý vị cảm thấy hôm nay bản thân mình rất tức giận, có ngọn lửa giận trong lòng thì tiếp theo ngọn lửa giận này của quý vị nhất định sẽ từ từ bộc phát. Trên thực tế, khi khí giận này bộc phát ra, đó chính là khí làm tổn thương bản thân mình.

Người tu Phật chân chính khéo vận dụng Phật Pháp. Vì trong pháp có trí tuệ, nếu khéo vận dụng pháp thì sẽ vận dụng được trí tuệ, sẽ từ từ điều hòa được ngọn lửa giận vừa khởi lên trong tâm mình. Khi nó đã được điều hòa, thì sẽ không tức giận nữa, điều hòa ôn dưỡng khí, thì tính khí rất ôn hòa, có thể tu thân dưỡng tính. “Người nóng lòng, ta không nóng nảy, người tức giận, ta không tức giận, tức giận sinh bệnh không ai thế.” Có loại hỏa khí ôn dưỡng này, trong lòng sẽ không nóng nảy, không sốt ruột và tâm niệm sẽ từ từ giải quyết được mọi rắc rối. Khi một người vững vàng, thì họ có thể đối phó với mọi phiền não, và chỉ khi đó họ mới có thể phát ra niềm vui mừng khi nghe hay nếm được vị pháp (pháp hỷ). Vậy tại sao nói rằng pháp hỷ tràn đầy? Khi một người hạnh phúc, là luôn luôn có niềm vui, không chỉ đơn thuần vui vì một điều gì. Vui mừng nghĩa là lúc nào cũng vui, nên niềm vui pháp hỷ chắc chắn sẽ tràn đầy. Người ta nói chịu khổ, quý vị sẽ chịu khổ suốt, vì quý vị không thoát ra khỏi được. Thanh tịnh tức là tĩnh tâm, người có tâm thanh tịnh thì tâm nhất định yên tĩnh lại được. Phiền não tức là Bồ-đề, đây chính là “Phiền não tức Bồ-đề”. 

Giải thoát phi nan, nan tại định Huệ (giải thoát không khó, khó tại định tuệ). Một người biết định thì mới có được trí tuệ, người có trí tuệ thì chắc chắn sẽ định trụ được. Nghiệp chướng của chúng ta bắt đầu từ ký ức, chúng ta không thể quên những tổn thương mà bản thân đã gánh chịu trong quá khứ và những khối nghiệp chướng đã được hình thành. Nếu quý vị không thể quên những gì người khác đã làm tổn thương quý vị trong quá khứ, thì nỗi đau sẽ hình thành trong tâm quý vị; nếu quý vị không thể quên đã từng làm tổn thương người khác, hoặc người khác đã từng làm tổn thương quý vị, thì khối nghiệp chướng trong tâm quý vị sẽ dần được hình thành. Kí ức là thứ rất vi diệu, muốn gột sạch nghiệp chướng thì trước hết phải loại bỏ những tư tưởng xấu trong kí ức. Nếu muốn sám hối nghiệp chướng của mình, trước tiên phải niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn, phải sám hối nghiệp chướng mà mình đã từng có. Nếu không đọc kinh và không niệm Lễ Phật Đại Sám Hối Văn, thì không ai có thể giúp quý vị tiêu trừ nó. Hơn nữa loại kí ức này rất lợi hại, nó thường nhớ lại những điều đau buồn, khó chịu mà quý vị đã trải qua trong quá khứ, và quý vị sẽ không nhớ những điều vui mừng, hạnh phúc, tốt đẹp hay vui vẻ trong tâm trí của mình. Cái mà thức thứ tám của quý vị luôn nhớ là những điều đau khổ, và không thể nhớ những điều tốt đẹp. Đôi khi điều tốt không thể nhớ, còn điều xấu thì lưu lại trong tâm, hơn nữa đã ẩn chứa trong thức thứ tám thì không thể gột rửa được. Vì vậy, nếu một người cực kỳ đau khổ, thì nó nhất định ở trong thức thứ tám của họ; nếu một người cực kỳ phiền não, thì nó nhất định ở trong thức thứ tám của họ. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, ngay khi chạm vào thì sẽ đi vào thức thứ tám của quý vị. Tại sao người học Phật và các bậc Cao Tăng Đại Đức thường nói phải kiểm soát mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý? Khi quý vị ngửi thấy “Ôi! thơm quá”, ấn tượng rất sâu, có thể nó xâm nhập vào thức thứ tám của quý vị. Nhiều người khi nhỏ đã từng ăn một bát chè vừng hoặc một chén nước chấm rất ngon và có thể nhớ cả đời. Họ nói với nhau: “khi tôi còn nhỏ tôi đã ăn qua món chè vừng rất ngon”, và họ có thể nhớ nó suốt đời. Nỗi khổ đau và phiền não của con người có thể sẽ khiến bản thân mình ghi nhớ cả đời, khi vừa chạm vào nó sẽ tiến vào trường ký ức, có lau cũng không thể xóa hết được. 

Tập 26
KIỂM SOÁT SỰ LÂY LAN CỦA CẢM XÚC

(28/03/2020)

Nỗi đau của nhiều người bắt đầu từ ký ức. Vì vậy, Bồ Tát dạy chúng ta phải học bớt nghe, bớt thấy, bớt nghĩ, để thân không bị nhiễm bởi những thứ ô uế đó. Con người chúng ta đôi khi nghe thấy điều gì không hay, sẽ ghi nhớ trong lòng, và khi chúng ta ngửi thấy một nơi không tốt, chúng ta sẽ không muốn đi nữa, “Nơi này hôi thối lắm…” Mắt quý vị xem những thứ dơ bẩn, những thứ khiêu dâm, thì nó sẽ trực tiếp xâm nhập vào trường ý thức của quý vị, có che giấu cũng che dấu không được, có đào cũng đào không ra, một khi quý vị bái lạy Bồ Tát, thì những thứ này sẽ xuất hiện trong thức thứ tám của quý vị, bởi vì khi một người muốn tiến bộ, những thứ dơ bẩn sẽ đến quấy rầy quý vị, điều này chính là ma tính. Ma tính này là do đâu mà có? Chính bản thân quý vị nuôi dưỡng nó, chính quý vị tự đưa nó vào, quý vị nhìn thấy những thứ không tốt đó. Ví dụ như quý vị đã từng giẫm phải phân chó, chỉ cần nghĩ đến thôi là quý vị đã phát gớm rồi, là như vậy thôi. Cho nên tâm đừng quá dính mắc vào quá khứ, đừng suốt ngày nghĩ về quá khứ. Đó là lý do tại sao Bồ Tát bảo chúng ta hãy buông bỏ và quên đi quá khứ. 

Nhàn nhạt hiển hương, một người cả đời bình thản, mới có thể tỏa ra hương thơm của mình. Nhiều người phương Tây thích xức nước hoa, nếu xức quá nồng, người khác sẽ cảm thấy chóng mặt sau khi ngửi, mùi hương nhẹ nhàng và thanh lịch sẽ khiến người khác nhớ đến nó. Cảm giác mờ nhạt thanh đạm luôn được người khác nhớ đến, cảm giác rầm rộ mạnh mẽ, nhất thời, cảm giác sinh tử ly biệt, đến rồi đi nhanh chóng. Cho nên Sư phụ muốn quý vị làm cái gì cũng vừa phải, giống như nấu ăn, không mặn quá. 

Con người sống trên đời, không nghe thì không phiền, càng nghe thì càng phiền phức. Thân tâm đại định, “nhập định” thực chất là thân tâm nhập định. Quý vị hãy nghĩ xem, thân tâm có phải đã nhập định không, thân định lại, ngồi yên đó bất động, nhưng tâm của quý vị vẫn chưa định lại được. Vì vậy, khi thân định thì tâm cũng phải định theo, bấy giờ người này mới được gọi là thân tâm đại định, và loại người này kế tiếp sẽ sinh ra trí tuệ. “Đừng động, đừng động, đừng vội, đừng vội, để tôi nghĩ xem nên làm gì”, trí tuệ của họ sẽ được sinh ra. Khi trí tuệ sinh thì giải thoát cũng dễ – sẽ giải thoát rất dễ dàng. 

Không đáng nhìn không nên nhìn, không đáng nghe không nên nghe, không đáng tiếp xúc không nên tiếp xúc. “Ồ, đi xem đi” “Ồ, tôi chưa thấy bao giờ”, nếu quý vị xem, nó có thể không bao giờ bị xóa trong ý thức của quý vị. Miệng không thể tham. Nói những điều vô nghĩa, sẽ nói hết tất cả những năng lượng tích cực trong tâm mình và từ từ bày tỏ tất cả những năng lượng tiêu cực trong tâm mình. Nói quá nhiều là lậu khí (rò rỉ khí) theo quan điểm vật lý, nhưng theo quan điểm Phật giáo thì đó là lậu thoại (rò rỉ lời nói). Lậu thoại thực chất là nói ra tất cả những suy nghĩ thầm kín trong lòng mình, nếu một vài suy nghĩ không đúng sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống, công việc và học tập của người khác, khiến người khác đau khổ. Đôi khi sau khi nói ra, quý vị để lại cho mình vô vàn tai họa về sau, thậm chí quý vị còn không biết mình đã làm phật lòng ai. 

Sư phụ nói với quý vị rằng, là con người, chúng ta phải xua đuổi những cám dỗ của bản thân và thế gian, chúng ta không trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. 

Nghĩa là hôm nay có mùi gì đó rất thơm nhưng đã ngửi qua thì kết thúc; hôm nay cho dù thứ gì đó hôi thối nhưng khi đã ngửi qua thì cũng sẽ kết thúc và quên ngay; hôm nay tay được sờ vào một cái gối rất mềm mại nhưng sau khi sờ qua thì cũng kết thúc; được ăn qua món ăn rất ngon, được nếm qua trên đầu lưỡi, nhưng rồi cũng sẽ qua đi và quý vị cũng sẽ quên nó. Cho nên quý vị từ từ đuổi những “tên trộm” này ra khỏi tâm trí mình, quý vị không trụ trong những mùi hương đó và cảm thấy hạnh phúc, cảm giác nó ngon, và cũng sẽ không thấy điều này, “Ồ, nó trông ngon đấy”… sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp quý vị dần dần rời khỏi chúng, chúng sẽ không chạy vào trong ngũ uẩn của quý vị. Trong “Tâm Kinh” nói, phải “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không” hôm nay quý vị làm sao trống không đây? Nếu quý vị không giữ những thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp này trong tâm thì tất nhiên là sẽ không có chúng. Có phải là quý vị sẽ ngũ uẩn tự minh không? Quý vị sẽ có được ngũ uẩn giai không. Sau đó, quý vị không cần phải chiếu kiến, nó vốn dĩ không tồn tại ngay từ đầu. Vì vậy, ngũ uẩn – sắc, thọ (thụ), tưởng, hành và thức – chúng đều là những thứ hư ảo, và hết thảy sẽ đi vào quá khứ. Cũng giống như bao nhiêu điều quý vị đã nghĩ từ khi còn bé, bây giờ có còn giữ chúng sau khi nghĩ về nó nữa không? Hết rồi. Khi còn nhỏ, chúng ta đều nghĩ mình sẽ trở thành ai đó, “Khi lớn lên, tôi muốn trở thành một nhà khoa học, tôi muốn trở thành một “nhà” gì đó…” quý vị đã bao giờ nghĩ về điều đó chưa? Có, quý vị đã từng nghĩ về điều đó. Nhưng bây giờ nhìn lại xem quý vị là một “nhà” gì? Bây giờ quý vị không là “nhà” gì cả mà chỉ là “ở nhà”, bây giờ quý vị đang ngồi tại nhà. Bởi vì nó là tưởng tượng, nó là tưởng uẩn, nó là hư ảo, nó có thể xuyên thấu, nó là một loại hư ảo sau khi tồn tại lại trở về hư không. 

“Sắc” là vật chất; “thọ (thụ)” là cảm giác của quý vị; “tưởng” chính là tư duy của quý vị, chỗ nhớ, mà thực chất là suy nghĩ; “hành” là hành vi của quý vị; “ý thức” là những gì ý thức của quý vị làm. Phải học cách sử dụng ý thức và dùng trí tuệ của chính mình để kiểm soát sắc, thọ (thụ), tưởng, hành và thức của mình. Làm thế nào để kiểm soát? Đừng để bụi bặm bên ngoài xâm nhập vào nội tâm của quý vị. Làm thế nào để kiểm soát tốt nội tâm của mình đây? Đừng để sắc, thọ (thụ), tưởng, hành, thức bên ngoài xâm nhập vào nội tâm của quý vị, đó là điều Đài trưởng vừa nói với mọi người, điều không nên nhìn thì đừng nhìn, không nên nghĩ thì đừng nghĩ, không nên nghe thì đừng nghe, không nên ngửi thì đừng ngửi, không nên sờ thì đừng sờ, đừng để những thứ ngũ uẩn xâm nhập vào tâm của quý vị, đừng để bụi trần bên ngoài xâm nhập vào tâm của quý vị, đừng để bụi trần xâm nhập vào ý thức của quý vị, có như vậy quý vị mới có thể phân biệt được thật giả trên thế gian. Cũng như người Phật tử chúng ta, nếu làm chủ được ý thức của mình, thì chúng ta mới có thể dùng Phật pháp để phân biệt thật giả, chánh tà, đúng và sai, thiện và ác trên thế gian. 

Nếu tu tập lâu ngày thì quý vị sẽ thoát khỏi phiền não của tam độc. Quý vị kiên trì tu hành và tinh tấn. Tam độc là chướng ngại lớn nhất đối với sự minh tâm kiến tánh của quý vị. Tam độc tham, sân, si này quý vị hãy nhìn lại xem những lỗi lầm mà quý vị đã phạm, những chuyện sai trái mà quý vị đã làm khi còn trẻ, thì có chuyện nào mà không liên quan đến tham, sân, si không? Đã làm bao nhiêu điều dại dột để người khác chê cười, thật nực cười khi chúng ta nghĩ lại, đáng ghét, vì vậy cần phải đoạn trừ tam độc. Nên nhớ, tu học Phật Pháp khởi xướng vấn đề là phải tu từ gốc. Hôm nay Sư phụ nói với quý vị, tu tâm chính là tu tập từ căn bản, tu như vậy gọi là tu pháp gì? Rốt cuộc là tu luyện cái gì? Nói cho quý vị biết, chính là “tâm tu”, tu cái tâm của quý vị, từ trong nội tâm của mình, nếu quý vị cố gắng tu tốt thì đây chính là “tu tâm”. Vì vậy, việc tu tâm tu hành dựa vào tâm là chính. Cố gắng mà tu tâm, xa lìa tam độc, thì Phật tánh tự nhiên của quý vị sẽ từ từ hiển lộ và Bát nhã tự nhiên của trường thức thứ chín trong tâm quý vị – trí tuệ của Phật, sẽ khiến cho quý vị có được trí tuệ vô cùng vô tận của Bồ Tát trên thế gian, có như vậy quý vị mới có thể giải quyết được mọi phiền não trên thế gian. 

Hôm nay xin nói thêm với quý vị rằng Phật tử chúng ta phải học cách kiểm soát cảm xúc của mình, bởi vì cảm xúc rất dễ lây lan. Học cách điều chỉnh cảm xúc của quý vị và ngăn chặn sự lây lan của cảm xúc. Hãy nhớ rằng, tâm trạng không tốt của quý vị sẽ truyền sang người khác, và tâm trạng không tốt của người khác cũng sẽ truyền sang cho quý vị, vì vậy học cách kiểm soát là điều quan trọng nhất. 

Thông thường thì điều kiện để cảm xúc lây lan là gì? Nếu hôm nay quý vị có thể cảm nhận được cảm xúc của mình là tốt hay xấu, hoặc có thay đổi gì thì bản thân quý vị có thể cảm nhận được trước, đồng thời muốn biểu đạt qua nét mặt và lời nói, đây chính là quý vị đã có được cảm xúc. Quý vị muốn nói nhưng quý vị không nói, quý vị muốn làm việc này, nhưng quý vị không làm, thực ra nội tâm của quý vị đã bắt đầu phát sinh rồi. Và khi loại cảm xúc này phát sinh, cũng không biết đó là năng lượng tích cực hay năng lượng tiêu cực, thông thường quý vị cần biết rằng nếu cảm xúc này là chân thành, quý vị sẽ thể hiện khả năng biểu đạt và khả năng hành động. Ví dụ, quý vị rất muốn đi giúp đỡ ai đó, tuy không nói ra nhưng quý vị đã bước đến giúp một bà mẹ già khiêng đồ nặng, hành vi này của quý vị là chân thành. Ví dụ, nếu quý vị rất muốn nói một lời để cảm ơn cậu ta, quý vị chỉ cần nói ra “Tôi thực sự biết ơn cậu từ tận đáy lòng, tôi cảm ơn cậu”, sự chân thành này sẽ khiến quý vị đáp lại tấm chân tình của mình dành cho người khác, thì nó là một loại lực lây nhiễm. Thông qua cách thể hiện của quý vị, người khác cũng sẽ phản hồi lại cho quý vị loại biểu hiện năng lượng tích cực này. Biểu hiện của năng lượng tích cực rất có khả năng thu hút người khác bắt chước quý vị. Nhiều người nói “Tôi muốn làm việc thiện này”, người bên cạnh nghe thấy liền nói: “Tôi cũng muốn làm từ thiện, tôi cũng muốn làm công đức, các bạn đi làm công quả, tôi cũng đi theo làm công quả”, Vì vậy nên mới ngày càng có nhiều phụng sự viên. Đây là biểu hiện của họ về năng lượng tích cực để quý vị nhận lại năng lượng tích cực, đây là sự truyền nhiễm, đây là sự lây nhiễm. Cho nên Sư phụ nói cho các con biết, cái tốt bắt chước rất nhanh, khả năng bắt chước của cái xấu cũng rất nhanh. Hy vọng rằng Phật tử chúng ta sẽ sử dụng năng lượng tích cực. 

Tập 27
VÔ SỞ TRỤ NHI SINH KỲ TÂM

(28/03/2020)

Tại sao pháp sư lại lấy mình làm gương, thứ mà họ mang đến cho người khác chính là sự trang nghiêm, họ đi đến đâu, người khác sẽ nói năng nhỏ nhẹ, sẽ thể hiện tướng trang nghiêm của mình, sẽ không kể chuyện cười lung tung trước mặt pháp sư, đây là một loại sức mạnh lây lan. Sự lây lan cảm xúc đôi khi có thể tăng cường. Làm sao nó có thể được tăng cường? Những bài diễn thuyết của các bậc Cao Tăng Đại Đức chỉ có thể lây nhiễm cho người khác bằng cảm xúc chân thật của họ và tại sao các bài diễn thuyết của các bậc Cao Tăng Đại Đức lại hay như vậy? Không phải do tài nghệ mà do cảm xúc chân thật trong tâm – họ trăn trở, họ mong mọi người đều học Phật, họ biết đạo Phật là tốt, và tụng kinh có thể làm cho người khác thay đổi. Loại năng lượng chân chính và năng lượng tích cực này có thể lây nhiễm cho người khác. Khi thật sự gặp chuyện buồn, sợ người xung quanh lo lắng hoặc có mối bận tâm khác, thì khi đó chúng ta sẽ không dùng tâm chân thành: “Ôi, đừng cho họ biết chuyện gia đình mình, biết sẽ rất xấu hổ”, sẽ giả vờ rất vui, như: “Không có gì, rất tốt”. Những cảm xúc giả dối này của quý vị sẽ không lây truyền sang người khác được, bởi vì họ biết rằng, họ sẽ không chỉ vì vài câu nói của quý vị mà tin quý vị, vì thế quý vị sẽ không truyền được năng lượng tích cực cho họ. 

Khi sư phụ yêu cầu các con độ người, hãy nói sự thật với người khác, dùng trải nghiệm chân thực trong nội tâm của mình để truyền cảm hứng cho người khác và bày tỏ lòng biết ơn chân thành của các con đối với Đức Phật. Lòng dạ giả dối của một số người sẽ không khiến đối phương cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc thực sự, điều đó là không thể. Quý vị nói dối với họ rằng: “Ôi, cậu thật tốt bụng, tôi thấy cậu càng ngày càng trẻ, sao cậu trẻ thế”, nhưng cậu ta biết “Tôi không còn trẻ nữa, không có nghĩa là ai nói tôi trẻ là tôi còn trẻ”. Bởi vì những gì quý vị nói là lời giả dối, và nó không thể lây truyền cho cậu ấy; chỉ khi đó là sự thật, có một số người thì nói: “Hãy nhìn xem, chúng ta đều già rồi, bạn cũng già và tôi cũng già, nhưng tinh thần của chúng ta rất tốt, vì chúng ta học Phật”, Nhìn xem, sức lây truyền đến rồi đúng không? Trừ khi bản thân quý vị thực sự hạnh phúc và vui vẻ từ tận đáy lòng, còn không thì việc kích hoạt cảm xúc của người khác là vô ích. Quý vị thấy đấy, nhiều nhà diễn thuyết nói rất lâu trong bài phát biểu của họ, trong khi người khác thì ngồi ngủ gật. Tại sao vậy? Họ nói những gì họ muốn nói, không phải những gì người khác muốn nghe. 

Một người độ người tốt, người có tâm đại từ đại bi và có thể hoằng dương Phật pháp, thì họ không nói về mình, mà họ đang nói về tâm tình của người khác, vì trong lòng họ chứa đựng đầy chúng sinh, chứ không phải chứa đựng đầy tâm ích kỷ, như: “Tôi muốn truyền đạt vấn đề này, tôi muốn giải thích vấn đề này một cách rõ ràng”, mà thay vào đó, họ nghĩ về những gì người khác sẽ nghĩ và những gì chúng sinh mong muốn có được, họ sẽ nói điều gì đó, để kích hoạt cảm xúc của người khác. Vì vậy, từ góc độ tâm lý học, nếu quý vị thực sự gặp rắc rối, tốt hơn hết là nên trực tiếp bày tỏ cảm xúc tiêu cực của mình, chỉ cần trực tiếp nói với họ “Hôm nay tôi gặp rắc rối, tôi không vui lắm”, thì người đó có thể giúp quý vị; nếu quý vị gượng cười, ngoài mặt thì tươi cười nhưng thực chất trong lòng quý vị đang rất chua xót, và vẫn phải nói với người khác hay người thân, bạn bè của mình rằng: “Tôi thực sự không sao cả, mặc dù chuyện này đã xảy ra, nhưng thực ra tôi nghĩ thông rồi, tôi…” Những gì quý vị nói, loại niềm vui giả tạo khiến người ta tạm thời cảm thụ và sẽ không mang lại bất kỳ hạnh phúc nào cho người khác. 

Sư phụ nói với mọi người rằng, những người học Phật đôi khi phải học cách dùng tâm của chính mình để trải nghiệm và hiểu người khác, quý vị sẽ đạt được trí tuệ vô thượng. Hãy làm nhiều việc thiện, quý vị sẽ có được trí tuệ. Sư phụ kêu gọi mọi người hãy làm nhiều việc thiện hơn nữa, thì phúc báo sẽ tự nhiên tăng lên. Phúc của quý vị đến như thế nào? Phúc khí đã đến với quý vị như thế nào? Bởi vì quý vị đã làm nhiều việc thiện. Quý vị giúp người khác, quý vị có thiệt thòi gì không? Quý vị chỉ là làm thêm một chút chuyện, quý vị sẽ mất mát gì chứ? Điều mà quý vị nhận được là phúc báo. Làm việc thiện cộng với tu Giới Định Tuệ thì quý vị sẽ có được hạt giống của phúc. Làm sao có nhiều người lại có được “phúc”, một là làm việc thiện, hai là có thể giữ giới, và họ có thể định lại được, gặp việc gì cũng có được trí tuệ, hạt giống “phúc” của họ sẽ được gieo trồng. Hãy nhớ rằng, khi những hạt giống phúc được gieo trồng thì sẽ sớm được tăng trưởng. 

Đại chúng biết định nghiệp là gì không? Khi thầy bói bói ra cho quý vị đó gọi là định nghiệp – định số. Định nghiệp (là nghiệp chướng cố định) của chúng ta, nó rất khó tiêu trừ, nhiều người trong chúng ta sẽ phải chịu số kiếp và định nghiệp trong thế gian. Mặc dù, định nghiệp của chúng ta nhiều khi rất lớn, nhưng Bồ Tát dạy chúng ta rằng, cho dù có định nghiệp, đáng bị chết, đáng bị bệnh tật, đáng bị xui xẻo, quý vị vẫn có thể thay đổi như thường. Vì người học Phật đều có thiện niệm, thiện căn, chúng ta gieo hạt giống vô lượng phước, chúng ta sẽ chuyển ác thành thiện, chuyển thức thành trí (tri thức thành trí tuệ). Nên tu thập thiện nghiệp và sám hối nhiều hơn, thì có thể thay đổi được định nghiệp của mình. Ngay cả khi một người có nghiệp, thì họ cũng có thể chuyển đổi được, đừng sợ. Cũng giống như một người, dù có bệnh, nếu phối hợp điều trị thì sẽ khỏi bệnh. Khi làm việc thiện, bản thân mình phải thường xuyên nghĩ rằng: “Tôi muốn tạo thiện tâm”. Quý vị có muốn thay đổi vận của mình không? Hãy phát khởi thiện tâm của quý vị, hãy phát khởi tâm từ bi của quý vị, đừng suy nghĩ quá nhiều, chúng thiện phụng hành (hãy làm việc thiện), giúp đỡ người khác nhiều hơn, chư Bồ Tát đều thấy được. Đừng suy nghĩ quá nhiều chuyện tạp niệm ở thế gian, có một số người khi giúp đỡ người khác thường tự nghĩ: “Liệu nghiệp chướng của anh ấy có bị đổ lên người mình không? Liệu mình có gánh nghiệp của anh ta không? Nếu quý vị muốn cứu người, thì quý vị nên hy sinh hết mình, và Bồ Tát sẽ giúp quý vị. Khi quý vị phát Bồ-đề tâm, thì Bồ Tát sẽ từ bi hơn và gia trì cho quý vị. Làm việc thiện cũng cần có trí tuệ, nhiều người cả đời làm việc thiện, cuối cùng thành một đại thiện nhân, nhưng người ấy không thể thành Bồ Tát, cũng không có công đức gì, vì họ chưa thêm trí tuệ của mình vào những việc thiện đó. Chúng ta làm người hay học Phật, trước hết phải làm việc thiện, thứ hai phải có nguyện lực tụng kinh, hành nguyện, nếu không sẽ hại mình. Muốn cứu người thì trong thân phải phát khởi được tâm từ bi, tâm từ bi sinh khởi rồi thì tự nhiên sẽ phát Bồ-đề tâm. Nhiều người hỏi sư phụ, sự khác biệt giữa Bồ-đề tâm và từ bi tâm là gì? Mọi người hãy nói cho sư phụ biết, có sự khác biệt không? Nhất định có. Từ bi tâm là nền tảng của Bồ-đề tâm, một người muốn có Bồ-đề tâm thì phải có từ bi tâm. Nếu quý vị không từ bi thì làm sao có khả năng phát Bồ-đề tâm? Có tâm từ bi thì phải cứu độ chúng sinh, chỉ khi thành Phật mới có khả năng cứu độ chúng sinh. Cho nên muốn phát khởi quyết tâm thành Phật thành Đạo trong lúc này, thì trước hết phải có Bồ-đề tâm. Vì vậy, Phật giáo Đại thừa coi Bồ-đề tâm là động lực để tu tập Giới Định Tuệ, sáu độ vạn hạnh, và cuối cùng thành tựu quả vị Phật viên mãn. Con đường thành Phật của quý vị tràn đầy Bồ-đề tâm, vì không có nguyện của Bồ-đề tâm, không có nền tảng của lòng đại từ đại bi, và không có nguyện lực bi mẫn đối với tất cả chúng sinh, thì quý vị không thể trưởng dưỡng Bồ-đề tâm. Chúng ta thường nói nên mở rộng Bồ-đề tâm của mình. Bồ-đề tâm là gì? Nó có hai yếu tố chính: một là bi và hai là trí tuệ. Bồ-đề tâm là nền tảng đại từ đại bi của Phật giáo Đại thừa. 

Sư phụ sẽ nói ngắn gọn với mọi người rằng từ bi và trí tuệ là hai điều kiện không thể tách rời để có Bồ-đề tâm. Thành Phật vì lợi ích chúng sinh, câu này hàm chứa lòng từ bi. Nếu một người không thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, thì họ không có đủ hai nghĩa tâm từ bi và trí tuệ. Vì vậy, mục đích thành Phật của chúng ta phải rõ ràng, chúng ta vì lợi ích của tất cả chúng sinh, không phải thành Phật chỉ cho riêng mình, và chúng ta không phải vì an vui cho riêng mình, biết nghĩ cho người khác, đó gọi là từ bi. Nếu chúng ta rời khỏi tất cả chúng sinh, thì chúng ta sẽ mất đi tâm từ bi, chẳng khác nào chúng ta sẽ mất đi Phật quả, tức là không có trí tuệ. Làm lợi ích cho tất cả chúng sinh thì phải nghĩ rằng, mình có lòng từ bi và trí tuệ để cứu độ tất cả chúng sinh, để tất cả chúng sinh lìa khổ được vui. Chỉ với Bồ-đề tâm và từ bi tâm, tôi mới có thể đạt được Phật quả, mới có thể học cách bố thí, giữ giới và an nhẫn. Vì vậy, một người thực sự có trí tuệ, thì tu tâm phải học cách thực tu và thực tu chính là đạo tràng. 

Chứng ngộ tánh không là Bồ-đề tâm vô thượng vô cùng quý báu của chúng ta. Tại sao người học Phật thường nói phải chứng đắc vô thượng Bồ-đề tâm, kỳ thực “Kinh Kim Cang” nói “Vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”, cảnh giới này chính là tâm Bồ-đề. Không có lợi ích gì và không có ý tưởng trong bất cứ điều gì quý vị làm, quý vị làm điều đó không vì mục đích gì, chính là một loại tâm từ bi – tâm từ bi của Vô Duyên Đại Từ. Cảnh giới kết hợp của vô sở trụ và từ bi, đó chính là Bồ-đề tâm. Trong “Kinh Kim Cang” đề cập đến điểm này, chính là để cho chúng ta hiểu rằng, muốn học vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì phải học Bồ-đề tâm. Nếu chúng ta chỉ có thể sống vô sở trụ mà không có tâm từ bi, thì quý vị chỉ có thể là bậc độc giác đã học Tiểu thừa (độc giác là tự mình giác ngộ); nếu quý vị chỉ có tâm từ bi mà không thể vô sở trụ, thì quý vị là một Pháp hữu vi của thế tục (Pháp hữu vi là pháp sinh rồi diệt). Vì vậy, người học Phật phải hiểu rằng nếu tìm cầu có mục đích và làm việc có mục đích thì sẽ xa rời lòng từ bi hơn. Phải tâm vô sở trụ, phải Vô Duyên Đại Từ, có thể cống hiến thời gian quý báu của mình, kể cả mọi thứ của mình, vì lợi ích của tất cả chúng sinh, chỉ bằng cách này, mới có thể có được tâm từ bi thực sự và mới có thể thành tựu được Bồ-đề tâm trong trái tim mình. 

Sư phụ hy vọng mọi người phải hiểu rằng nếu chúng ta học Phật làm người làm nhiều việc thiện thì phước báo của chúng ta sẽ tự nhiên tăng trưởng nhanh chóng, vì vậy làm việc thiện cũng là điều quan trọng nhất và chúng ta phải làm điều đó một cách hoan hỷ. Nhiều người làm việc thiện, thông thường đều là: “Ồ, tôi sẽ làm một số việc công đức”, phải hết lòng hoan hỷ – hôm nay tôi lau sàn nhà rất vui vẻ; hôm nay tôi đọc kinh rất pháp hỷ; Hôm nay tôi nghe giảng, cảm thấy trong lòng tôi có vô thượng Bồ-đề tâm, bởi vì tôi đã học được nhiều hơn, và tôi có thể cứu nhiều chúng sinh hữu duyên hơn nữa. Chỉ cần quý vị đem tư duy này và mở rộng tư duy của tâm từ bi trong Phật giáo Đại thừa, phát triển được bao cao bao xa, thì đây chính là vô lượng vô biên và quý vị sẽ có được công đức vô lượng vô biên. 

Nhiều người không biết công đức là gì, một việc thiện có thể trở thành một công đức, đồng thời nếu một người làm một việc thiện rất lớn, nó cũng có khả năng chỉ trở thành một phúc đức. Đây chính là cảnh giới của quý vị, quý vị làm với tâm hữu sở trụ hay tâm vô sở trụ thì đây chính là nền tảng cơ bản nhất của nhân tâm chúng ta. 

Hy vọng tâm Bồ-đề của mọi người tự nhiên sinh ra, không vì công đức mà làm việc, biết cách buông bỏ, làm xong thì hãy buông bỏ, đừng tính toán chi li về những phiền não ở thế gian, và thể ngộ cảnh giới vô ngã trong cuộc sống. Đây là cơ sở để quý vị học Phật. 

Tập 28
BÁO ỨNG NHƯ HÌNH VỚI BÓNG

(28/03/2020)

Chúng ta học Phật là để có được tinh hoa và hiểu được chân lý của đạo Phật. 

Sư Phụ đã từng đọc một câu chuyện mà A Nan đã nghe thấy trong tập thứ ba của “Hiền Ngu Kinh”, và nghĩ rằng nó rất gây cảm hứng cho Phật tử chúng ta. Hôm nay sư phụ sẽ kể cho đại chúng nghe câu chuyện này. 

Trong chương thứ mười sáu của quyển thứ ba “Hiền Ngu Kinh” có nói đến: Tôi, A Nan, đã tự mình thấy và nghe một việc như vậy. Lúc bấy giờ, Đức Phật ở tại 

Tinh Xá Kì Viên (Jetavana), tại vương quốc Xá Vệ. Sau khi vua Ba Tư Nặc 

(Pāsenadi) của Vương quốc Xá Vệ băng hà, Thái tử Lưu Ly (Vitatubha) lên nối ngôi vua, bạo ngược và vô đạo, hạ lệnh tấn công vương quốc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) vốn là gia tộc của Đức Phật, dòng tộc Thích Ca (Sakya) và tàn sát những người họ Thích. Phàm là bất cứ ai có họ Thích đều bị hắn tàn sát. Vì có quá nhiều người thuộc dòng tộc họ Thích, các binh tướng đã đích thân tàn sát họ bằng kiếm, giết chết rất nhiều người. Chúng còn nghĩ ra một thủ đoạn độc ác là chôn chân của người có dòng tộc Thích Ca xuống đất để họ không thể di chuyển, rồi xua voi say (tức là những con voi bị mất kiểm soát giống như say rượu), và bọn chúng ở bên cạnh nhìn những con voi say tàn sát họ, giết vô số bá tánh dòng tộc họ Thích bằng những thủ đoạn tàn bạo như vậy. 

Lúc bấy giờ, ở vương quốc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) có nhiều cung nữ quyền quý, chứng kiến cảnh tàn sát dã man như vậy, trong lòng họ vô cùng xót xa, đau đớn, không còn muốn vướng bận gia đình thế tục nên cùng nhau xuất gia và trở thành Tỳ kheo ni. Dân thành Ca Tỳ La Vệ thấy các phụ nữ này, thuộc giai cấp Thích, hay giai cấp vua chúa (tức là giai cấp quý tộc), ai nấy đều cao quý đoan chính, đứng đầu cả nước, họ lại có thể từ bỏ tất cả dục vọng của thế tục để xuất gia tu đạo, tổng cộng năm trăm người. Toàn thể nhân dân cả nước mọi người đều cảm thán và khen ngợi, tranh nhau cúng dường năm trăm vị Tỳ kheo ni. 

Các Tỳ kheo ni này bảo nhau: “Chúng ta nay tuy trên danh nghĩa là xuất gia rồi, nhưng hiểu kinh chưa sâu, chưa uống pháp y, những thói quen tham dục, sân nộ, ngu si chưa đoạn trừ, nên chúng ta cùng nhau đến đạo tràng của Tỳ kheo ni Thâu La Nan Đà (là một vị Tỳ kheo ni nổi tiếng) để thăm vị Tỳ kheo ni này, thỉnh giáo và lĩnh thụ kinh pháp, hy vọng có thể khắc phục và loại bỏ mọi tật xấu trên thân mình”. Sau đó lập tức lên đường, họ đến nơi Tỳ kheo ni Thâu La Nan Đà, cúi đầu chào hỏi, tất cả đều nói: “Chúng con tuy là xuất gia tu hành nhưng chưa được pháp bảo và cam lồ, không thể tiêu trừ các tật xấu trên thân, mong được sự khai thị chỉ bảo”. Để chúng con minh ngộ khế nhập (nghĩa là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh).” 

Khi Tỳ kheo ni Thâu La Nan Đà nhìn thấy họ, trong lòng tự nghĩ: “Đây là những người phụ nữ thuộc giai cấp cao quý, đúng lúc chúng ta cần họ cúng dường và hộ trì chúng ta. Tốt hơn hết là ta dạy họ vi phạm giới luật, để ta một mình làm chủ y bát này (y bát: vốn chỉ áo cà sa và cái bát mà những nhà sư đạo Phật truyền lại cho môn đồ, sau này chỉ chung tư tưởng, học thuật, kỹ năng … truyền lại cho đời sau). Đây mới là một điều hạnh phúc!” Sau khi đã quyết định, vị ấy nói với các Tỳ kheo ni này rằng: “Các vị đều xuất thân từ những gia đình quyền quý, trong nhà của các vị có điền trạch bảy báu (nhà nào cũng rất giàu có, có vàng bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, hổ phách, san hô, bảy báu), còn có cả voi, ngựa, nô lệ, các loại nhu cầu đều không thiếu, hà cớ gì phải từ bỏ, mà còn muốn theo giới cấm của Đức Phật trở thành Tỳ kheo ni? Còn vất vả tìm Đạo tu hành, sao không trở về bên mái ấm gia đình, vợ chồng yêu thương sẻ chia, tùy tâm sở nguyện, tùy ý bố thí, tích lũy phước đức, ít ra cũng có thể hưởng được vinh hoa phú quý của đời này“. Sau khi nghe những lời này, các Tỳ kheo ni hoàn toàn khác với những gì họ đã tưởng tượng, họ đến đây để cầu Phật pháp, nhưng không ngờ vị Tỳ kheo ni lại nói những lời này, và họ cảm thấy trong lòng rất khó chịu, bao nhiêu tâm tư mong mỏi đều tan biến, bao công sức đều uổng phí, bọn họ khóc lóc thảm thiết, hơn năm trăm người cùng nhau đứng dậy bỏ đi. Họ lại đi đến gặp một vị Tỳ kheo ni khác – nơi mà vị Tỳ kheo ni Vi Diệu đã tu tập, đi đến đảnh lễ và chào hỏi theo pháp. Sau đó, mới giải thích: “Chúng con mới xuất gia không lâu. Chúng con đã quen với đủ thứ công việc thế tục trong thời gian ở nhà, và chúng con đã lạc lối trong một thời gian dài. Dù bây giờ chúng con đã là nhà sư, nhưng chúng con vẫn cảm thấy tâm chúng con rối bời, nhiều khi dục vọng bùng cháy, không thể hiểu được chính mình, mong Tôn giả thương xót, thuyết pháp cho chúng con, phóng thích căn nguyên che lấp của nghiệp chướng này”. Lúc này vị Tỳ kheo ni Vi Diệu hỏi bọn họ: “Còn nhân quả ba đời, chư vị muốn hỏi đời nào?” Các vị Tỳ kheo ni đáp: “Đời trước và đời sau đều là ở hiện tại chúng con không nhìn thấy được, tạm thời chúng con chớ nói tới. Bây giờ hãy nói về hiện tại. Hy vọng thầy có thể thuyết pháp để xua tan những nghi ngờ trong lòng chúng con. Tỳ kheo ni Vi Diệu khai thị nói: “Vấn đề sắc dục cũng giống như ngọn lửa đốt rừng núi, nó sẽ lan nhanh và sức tàn phá của nó càng sâu sắc. Nếu con người chìm đắm trong sắc dục, khát khao và yêu thương nhau, thì chẳng qua chỉ là nấn ná lẫn nhau và làm ô uế nhau mà thôi. Theo năm tháng, dục vọng giữa nam và nữ đã sâu đến mức khó buông bỏ. Đến khi lâm mạng chung thời khó thoát khỏi quả báo khổ đau trong ba đường, chính là Hỏa đồ khổ (khổ đường lửa), tức địa ngục đạo, bị lửa cuồng nộ của địa ngục thiêu đốt; Huyết đồ khổ (khổ đường máu), tức súc sinh đạo, ăn thịt đồng loại; Đao đồ khổ (đường dao), tức ngã quỷ đạo, nơi gươm đao bức hại), đời đời kiếp kiếp không có thời gian để xuất ly. Khi đó, kẻ nào tham luyến gia đình, vì tham tình nghĩa vợ chồng, cũng như ân ân ái ái giữa vợ và chồng, cùng nhau điều hành công việc gia đình, cùng hưởng vinh hoa phú quý, theo đuổi mưu cầu hạnh phúc tối thượng của trần gian, v.v. Đều bị nghiệp trói buộc. Họ đã lãng phí những năm tháng quý giá của tuổi trẻ, chờ đợi sự ly biệt của sinh, lão, bệnh, tử. Hoặc khi đắc tội với chính quyền và bị bắt vào tù, đối mặt với sinh ly tử biệt, tình cảm vợ chồng sẽ quyến luyến nồng nàn, ôm đầu nhau khóc lóc thảm thiết bịn rịn không muốn rời xa, ruột gan đứt đoạn, thống triệt tâm phi, đau buồn quá độ muộn tuyệt đế địa, ngất đi, rồi lại tỉnh lại, lại bị giày vò liên miên như vậy, đau đớn khôn cùng. Mọi người thấy đấy, loại tình cảm gia đình không thể tách rời này đều do vọng tâm tác ý quấn quanh trói buộc mà ra, loại tình si mê đắm này thực ra còn đau đớn hơn bị nhốt trong ngục tù, không thể thoát ra được lại càng khó tự tại hơn.” Vị Tỳ kheo ni này đang giảng Pháp cho rất nhiều vị Tỳ kheo ni: “Tôi vốn lớn lên trong một gia đình ngoại đạo hành giả, cha tôi có địa vị cao quý nhất trong nước. Lúc bấy giờ, có một người là con trai của một hành giả thông minh có trí tuệ, cậu ta nghe nói tôi tướng mạo đoan chính, nên nhờ người mai mối, tặng sính lễ xong, tôi liền với anh ta thành thân, lập gia đình và sinh được một cậu con trai. Vài năm sau, bố mẹ chồng tôi qua đời, lúc đó tôi đang mang thai đứa con thứ hai và nói với chồng tôi: “Bây giờ em đang mang thai, xem ngày dự sinh sắp đến, sẽ có đủ thứ ô uế không sạch sẽ khi sinh con, và cũng có thể sẽ gặp nguy hiểm, có lẽ nên tận dụng thời gian này để về quê thăm cha mẹ của em. “Chồng tôi cũng cảm thấy như vậy rất tốt, thế là cả nhà cùng nhau lên đường, không ngờ đi được nửa đường thì tôi đau bụng, đành phải nghỉ dưới gốc cây lớn, chồng tôi nằm ngủ ở một góc khác. Đứa con trong bụng của tôi chào đời vào lúc nửa đêm, và sản dịch cũng cùng chảy ra ngoài. Rắn độc ngửi thấy mùi máu tanh, theo mùi hôi thối và đến cắn chết chồng tôi. Tôi đã sinh con trong đêm khuya, la hét gọi anh ấy mấy lần, anh ấy cũng không trả lời, trong lòng tôi bồn chồn không biết chuyện gì xảy ra. Đến khi trời rạng sáng, tôi mới miễn cưỡng đứng dậy đi tới nắm tay chồng tôi, mới biết rằng anh ấy đã bị rắn độc cắn chết, cơ thể sưng phù và thối rữa, bị cắn đến tứ chi rụng rời. Tôi nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng của anh ấy, liền ngất đi vì sợ hãi. Đứa con trai lớn của tôi nhìn thấy cái chết bi thảm của cha, nó đã bật khóc. Tôi nghe thấy tiếng khóc của con trai, thì tỉnh lại lần nữa, không còn cách nào khác, tôi bế đứa con lớn lên và cưỡi trên cổ của mình để xoa dịu trái tim sợ hãi của nó. Ôm đứa con trai mới sinh trong lòng, hai cánh tay thuận thế kẹp chặt chân của con trai lớn, và như thế vừa đi vừa khóc suốt quãng đường. 

“Đường vắng và nguy hiểm, không thấy bất kỳ người đi bộ nào trên đường. Trên đường có một con sông lớn, rất sâu và rộng. Tôi phải để đứa con trai lớn ở lại và bảo nó ngoan ngoãn đợi bên sông. Tôi cõng đứa nhỏ đi trước, cẩn thận bước sang bờ bên kia, tôi đặt đứa con trai nhỏ lên bờ, rồi quay lại đón đứa con trai lớn, nhưng không ngờ, con tôi từ xa nhìn thấy tôi đi đến, quên mất lời tôi dặn, chạy xuống nước đón tôi, tấm thân nhỏ bé làm sao có thể chắn được dòng nước chảy xiết, thế là đứa con trai lớn bị dòng nước cuốn trôi, tôi gào khóc đuổi theo nhưng sức yếu không cứu được nó. Tôi bất lực nhìn nó lúc nổi lúc chìm rời xa tôi mà đi trong dòng nước. Lúc đó tôi mới nghĩ đến đứa con trai nhỏ ở phía bờ đối diện, và tôi liền lao đến. Không ngờ, đứa con trai nhỏ đã bị con sói ăn thịt mất rồi, chỉ nhìn thấy máu của nó đổ đầy bờ, tôi lại buồn bã và ngất đi. Phải mất một lúc lâu mới từ từ tỉnh lại.” 

 

“Trong lòng tôi đầy phiền muộn, và chỉ lặng lẽ đi dọc theo con đường. Sau đó, tôi gặp một vị hành giả, người này chính là người bạn thân của cha tôi, và ông hỏi tôi: “Con từ đâu đến? Làm sao con lại mệt mỏi phờ phạc thế này?” Tôi kể cho ông ấy nghe chi tiết về trải nghiệm bi thảm của mình. Sau khi nghe tôi kể lại, vị hành giả này cảm thấy thương xót cho tôi, vì tôi đã trở thành một người lẻ loi cô độc, và đã không kìm được nước mắt khóc cùng tôi. Tôi hỏi vị hành giả này: “Bố mẹ và hàng xóm của tôi thế nào? Họ có bình an không?” Vị hành giả này nói với tôi rằng : “’Nhà của cô gần đây đã bị cháy, cha mẹ và những người thân khác của cô đã bị thiêu chết cùng một lúc rồi.” Sau khi nghe những gì ông ấy nói, tôi lại ngất đi và một lúc lâu sau tỉnh dậy. Người đó thương hại cho những gì đã xảy ra với tôi nên đã đưa tôi về nhà, coi tôi như con của ông ấy và cung cấp cho tôi những nhu yếu phẩm hàng ngày.” 

“Lúc đó, có một vị hành giả khác thấy tôi đoan chính nên ngỏ lời làm vợ anh ấy. Tôi không chịu được sự cô đơn, lại mong có người để nương tựa nên đã đồng ý lấy anh ấy. Kết hôn với anh ta không lâu sau, tôi lại có thai, kết thúc thai kì sắp sinh nở, hôm đó chồng tôi đi uống rượu ở nhà người bạn, đến chạng vạng tối anh ta say khướt trở về, đúng lúc tôi sắp chuyển dạ nên ở trong phòng một mình. 

Chồng tôi đập cửa ầm ĩ, gọi: “Mở cửa! Mở cửa!” Vì tôi còn đang sinh nên không thể ra mở cửa. Chồng tôi giận quá không thấy ai ra mở cửa, anh ta xô cửa xông vào, đấm đá tôi, tôi nói với anh ta: “Vì em đang sinh, có việc cấp bách nên em không mở cửa được cho anh” Hắn ta càng tức giận hơn, thẳng tay giết chết đứa trẻ sơ sinh rồi dùng bơ nung nấu, bắt tôi phải ăn. Chao ôi! Thật là đồ cầm thú! Làm sao tôi có thể ăn được! Tôi không chịu ăn, hắn ta lại đánh tôi một trận tơi bời. Khi miễn cưỡng ăn thịt đứa trẻ mà nước mắt lưng tròng, tôi cảm thấy vô cùng cay đắng và bất lực, tôi thầm nghĩ, lẽ nào phước căn và phước báo của tôi đã cạn rồi sao? Tại sao tôi lại gặp người đàn ông như vậy? Tôi còn kết duyên vợ chồng với hắn? Nhân lúc hắn ta đang ngủ say sau khi uống rượu, tôi đã trốn khỏi ngôi nhà đó và bắt đầu lang thang khắp nơi”. 

“Tôi đến đất nước Ba-la-nại. Vào ngày này, tôi nghỉ ngơi dưới gốc cây bên ngoài thành phố. Có một vị trưởng lão vừa mất vợ và vợ của ông ta được chôn cất tại nghĩa trang bên ngoài thành phố. Vì luyến tiếc người vợ đã khuất của mình, ngày nào ông cũng nán lại bên mộ vợ mà khóc. Vào một ngày, ông ấy ra ngoại thành gặp tôi, ông hỏi: “Cô là ai? Người phụ nữ nhà ai, sao ngồi một mình bên vệ đường?” Tôi kể lại câu chuyện của mình. Ông ấy lại hỏi tôi: “Tôi muốn mời cô cùng đi viếng nghĩa trang, cô có muốn đi không?” Tôi đồng ý, và sau này chúng tôi lại thành vợ thành chồng. Ai ngờ chỉ vài ngày sau khi kết hôn, ông ấy lại đổ bệnh, không cách chữa trị và bỗng chốc lại chết. Luật của nước đó là khi chủ nhân của gia đình qua đời, khi chôn cất, người đó phải được chôn cất cùng với người thân yêu và quan trọng nhất trong đời mình, vì vậy tôi đã trở thành người mai táng cùng ông ấy và bị chôn cùng trong ngôi mộ”. 

“Có lẽ là mệnh tôi chưa đáng chết. Tôi đã không chết ngay lúc đó. Tình cờ có một nhóm đạo tặc đến mở mộ và đưa tôi ra ngoài, thủ lĩnh đạo tặc thấy tôi đoan chính nên phong tôi làm áp trại phu nhân. Sau hàng chục ngày, ông ấy lại ra tay cướp mộ, bị chủ nhân phát hiện, lập tức chặt đầu. Các đệ tử của ông ấy đã mang xác của ông ấy về cho tôi và chôn cất tôi cùng với ông ấy theo luật pháp của đất nước này. Tôi ở một mình trong mộ với cái xác. Sau ba ngày, tôi không chết. Đúng lúc có một bầy sói đến đào mộ, chúng định ăn thịt người chết. Mộ bị đào lên, tôi được đi ra lần nữa và tự trách mình trầm trọng: “Năm xưa mình phạm nghiệt tội gì mà trong mấy ngày gặp phải bao tội ác khủng khiếp, chết cũng chết không được, lại từ trong mồ sống lại! Nơi quy y của tôi ở đâu? Ai có thể làm cho sinh mệnh của tôi kéo dài hơi tàn đây?” 

“Sau đó, tôi chợt nhớ ra rằng tôi đã từng nghe nói người con trai cả của dòng họ Thích Ca đã xuất gia để học Đạo và đắc được vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngài ấy được gọi là “Phật” và có thể hiểu được nhân quả túc mệnh của quá khứ và tương lai. Tại sao tôi lại không đến bái kiến, hy vọng sự hướng dẫn của Ngài để tâm hồn và thể xác của tôi được quy y. Ý tưởng đã được thực hiện, không chần chờ và lập tức đi ngay. Tất cả những gì tôi muốn làm là đến được Tinh Xá Kỳ Hoàn, nơi có Đức Phật ở đó. Khi đến Tinh Xá Kỳ Hoàn, từ xa tôi đã nhìn thấy khí chất cao quý của Như Lai (tức là Đức Phật). Khí chất nổi bật của Ngài rực rỡ như bông hoa giữa đàn cây sum suê, và càng giống như ánh trăng sáng giữa các vì sao lấp lánh. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn có tam thông vô lậu (Thiên nhãn thông, Túc mệnh thông, Lậu tận thông. Thiên nhãn là biết đời sau nhân quả sinh tử, Túc mệnh là biết đời trước nhân quả sinh tử, Lậu tận là biết những phiền não trong hiện tại), biết rằng đã đến lúc tôi cần được cứu độ, bèn dẫn chư Tăng ra đón tôi. Lúc đó tôi mình trần như nhộng, xấu hổ nên phải cong người ngồi dưới đất, lấy tay che ngực, xấu hổ đến không dám ngẩng đầu lên. Đức Phật bảo Tôn giả A Nan: “Này A Nan, ông lấy y đi đắp thân cho người đàn bà này đi”. Sau khi tôi lấy y che thân, bấy giờ mới dám đứng dậy đảnh lễ Đức Thế Tôn một cách cung kính nhất, rồi lần lượt kể những tội lỗi mà tôi đã gánh chịu, mong Đức Thế Tôn thương xót độ lượng, lắng nghe và tiếp nhận tôi xuất gia học Đạo”. 

“Đức Phật lập tức nói với A Nan: “Này A Nan, hãy mang người phụ nữ này và giao cô ta cho Kiều Đàm Di (là Gotami, Tỳ kheo ni Đại Ái Đạo, di mẫu của Đức Phật, người đầu tiên trở thành Tỳ kheo ni). Tỳ kheo ni Kiều Đàm Di đã giảng dạy tôi giới pháp, và sau đó tôi lễ dưới chân vị Tỳ kheo ni này và trở thành một Tỳ kheo ni. Vị Tỳ kheo ni này đã giải thích cho tôi về ý chính của Tứ Diệu Đế về “Khổ Tập Diệt Đạo”, và chỉ ra các nguyên lý của – không – vô thường và vô ngã. Tôi chưa bao giờ nghe nói về một giáo pháp tinh tế như vậy, thu nhiếp tâm thần, chế tâm nhất xứ (giữ tâm an môt chỗ) và cuối cùng chứng đạo. Tôi có thể hiểu được chuyện của quá khứ và tương lai, và chỉ khi đó tôi mới nhận ra rằng những đau đớn và khổ sở không thể tưởng tượng được mà tôi đã trải qua trong cuộc đời này đều là ác quả của nghiệp lực trong kiếp trước của tôi, nhân quả rõ ràng, không sai chút nào!”  

Các Tỳ kheo ni nghe vậy vô cùng sợ hãi, năm trăm vị Tỳ kheo ni lại hỏi: “Thưa sư phụ, kiếp trước thầy đã phạm lỗi lầm gì để kiếp này phải chịu nhiều đau khổ như vậy? Mong thầy có thể chỉ dạy cho chúng con.  

Tỳ kheo ni Vi Diệu đáp: “Nhân quả trong đây rất sâu xa, mọi người nên chú tâm lắng nghe. Ở đời trước có một vị trưởng lão tài sản nhiều vô kể, đáng tiếc không có tử tức (tức là không có con), nên cưới thêm một vị thê thiếp, nàng tuy là con gái của một hộ gia đình nhỏ, nhưng cũng đoan chính vô song. Vị trưởng lão hết mực cưng chiều người vợ lẻ này, chẳng bao lâu thì có tin vui, 10 tháng kết thúc và hạ sinh được một bé trai. Vợ chồng tôn trọng lẫn nhau, thương con vô cùng, càng nhìn càng đáng yêu, không biết chán. Người vợ cả thấy vậy, thầm nghĩ: “Tuy tôi sinh ra trong một gia đình quyền quý, nhưng tôi chỉ hận là cái bụng mình không biết điều, không sinh được đứa con nào để thừa kế gia sản cả. Khi đứa trẻ này lớn lên, đương nhiên nó sẽ trở thành người chủ gia đình, mọi tài sản và vật dụng có giá trị trong gia đình đều đứng tên nó. Tôi cả đời làm việc chăm chỉ cực nhọc để tích lũy tài sản, nhưng cuối cùng chúng không phải là của tôi, tôi cũng không thể sử dụng chúng một cách tự do. “Nộ thung tâm trung khởi, ác hướng đảm biên sinh” (nghĩa là sự tức giận phát sinh từ nội tâm, và cái ác phát triển từ túi mật). Trong lòng thầm nghĩ: “Chi cho bằng giết đứa nhỏ này sớm, còn hơn để tránh phiền toái sau này!” 

Hạ quyết tâm, bà cầm cây kim sắt trực tiếp xuyên qua mỏ ác trên đỉnh đầu đứa trẻ (Bên trong phía trước đỉnh đầu của trẻ sơ sinh). Chiếc kim sắt nằm chìm bên trong và không bị phát hiện. Chỉ là đứa trẻ ngày nào cũng khóc, thân thể ngày ngày cảm thấy không khỏe, ngày một gầy sút, không ai nhìn ra được vấn đề ở đâu. Chỉ trong vài ngày, đứa trẻ đã chết. Người vợ lẻ bức xúc quá, đau đến ngất đi, rồi lại tỉnh lại lần nữa, nghi ngờ người vợ cả giết con mình vì ghen ghét, bèn chất vấn người vợ cả: “Đồ con đàn bà độc ác, vì hận thù mà giết chết đứa con trai yêu quý của tôi!” Người vợ cả lúc đó đã tự thề rằng: “Nếu ta giết con trai ngươi, thì để cho người chồng mà ta kết hôn sau này đời đời kiếp kiếp bị rắn độc cắn chết, con ta hoặc là bị nước trôi đi, hoặc là bị sói ăn thịt, còn ta sẽ bị chôn sống và ăn thịt chính con mình, cha mẹ người thân lớn nhỏ đều bị thiêu chết. Đồ con đàn bà khốn kiếp, tại sao lại vu oan cho ta! Tại sao lại muốn hãm hại ta!” Khi đó, người thề thốt càng nhiều thì sẽ càng có nhiều người tin, bởi vì ai cũng tin vào nhân quả báo ứng. Nhưng bà ta lại thản nhiên thề thốt, không tin những nghiệp chướng này sẽ thực sự xảy đến với mình. Kết quả là những lời thề độc ở kiếp trước đều được ứng nghiệm ở kiếp này, tất cả đều báo ứng hết lên bà ta, không ai có thể thay bà ta chịu khổ. Mọi người biết không? Người vợ cả khi đó chính là ta của đời này.” 

Các Tỳ kheo ni ai nấy đều sững sờ, họ lại hỏi: “Thưa sư phụ, nhân duyên đặc biệt gì khiến thầy được tận mắt thấy thánh diện Đức Như Lai, và Ngài còn dẫn đại chúng ra đón thầy, để thầy tu hành chứng đạo, thoát khỏi vòng sinh tử. Tỳ kheo ni Vi Diệu đáp: “Ngày xưa, ở nước Ba-la-nại có một ngọn núi lớn có tên là “Tiên Sơn”, chung linh dục tú (đất thiêng nảy sinh hiền tài) Trong núi luôn có Bích-chi Phật (còn gọi là Độc Giác Phật, Duyên Giác Phật), cũng như những hành giả của Thanh văn và ngoại đạo Thần Tiên. Lúc bấy giờ, có một vị Duyên Giác Thánh giả đến kinh thành khất thực, trong thành có một nữ chủ nhân của một gia đình trưởng lão, khi nhìn thấy vị thánh nhân này, trong lòng bà vô cùng hoan hỷ và thành tâm cúng dường. Vị Duyên Giác Thánh giả này cảm ứng được tấm lòng thành của lão phu nhân, sau khi dùng cơm xong liền thị hiện thần thông, bay vào hư không, đồng thời trên người phát ra nước và lửa, lại có thể ngồi nằm trên không trung, lão phu nhân nhìn thấy tình trạng như vậy, liền phát nguyện: “Chỉ nguyện đời sau tôi sẽ tu hành đắc đạo, cũng có được công đức như vậy”. Lão phu nhân lúc đó chính là ta kiếp này, vì thành tâm cúng dường phát nguyện nên kiếp này mới có cơ duyên gặp được Đức Như Lai, tâm khai ý giải, chứng đắc quả vị A La Hán. Nhưng mặc dù ngày nay ta đã chứng đắc quả vị A La Hán, ta vẫn chịu hậu quả của những việc làm ác trong tiền kiếp của ta hàng ngày, như thể một cây kim sắt nóng hổi cắm từ đỉnh đầu ta rồi lại chui ra từ dưới chân ta, ngày ngày đêm đêm chịu đau đớn và dằn vặt như vậy, không có kết thúc, tai ương và phúc báo đều như vậy, đều là tự chuốc họa, tự chuốc lấy quả báo, trước khi nhận quả báo, những nghiệp chướng này sẽ không vô cớ mà hư hoại hoặc biến mất.” 

Lúc bấy giờ, năm trăm vị Tỳ kheo ni thuộc dòng giống quý tộc nghe được nhân duyên không thể nghĩ bàn như vậy, đều kinh hoàng, và quán sát sâu xa bản chất của dục, nó như ngọn lửa hừng hực đốt cháy mọi thứ. Đối với những khát khao dục vọng, họ cũng không hề nghĩ đến nữa, và họ cũng nhận ra rằng nỗi khổ tại gia còn tồi tệ hơn sự trói buộc của nhà tù, để loại bỏ các loại bụi bẩn và phiền não trong tâm trí, nhất định phải diệt sạch chúng. Các Tỳ kheo ni trong chốc lát đi vào tâm vị xác định của nguyện lực và chứng được đạo quả A La Hán. Rồi họ cùng nhau thú nhận với Tỳ kheo ni Vi Diệu rằng: “Vì chúng con đã dính mắc vào dục lạc từ lâu, không thể tự mình thoát ra khỏi ái dục, hôm nay chúng con may mắn được sự giảng giải từ bi của Tôn giả, để chúng con được thoát khỏi sinh tử của vô minh và đến được bến bờ giải thoát. 

Đức Phật biết được điều này, liền tán thán: “Những việc làm của Tỳ kheo ni Vi Diệu mới là những điều làm cho mọi người xứng tâm khoái ý (vừa lòng đẹp ý)! Là một người tu hành, vị ấy có thể dùng kinh nghiệm cá nhân của mình để phát lộ và bố thí pháp, rồi chuyển qua dạy dỗ người khác, những người có chí tu hành. Có thể nói là đệ tử chân chính của Phật!” Tất cả những người cầu pháp ở Kỳ Đà Tinh Xá nghe thấy sự kiện tốt đẹp này và lời khen ngợi của Đức Phật, đều hân hoan vui mừng, liền cung kính tín thụ phụng hành. 

Đó là để cho chúng ta biết rằng người Phật tử chúng ta đều có nghiệp chướng trong cả nghịch cảnh và thuận cảnh. Vì vậy, khi con người gặp khổ đau thì nên nghĩ rằng đó chắc chắn là do nghiệp chướng của đời trước, khi chúng ta được hưởng cũng là do bố thí của đời trước. Cho nên cần phải tiêu trừ nghiệp chướng, tiêu trừ nghiệp chướng mới có thể tăng phúc huệ, chỉ khi tăng phúc huệ thì quý vị mới có trợ duyên. Nếu một người quang minh chính trực, thì họ sẽ trong xanh như bầu trời, bất kể khó khăn hay gian khổ trên thế gian, họ đều có thể vượt qua chúng. Mong rằng qua câu chuyện này, Phật tử chúng ta có thể hiểu được rằng, một người chân tu phải biết nhân hiểu quả, có thể tiêu trừ nghiệp chướng, không nên chấp trước vào cái khổ của mình trong cõi đời này mà tạo nghiệt vô biên, và dẫn đến báo ứng vô tận. 

“Bạch Thoại Phật Pháp” hôm nay giảng cho đại chúng xin tạm dừng tại đây, cảm ơn đại chúng. 

Tập 29
KHÔNG QUÁN LÀ CĂN BẢN CỦA NGŨ UẨN GIAI KHÔNG

(01/04/2020)

Hôm nay sư phụ sẽ tiếp tục giảng về “Bạch Thoại Phật Pháp”  

Kỳ thực, cuộc đời của một người nên giải thoát, không nên cố chấp, bởi vì cố chấp sẽ khiến cuộc đời quý vị đi vào nhiều con đường sai lầm, và điều quan trọng nhất là nó sẽ bỏ lỡ thiện chung (tức là có được cái chết yên lành) và thiện duyên ban đầu của quý vị. Một người quá cố chấp, sẽ nhanh chóng tiêu diệt số phận của mình. 

Vốn dĩ người ta rất tốt với mình, nhưng cứ khăng khăng “Tôi nhất định phải làm như vậy”, bản thân quá cố chấp, thời gian lâu dần, Huệ mệnh của mình cũng bị chính bản thân mình giết chết. 

Một người thực sự có trí tuệ, thì mọi thứ đều phải nghĩ: “Tôi có sáu tên trộm trong tâm, và sáu tên trộm là cơ sở quan trọng và cơ bản nhất để hại tôi, bởi vì sáu tên trộm này sẽ làm mất đi Phật tánh của tôi.” Trong tâm mỗi người không nên chứa đựng quá nhiều tham lam và vật chất, vì nếu trong tâm mình còn quá nhiều tham lam và vật chất, thì nguồn gốc nghiệp chướng của quý vị sẽ bắt đầu. Rất nhiều người nói, tại sao tôi có nghiệp chướng, còn người khác thì không, thực ra nghiệp chướng là do quý vị đã tiếp nhận quá nhiều thứ từ ngoại trần (tức là trần thế bên ngoài)- như tình cảm, hận thù và đố kỵ người khác không thể buông bỏ v.v.. Kỳ thực, nghiệp chướng về cơ bản đều đến từ sáu tên trộm này. 

Làm thế nào để kiểm soát tốt sáu cánh cửa này trong tâm mình? Đừng để cho ý niệm mê đắm vật chất. Có nhiều thứ tốt đẹp trên thế gian này, “Tôi thích cái nhà này, cái xe này v.v..” Đừng nhiếp nhập lưu luyến quá nhiều những thứ vật chất, đó gọi là “ý không luyến vật”. Cái mũi không nên tùy tiện hít vào, có nghĩa là cái mũi của quý vị không nên tùy tiện ngửi những thứ không nên ngửi. Vừa ngửi thấy mùi thơm, nhiều lúc ngửi thấy mùi thơm của thịt nướng món ăn thôn quê dân dã mà quý vị nghĩ rằng là mùi thơm, và rồi ngay lập tức quên hết tất cả, cho nên “cái mũi không được tùy tiện ngửi”. Khẩu không được tham thực, miệng không được háu ăn. Bởi vì nhiều khi ăn một chút cũng không sao, nếu ăn quá nhiều thì quý vị sẽ càng tham ăn, rồi dần dần sẽ muốn đủ thứ, cái gì cũng không bỏ được, cái gì cũng ăn, càng ăn nhiều thì con người không thể kiểm soát được bản thân mình. Vì vậy, “bệnh từ miệng mà vào, họa từ miệng mà ra”, chính là ở cái miệng. Lục tặc giai không. Sau khi hiểu được những điều này một cách cơ bản, thì quý vị cần phải kiểm soát tốt sáu tên trộm trong tâm mình – mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý,  thì dần dần lục tặc giai không và ngũ uẩn tự minh (tức là lục tặc sẽ trống rỗng và năm uẩn sẽ rõ ràng). Trong “Tâm Kinh” có nói “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, làm sao để ngũ uẩn chiếu Không đây? Kỳ thực, ngũ uẩn cần tự mình hiểu rõ, “Bản thân tôi minh bạch và tôi đã hoàn toàn nhìn thấu, nhìn rõ chân tướng” thì quý vị chính là “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không” rồi. 

Thọ (thụ), tưởng, hành, thức (những cảm giác, tư duy tư tưởng, hành vi và ý thức) phải như gương kiến hình: Cảm thấy những thứ này giống như trong gương, chúng tồn tại khi chúng được soi thấy, và không thể tìm thấy chúng nếu không có gương. 

Cho nên xưa nay có người thường lấy gương để dạy rằng: lòng phải “sáng như gương”. Thật ra, nếu tâm quý vị soi thấy điều tốt thì trong tâm quý vị sẽ có điều tốt, nếu quý vị soi thấy điều ác thì trong tâm quý vị sẽ có điều ác. Quý vị bây giờ 

“Như gương kiến hình, ngũ uẩn tự minh” nghĩa là gì? Tâm quý vị phải giống như gương, soi qua rồi sẽ không còn nữa, cho đến khi quý vị nhìn vào gương lại, nó sẽ là một người khác, không phải quý vị nữa. Tư duy, thọ (thụ), tưởng, hành, thức của quý vị đều giống như mộng huyễn bào ảnh (mộng huyễn bọt bóng). 

Ngũ uẩn tự minh đó là nói về việc, làm sao để hiểu các uẩn của chính mình: Tinh Khí Thần phải lưu thông lên xuống, và tinh thần cá nhân phải tốt. Khí là một trường năng lượng rất quan trọng trong cuộc sống của một con người, nếu một người có khí – tức là năng lượng tích cực của chánh khí hạo nhiên, thì người này sẽ dám làm bất cứ điều gì. Khi có sức khỏe tốt, tâm trạng tốt và khi nhìn thấy một tương lai tươi sáng, quý vị sẽ rất hạnh phúc, bởi vì dòng hạo nhiên chánh khí này đang chảy khắp cơ thể quý vị, để quý vị có thể phát triển định tuệ. Bồ Tát bảo chúng ta tu tập định tuệ là ý nghĩa gì? Có nghĩa là chúng ta phải luôn bảo dưỡng, tu dưỡng cho tốt, và nổ lực trau dồi định tuệ của mình. Vì bất kì ai chỉ khi họ có được định rồi thì dần dần mới có tuệ, và khi tâm của một người đã định lại được thì họ nhất định sẽ có trí tuệ. Nhiều người không thể an định, tâm trí mỗi ngày không ổn định, thì họ lấy đâu ra trí tuệ đây? 

Tâm tĩnh như nước, thích đáng được giải thoát. Trong đạo Phật nói “Quý vị thích đáng được giải thoát”: nhất định quý vị sẽ được giải thoát, vì tâm của quý vị tĩnh lặng như nước. Sư phụ thường nói với mọi người rằng tại sao nước lại tốt như vậy, nước trong suốt và sạch sẽ không gì sánh được, vừa yên tĩnh vừa trong lành. Mong rằng ai học Phật cũng giữ được lòng thanh tịnh như nước. Người trong sạch thì dần sẽ trở nên trống rỗng trong chính bổn tánh của mình và trong Tánh Không. Người sống trong Tánh Không thì họ sẽ không có tạp niệm và rất trong sạch. Người học Phật thường nói, sao gọi là Tánh Không? Đó là bổn tánh phải trống rỗng, không có tạp niệm, không nghĩ ngợi nhiều. Nếu quý vị suy nghĩ quá nhiều, tự chuốc lấy nhiều phiền não cho bản thân mình, cái gì cũng nghĩ không thông thì bổn tánh sẽ không trống rỗng. Khi ở trong Tánh Không thì quý vị sẽ dần dần định lại được, cuối cùng thậm chí đến cảnh giới cũng không có nữa, thì quý vị lấy đâu ra danh tướng? Quý vị lấy đâu ra nhiều tạp niệm và danh tướng ở chốn nhân gian? Danh tướng đều không trụ nữa, cuối cùng đến tịch diệt cũng không có nữa, diệt độ cũng không cần, trong tâm hoàn toàn giải thoát, và cảnh giới trong nội tâm của quý vị cũng trở thành “Diệc phi cảnh giới” – nó không còn là cảnh giới nữa. Bản thân quý vị có cảnh giới này rồi thì còn cần phải giải thích với người khác rằng: “Tôi có cảnh giới này” không? Hay “Tôi không có cảnh giới này” không? Lấy ví dụ đơn giản: khi người khác tranh cãi, quý vị ở bên cạnh không tranh cãi với họ, thì quý vị có cần phải giải thích với mọi người rằng: “Bạn thấy đấy, tôi không tranh cãi với các bạn, các bạn đang tranh cãi, tôi không tham gia”? Đã hoàn toàn bước vào cảnh giới này, nên không có sự tịch diệt nữa, danh tướng cũng không trụ nữa, không trụ tướng nữa. Quý vị nói “Hôm nay tôi đang hoằng pháp”, vậy thì “tôi” đang hoằng pháp, cái “tôi” này vẫn còn trụ tướng, nếu hôm nay tôi đã không trụ tướng khi hoằng pháp – tôi nói rồi, là tôi đang hoằng pháp, nhưng tôi không cảm thấy rằng tôi đang hoằng pháp, mà tôi đã và đang hoằng pháp rồi.

 

Vì vậy, cần phải Không Quán ra sự vô thường của thế gian. Không Quán nghĩa là gì? Có thể nhìn thấy nhân gian là vô thường. Còn sĩ diện gì nữa? Vạn vật ở trên đời:

“Như mộng, huyễn, bào, ảnh.

Như lộ diệc như điện.

Ưng tác như thị quán.”

Dịch nghĩa:

Như mộng, huyễn, bọt, bóng.

Như sương, như chớp loé.

Hãy quán chiếu như thế.

Đó là những điều rất đơn giản ở thế gian, quý vị phải thấy rằng sử dụng Tánh Không để Không Quán ra sự vô thường của thế gian. Trên đời này có cái gì là trường tồn không? Sĩ diện của chúng ta thuở nhỏ giờ đã mất rồi; khi chúng ta xã giao với người khác, lúc đó cảm thấy xấu hổ, cảm thấy điều đó rất khó chịu, một thời gian sau cũng quên mất, đã hết rồi. Sau khi Không Quán, thì mọi thứ trên thế gian đều vô thường, và chỉ khi đó quý vị mới có được sự thể ngộ đích thực của: “Nhân sinh như mộng, huyễn, bào, ảnh”. Tại sao “Kinh Kim Cang” lại nói “Như mộng, huyễn, bào, ảnh”? Một cái bong bóng, được ánh sáng soi rọi giống như một cái bóng, giống như mộng, huyễn, bọt, bóng, không có gì cả. Một người thực sự có thể nhận ra Phật tánh thì giống như Tế Công Hoạt Phật ở nhân gian, Ngài đi khắp nơi một cách ung dung tự tại và xem mọi thứ trên thế gian là trống rỗng. Ngài có phiền não gì? Con người chúng ta thật đáng thương biết bao, nhìn thấy là phiền, nhìn nét mặt này là biểu thị tướng khổ. Làm gì cũng phải học cách buông bỏ. Thử nghĩ xem, chính vì con người luôn nghĩ không thông, phiền não và cái sĩ diện này của mình, cuộc sống giống như mộng, huyễn, bọt, bóng, quý vị vẫn chìm đắm trong đó không thoát ra được, thì làm sao quý vị tìm ra được chân lý đây! Đạo Phật nói thế gian đích thực chính là khổ – không – vô thường, vạn vật sẽ thay đổi, tại sao quý vị cứ khăng khăng cho rằng nó sẽ không thay đổi khi nó chưa thay đổi? Nó nhất định sẽ thay đổi. 

 

Sư phụ nói với mọi người rằng xuất ly tâm của một người tu hành là rất quan trọng và phải kiên định. Hôm nay tu xuất ly tâm, đừng quan tâm đến mọi thứ trên đời, cái gì cũng buông bỏ được, đừng vì vài lời nói, cho dù có bị người khác phỉ báng bao nhiêu, đố kị bao nhiêu đi chăng nữa, thì mọi thứ như như bất động, tự nhiên sẽ có được đạo tâm vững vàng, và sẽ có được xuất ly tâm của một người tu hành. “Tôi không muốn dây dưa với người khác lâu dài trong nhân gian. Tôi chỉ có một cuộc đời ngắn ngủi ở cõi người. Tôi muốn tìm chân lý, để tìm đường về trời, để tìm một con đường làm thế nào trở thành Bồ Tát và cứu độ chúng sinh.” Dụng tâm như vậy thì mới có được tấm lòng rộng lớn, không quan tâm đến bất cứ điều gì, điều gì cũng buông bỏ được, thì tấm lòng tự nhiên sẽ rộng lớn bao la. Nhiều người không hiểu, thường nói: “Sao lòng dạ mình hẹp hòi quá?” Vì quý vị chưa hiểu chân lý là gì, nên phải hiểu được chân lý này, phải có tầm nhìn rộng, phải nhìn thấy tương lai. Chút lợi ích trước mắt đó, chút danh lợi trước mắt đó và chút sĩ diện trước mắt đó có thể gây ra biết bao tổn hại cho quý vị, điều đó chứng tỏ tâm quý vị rộng lớn đến nhường nào. Nếu điều đó không làm tổn thương quý vị, có nghĩa là tâm của quý vị bao la như biển cả; nếu chỉ một việc nhỏ, một lời nói hay hành động làm tổn thương quý vị, điều đó có nghĩa là tâm của quý vị chưa đủ rộng lớn. 

Vì vậy, nhân sinh quan phải thay đổi. Nhân sinh, rốt cuộc phải nhìn nhận nó như thế nào, “Quan” có nghĩa là nhìn. Chúng ta phải làm thế nào để “nhìn nhân sinh” đó chính là “nhân sinh quan”. Nhân sinh quan cần thay đổi nó và nhìn thấu suốt, hết thảy đều là vô thường. Tại sao chúng ta không nhìn thấu nó? Đừng để bị mắc kẹt và kiệt sức ở chốn Hồng trần rộng lớn. Đời người, vì sĩ diện, danh lợi, chấp tướng mà “Tôi nhất định phải” “Vì câu nói này làm tôi mất đi sĩ diện, làm tôi mất mặt trước bao nhiêu người” “Tôi là một người học Phật lâu năm”…có không! Tất cả điều này giống như mộng huyễn bọt bóng. Hãy nhớ rằng, mọi thứ đều trôi qua và mọi thứ đều vô thường. Sau một giờ, có thể quý vị đã sớm nghĩ thông rồi, nếu trong một tháng quý vị vẫn nghĩ không thông, điều đó có nghĩa là quý vị vô cùng cố chấp. Vì vậy, đừng để bị kiệt sức hay bị mắc kẹt bởi ngũ trọc ác thế trong chốn Hồng trần cuồn cuộn. Tất cả được mất của danh lợi đều phải xem nhẹ và loại bỏ, danh gì, lợi gì, được gì, mất gì… chúng ta nhận được bao nhiêu, thì cuối cùng đều sẽ mất tất cả. 

 

Có rất nhiều, rất nhiều thứ chúng ta có được đó nhưng rồi cũng mất đi. Danh và lợi đều sẽ ra đi: Lợi, ví dụ như có tiền, có nhà, có xe cộ cũng sẽ dần dần mất đi; Danh, nếu hôm nay quý vị là chủ tịch, là chủ tịch hội đồng quản trị hay ông chủ, một khi bầu cử lại, thì quý vị sẽ mất nó. Vì vậy, mọi thứ nên xem nhẹ nó. Giống như chúng ta ăn, nhạt thì ăn được, mặn quá thì không ăn được. Tranh chấp và phiền não trên thế gian là quá nhãn vân yên (phù du). Nhân gian làm gì có tranh chấp và phiền não? Khi chúng ta còn nhỏ, nhiều đồng môn cãi nhau, nhiều bạn nhỏ khi gặp nhau là thích tranh cãi, bây giờ nghĩ lại chúng ta thật nực cười. Sau khi học Phật, chúng ta nhận ra rằng tất cả những điều này không đáng để giữ trong lòng và không nên tranh cãi vào thời điểm đó, chúng ta cảm thấy rất xấu hổ khi nói về những điều vô nghĩa như vậy. Tất nhiên, không thể nói con người vừa sinh ra là đã giác ngộ, còn phải trải qua một quá trình. 

Phẩm chất tu hành rất quan trọng, và sự tu hành của một người đều có phẩm chất. 

Người này có tu hành, chất lượng có tốt hay không, phẩm hạnh có đoan chính hay không? Nếu người này có phẩm hạnh tốt, nghiêm túc tụng kinh thì gọi là “tinh tấn”, phẩm chất tu hành của người này sẽ tốt; nếu như người này trì tụng kinh đại khái qua loa, tùy tiện trì tụng kinh, hữu khẩu vô tâm (trên miệng có nhưng trong tâm không có) mà trì tụng kinh như vậy, thì chất lượng trì tụng kinh của người đó có tốt không? Ở nhà đọc kinh, ở nhà thắp hương, sau đó ra ngoài làm việc theo ý mình, làm theo ý mình như cũ, ở nhà là tu tâm theo ở nhà, có cách tu tâm ở nhà, đến cơ quan hay ra ngoài vẫn làm theo cách của mình, thì chất lượng tu tâm của loại người này sẽ xuống thấp, nên không có cách nào tiếp cận được Bồ-đề. Thì làm sao quý vị có thể tiếp cận được Bồ-đề đây? 

Tập 30
KHÔNG QUÁN VÀ CỬU THỨC HỢP NHẤT

(01/04/2020)

Hy vọng mọi người sẽ hiểu và học được Tánh Không của đạo Phật, trong Tánh Không cũng bao hàm cả từ bi, bởi vì chỉ những người có lòng từ bi mới có được trí tuệ. Người không biết mở lòng từ bi với người khác, người không thể tha thứ cho người khác, người ngày ngày sống trong “tự ngã” của mình, thì họ lấy đâu ra trí tuệ? Trí tuệ đến từ đâu? Từ bi không phải “Trống rỗng”: Khi làm một việc gì nếu chúng ta biết từ bi với người khác, trong lòng biết ơn người khác, cảm thấy người này rất đáng thương, cảm thấy mình nên giúp đỡ họ, cảm thấy mình nên từ bi với họ, thì trong lòng quý vị là đã “Có”. Quý vị có lòng từ bi, nhưng sự từ bi này nằm trong bổn tánh của quý vị, và có thể được coi là Tánh Không, bởi vì trong thức thứ chín của quý vị, trong thức Amala, vốn đã có loại Phật Tánh từ bi đó. Có được sự từ bi thì làm sao không có được trí tuệ? Quý vị đã vận dụng đại từ đại bi của Bồ Tát thì đại trí đại tuệ của quý vị sẽ được bắt đầu. Nhiều người nghĩ: Trong lòng tôi không phải đã “Có” được sự từ bi rồi sao? Chẳng lẽ không có được Tánh Không sao? Đúng rồi, vì từ bi có thể hoà hợp với Phật Tánh của thức thứ chín Amala trong nội tâm quý vị, khiến quý vị không thể tìm thấy được từ bi. Kỳ thực trong Tánh Không của quý vị đã có sẵn yếu tố từ bi trong đó rồi, nên quý vị không cần nghĩ “tôi phải từ bi” rồi cho nó vào thức thứ tám. Đối với nhà Phật mà nói, đây là lý do tại sao “Không” và “Có” lại giống nhau. Quý vị là người tốt, quý vị từ nhỏ đã là người tốt, ngay từ đầu quý vị đã là người tốt, cho nên điều quý vị làm nhất định phải là người tốt làm việc tốt, việc tốt nhất định phải do người tốt làm, đúng không? Quý vị nói: “Tôi đã làm việc tốt, mỗi một chuyện tôi làm được tôi đều không có cảm giác gì, tôi chỉ đang làm việc tốt mà thôi.” Quý vị nghĩ xem nó có trống rỗng không? Vì quý vị là người tốt, nên quý vị làm điều tốt, đây chính là trống rỗng. Nhưng quý vị có làm điều tốt không? Có. Vậy “Có” và “Vô” chẳng phải là một sao? Cho nên nhiều người không hiểu tại sao đạo Phật thường nói về Không Vô, và tại sao nói Không trong khi rõ ràng là Có, đây chính là đạo lý. 

Khai ngộ và không khai ngộ cũng là Không Vô. Quý vị có thể nói rằng người này khai ngộ rồi và người kia chưa khai ngộ, Sư phụ coi tất cả quý vị đều là chúng sinh khai ngộ và chúng sinh có duyên, bởi vì Đức Phật đã nói rằng “tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”. Vì quý vị có Phật tánh, nên một ngày nào đó quý vị sẽ khai ngộ, chỉ là bây giờ quý vị chưa khai ngộ; hiện tại quý vị chưa khai ngộ, sao có thể nói mình không khai ngộ? Một đứa trẻ, nó có phải là con người không, nó cũng là một con người, và khi lớn lên, nó trở thành người lớn. Ngày nay mỗi chúng sinh đều có ngộ tánh và đều có tấm lòng từ bi của Phật. Vì vậy, khai ngộ cũng là Không Vô, một khi khai ngộ, khi quý vị minh bạch và hiểu rõ tất cả, thì quý vị sẽ cảm thấy mình hoàn toàn dung hợp với chính mình, tức là Phật và con người chúng ta, thiên và nhân, trời, đất và người đều hòa hợp với nhau, theo cách này quý vị sẽ dần dần thực sự hiểu ra mọi thứ. Thực sự hiểu là đã xem như trống rỗng, Không và Có đều là trống rỗng. Tại sao sau khi học Phật nhiều người lại rơi vào tình trạng “vô sở vị”? {sao cũng được}Tôi trống rỗng rồi, tôi sao cũng được, học tốt cũng được, học không tốt cũng không sao, dù sao cuối cùng cũng là trống rỗng, sau khi ngộ thì cái gì cũng sẽ trống rỗng. “Trống rỗng” không? Không trống rỗng! Cái nền tảng mà khiến quý vị trống rỗng vẫn ở đó, vốn dĩ nền tảng của sự trống rỗng chính là Phật tánh luôn hiện hữu của quý vị.

Làm sao để bản thân trở nên Không Tánh đây? Hôm nay Sư phụ sẽ nói cho quý vị về Tín căn, Tín căn là điều mà chúng ta thường nói, tất cả công đức đều từ Tín mà ra. Mỗi ngày phải làm công đức, quý vị không tin là mình sẽ có công đức sao? Tất cả công đức đều do Tín, quý vị phải tin tưởng, nếu hôm nay quý vị không tin tưởng, cho dù có bố thí, cùng lắm cũng chỉ là thiện. Bố thí nhiều thì đại thiện, bố thí ít thì tiểu thiện. Ai cũng có thể làm việc thiện, chúng sanh đều làm việc thiện, nhưng vấn đề là quý vị đã khai ngộ chưa, quý vị phải tin tưởng Bồ Tát. Hôm nay quý vị chỉ có thiện, khi chuyển kiếp liền đem toàn bộ những phước báo này báo đền hết cho quý vị rồi. Quý vị đã hành thiện rất chăm chỉ trong kiếp này, và tất cả phước báo sẽ được đền đáp cho quý vị ở kiếp sau, quý vị có thể trở thành một người giàu có hoặc một người có địa vị cao, bởi vì quý vị đã thành công trong việc làm việc thiện ở kiếp trước. Thế đấy, chúng ta ngày nay đã khác, chúng ta tin tưởng, chúng ta có Tín căn – chính là gốc rễ của Phật tánh của mỗi người chúng ta. Bởi vì chúng ta tin vào Phật, tin vào Bồ Tát, tin vào Quán Thế Âm Bồ Tát, cho nên chúng ta tin rằng tất cả những gì Bồ Tát làm có thể ngay lập tức chuyển hóa thành cánh đồng học Phật (học Phật điền) của Quán Thế Âm Bồ Tát. Mọi người hãy nhớ rằng, trong tâm luôn có một mảnh ruộng tên là mảnh ruộng thức thứ tám và mảnh ruộng thức thứ chín, cả hai đều cùng chung một thửa. Rốt cuộc là quý vị muốn trồng gì ở trong mảnh ruộng này, quý vị gieo thiện ắt gặp thiện, gieo ác ắt gặp ác. Cho nên quý vị phải tin những điều này, thì sau này mới có thể hành Bồ Tát đạo và trở thành Bồ Tát, quý vị mới có thể hành Phật đạo và trở thành Phật. Vì vậy, Tín căn rất quan trọng, và chúng ta phải tin cho đến cùng. Nhiều người cả đời cũng chưa từng tin đến cùng, theo sư phụ học mấy năm, “Ai da, cũng vậy thôi, chỉ cần niệm niệm kinh, tu tu tâm” – không được, phải tin, phải có niềm tin triệt để, phải có niềm tin trọn vẹn. Vì có niềm tin này nên Phật mới có thể tác thành quý vị, vì có niềm tin này nên quý vị sẽ phát ra một loại năng lực tinh tấn, sau khi phát ra năng lực tinh tấn thì quý vị sẽ phát ra Phật lực.

Nhiều người thường hỏi Sư phụ Phật lực là gì? Phật lực chính là pháp lực. Thầy hỏi các con, Phật Pháp có sức mạnh không? Pháp lực vô biên đúng không? Ví dụ như rất nhiều người đang đùa giỡn, đột nhiên có pháp sư tới, người đó không nói lời nào, khi pháp sư đứng bên cạnh họ, họ có còn dám tiếp tục kể những câu chuyện dở khóc dở cười nữa không? Khi pháp lực đến, thậm chí pháp sư không nói một lời, họ có dám kể những câu chuyện cười khó nghe đó trước mặt pháp sư không? Đây chính là pháp, và sự trang nghiêm là pháp. Có khả năng có được năng lực tinh tấn sẽ sinh ra pháp lực và Phật lực.

Chúng ta phải học cách suy nghĩ Trung quán khi giải quyết những sự vật của con người. Trung quán có nghĩa là không làm cho mọi thứ trên thế gian trở nên trống rỗng. Đài trưởng đã từng nghe một câu chuyện cười về đôi nam nữ, nam thanh niên rất tằn tiện và cực kỳ keo kiệt, có tìm hiểu một chút về đạo Phật, cô bạn gái nói với cậu ta: “Cưới nhau đi, em muốn mua cái này mua cái kia.” Cậu ta nói: Đạo Phật nói mọi thứ đều trống rỗng, mua làm gì? Mua những đồ gia dụng cơ bản là được rồi, không cần mua thêm bất cứ thứ gì khác.”Cậu ta lấy điều này làm cái cớ cho sự Không Tánh, điều đó hoàn toàn sai lệch”. “ Sao cũng được, một khi con người đã nghĩ thông thì hết thảy đều là trống rỗng” vậy quý vị sinh ra để làm gì? Quý vị nói “sinh ra dù sao vẫn phải chết”, vậy thì quý vị sinh ra để làm gì? Đây gọi là lệch về Không. Trung Quán có nghĩa là đừng lệch về Không, cũng đừng lệch về Có, ở giữa Có và Không, tức là không thiên vị về bên nào. Cho nên Sư Phụ thường nói với quý vị rằng đồng hồ dù tốt đến mấy, nếu nó không chính xác mỗi ngày, có lúc chậm, có lúc nhanh, thì quý vị có thể cho nó là đồng hồ tốt không? Một người học Phật nếu trong lòng luôn có sự sai lệch, lúc thì Không, lúc thì Có, cả hai điều này sẽ khiến cho người đó hoàn toàn sai lệch.

Thiểu dục tri túc, đừng nên có tham muốn, nhưng điều đó không có nghĩa là hoàn toàn trống rỗng. Nhiều Phật tử thường nói: “Con cầu xin Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ độ trì cho gia đình con, đây có được coi là tham lam không?”. Cầu phúc cho gia đình, cũng là vì muốn cho gia đình tốt đẹp hơn, sống tốt hơn, có liên quan gì đến bản thân quý vị không? Bởi vì bản thân quý vị là người học Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát đến nhân gian là để cứu độ chúng sinh, quý vị xin Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ độ trì cho gia đình và người thân của mình, đây là một loại tiến bộ. Vì quý vị biết cầu nguyện Bồ Tát, vì quý vị biết dùng tâm từ bi của mình để giúp đỡ người khác, đó chẳng phải là tinh tấn sao? Người thiên lệch sẽ nói rằng ngay cả việc cầu xin cho mình cũng là dục vọng. Thực ra Bồ Tát đến cứu độ chúng ta, chẳng qua là bảo chúng ta buông cái tâm đã từng cầu xin xuống, để sau khi cầu xin rồi thì không còn dính mắc trong tâm nữa. Cần phải trút bỏ những suy nghĩ của mình, nhìn kỹ vào trong tâm của mình, kiểm tra lại nội tâm của mình và quan sát chính mình. Quan sát chính mình là “Quán tự”, Phật tánh trong tâm mình có hay không. Cuối cùng, thân và tâm của quý vị phải trống rỗng, đầu tiên là Có, và sau đó mọi thứ đều trống rỗng, đó chính là kiểm chứng chân lý – khổ, không, vô thường.

Sư phụ bảo quý vị khi gặp phải bất cứ điều gì, quý vị không nên nghĩ đến nó. Không nghĩ thì thân quý vị mới không có cảm giác. Nếu quý vị nghĩ thì thân quý vị sẽ có cảm giác, ý niệm của quý vị sẽ sinh ra tạp niệm. Nhân gian rất nhiều chuyện là do tâm quý vị biến hóa nên quý vị mới cố chấp, nếu tâm quý vị không biến hóa thì sự cố chấp của quý vị ở đâu ra? Người không có cảm giác, mới không có suy nghĩ xấu, đó chính là trống rỗng. Nếu quý vị dùng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý để cảm nhận mọi việc trên thế gian, điều này đúng, điều kia sai, điều này nên làm thế này, điều kia nên làm thế nọ, thì làm sao tâm quý vị có thể trống rỗng được đây? Quý vị chỉ có thể nghĩ về tất cả những điều mà quý vị nghe và thấy như một loại hư không, hư ảo, không thực tại, một điều khiến quý vị cảm thấy và cảm nhận, nó sẽ nhanh chóng biến mất. Khi còn nhỏ, nhiều đứa trẻ thổi bong bóng xà phòng, khi chúng thổi một cái, nó rực rỡ sắc màu dưới ánh đèn và ánh mặt trời, những quả bóng thật đẹp, thật to, bồng bềnh và lơ lửng, đôi mắt của các bạn nhỏ luôn dõi theo chúng, cuối cùng trong phút chốc biến mất, ”Ôi chao! … Tôi muốn quả bóng nhiều màu sắc này.” Tức là quý vị đang cố tìm chân lý trong ảo ảnh – không có đâu. Nói cho quý vị biết, chân lý đó là vô thường. Phải hiểu được Không, thì quý vị mới chính là người không tham muốn, là người không tham muốn, thì tâm quý vị mới có thể như nước. Vì vậy Không Tánh vô cùng quan trọng đối với con người.

Đôi khi, khi chúng ta dễ bị tổn thương, khi chúng ta chán nản, sẽ bị lây nhiễm cảm giác cô đơn và lo lắng. Bởi vì trầm cảm, cô đơn và lo lắng đều là anh em với nhau, chúng là nan huynh nan đệ. Vì vậy, chỉ cần quý vị bị trầm cảm, thì sự cô đơn sẽ đồng hành cùng quý vị, sự lo lắng, phiền muộn và rối loạn ám ảnh cưỡng chế sẽ đồng loạt tìm đến quý vị. Nếu quý vị mất việc, tiếp theo đó sẽ từ chối gặp gỡ mọi người và cảm thấy xấu hổ. Nếu quý vị không có tiền, sẽ cảm thấy “Tôi không muốn tin những người bên ngoài”, quý vị bị người khác lừa, cảm thấy bị bẽ mặt; Trong chuyện tình cảm quý vị bị người khác ruồng bỏ, quý vị cảm thấy xấu hổ. Tất cả những điều này đều là cảnh giới của năng lượng tiêu cực, chúng luôn đi theo sau con người. Bồ Tát dạy chúng ta cách từ chối tiếp nhận năng lượng tiêu cực của bản thân, đó là nhìn thế giới luôn tiến về phía trước. Quý vị mất đi hạnh phúc hôm nay thì có hạnh phúc của ngày mai, quý vị mất đi hạnh phúc hôm nay chưa chắc ngày mai quý vị đã khổ. Đây chính là trí tuệ. Vì sao có người lúc nào cũng tươi cười vui vẻ, lúc nào cũng hạnh phúc? Bởi vì họ có thể nhìn thấy tương lai.

Sư phụ hy vọng rằng mọi người không chỉ khắc phục được năng lượng tiêu cực trong nội tâm, mà còn ngăn chặn việc tiếp nhận năng lượng tiêu cực từ người khác. Bởi vì rất nhiều người nhìn thấy quý vị liền khóc, nhìn thấy quý vị liền khó chịu, nhìn thấy quý vị liền nghĩ không thông, nội tâm của quý vị sẽ càng ngày càng thu nhỏ lại. Phải làm cho trái tim của mình mạnh mẽ hơn một chút, làm cho trái tim của mình bao dung rộng lượng hơn thì quý vị mới có thể chống lại sự lây nhiễm của cảm xúc đối với bản thân. Vừa nhận ra mình không vui, liền lập tức nghĩ đến điều gì đó tích cực, khi nói chuyện với người khác liền bị người khác lây nhiễm khiến cho tâm trạng cảm thấy khó chịu, lập tức vận dụng năng lượng mạnh mẽ trong tâm —— “Chúng ta có Bồ Tát phù hộ, tôi là người học Phật”, v.v., để chống lại những ảnh hưởng tiêu cực đến bản thân. Kể cả những vấn đề quý vị gặp phải trong cuộc sống, gia đình, hôn nhân gặp trục trặc, những tự ái tạm thời, những đố kỵ tạm thời và những hận thù tạm thời đó đều sẽ biến mất vì năng lượng tích cực đó khiến quý vị thấy thoải mái và giảm bớt căng thẳng. Đây là cách chúng ta nên điều chỉnh cảm xúc của mình.

Phật pháp do Đức Phật vĩ đại giảng dạy cách đây 2500 năm, là liều thuốc tốt giải tỏa những ưu tư phiền não trong lòng con người của thời kì Mạt Pháp. Buông xả, giải thoát là liều thuốc hay. Quá khứ không có được, hiện tại không có được, vị lai không có được, chính là liều thuốc tốt nhất của chúng ta. Đôi khi không nên quá cố chấp vào những điều mà bản thân mình đã làm sai, cũng không nên quá cố chấp vào những thứ mình sở hữu và những điều mình làm tốt, có như thế quý vị mới có thể khiến nội tâm của mình trở nên kiên cường hơn.

Lên đầu trang