Bạch Thoại Phật Pháp – Quyển 3
<Bộ 12 Quyển>

(白话佛法 )

Tự (Lời Tựa)

TỰ (LỜI TỰA)

Các bài viết trong “Bạch Thoại Phật Pháp” đều là của sư phụ Lư Quân Hoành của chúng ta, sau khi thuyết giảng và khai thị cho đệ tử ở Quán Âm Đường của Đài phát thanh Đông Phương Hoa Ngữ ở Úc, dựa theo ghi âm và văn bản để sắp xếp. Sư phụ dùng ngôn ngữ đời thường để giảng giải Phật pháp cao thâm, vừa giải thích qua triết lý nhân sinh, vừa dùng những ví dụ rõ ràng từ cuộc sống hàng ngày. Qua Bạch Thoại Phật pháp, chúng ta có thể lĩnh hội những cao cấp và thâm sâu của Phật học. Sư phụ dùng trí huệ linh hoạt và phương pháp dễ hiểu, hướng dẫn chúng đệ tử phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, giải thoát rốt ráo.

Sư phụ dạy chúng ta cách học Phật, cách tu tâm, cách tu hành, cách buông bỏ những tập khí vô minh nơi bản thân, và tại sao phải trì giới thủ pháp, v.v. Mục đích là để khai mở Phật tánh trong mỗi chúng sinh, phát triển trí huệ của chúng ta, nâng cao giác ngộ, tu sửa những hành vi sai lầm, thay đổi vận mệnh của chúng ta, và làm cho thế giới tràn ngập tình yêu từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát. 

Sư phụ còn dạy chúng đệ tử cách áp dụng lý luận Phật pháp vào cuộc sống hàng ngày để giải quyết các vấn đề cần đối diện như về sinh hoạt, học tập, sức khỏe, công việc của chính mình, v.v. Cách sử dụng từ bi và trí huệ của chư Phật, chư Bồ Tát để khiến cho chúng ta ở trong xã hội hiện đại tiêu tai cát tường, cuộc sống thanh tịnh an vui. 

Những bài viết trong quyển “Bạch Thoại Phật Pháp”, Sư phụ đều đã vận dụng trí huệ viên dung (một cách trọn vẹn) của Bồ Tát, dùng ngôn ngữ dễ hiểu rõ ràng, để diễn giải sâu sắc về định luật nhân quả trong nhân gian. Sau khi được công bố, những bài giảng này đã giúp hàng vạn chúng sinh hữu duyên như bừng tỉnh, phát khởi tín tâm học Phật, tu tâm, hành trì, cải mệnh, và nhận được sự đón nhận nồng nhiệt từ mọi tầng lớp trên thế giới. Với mong muốn giúp nhiều người hữu duyên thọ nhận lợi ích từ giáo pháp, bộ sách này đã được chỉnh lý, tái bản và phát hành miễn phí để quảng kết thiện duyên cùng chúng sinh. 

Tháng 12 năm 2011 
Sydney

1. DÙNG TÂM BÌNH ĐẲNG, TÍCH PHÚC ĐIỀN, GIEO NHÂN QUẢ

Về vấn đề về ngày tận thế: Ngày tận thế là một đại kiếp nạn, đại kiếp nạn này chắc chắn sẽ xảy ra. Khi nào nó xảy ra? Không ai biết được. Bởi vì kiếp khí vẫn chưa hình thành. Điều này cho thấy vẫn còn rất nhiều người đang làm người tốt, làm việc tốt, làm việc thiện, đang tu tâm, niệm Kinh và đang cứu người. Trước đây đã có nhiều dự đoán rằng ngày tận thế sẽ là năm 2000, hiện tại đã là năm 2010 rồi, ít nhất đã bị hoãn lại 10 năm. Sư phụ từng nói với quý vị rằng, đại kiếp là đại tai nạn, còn tiểu kiếp là tiểu tai nạn. Tiểu tai nạn đối với một người mà nói, chỉ cần họ chết ở nơi này, hoặc bị thảm hoạ tàn phá rồi, đối với họ mà nói đó chính là ngày tận thế. Ví dụ, một chiếc máy bay sắp rơi, đối với hành khách trên máy bay thì đó chính là ngày tận thế. Chúng ta nhất định phải cố gắng nổ lực tu tâm, để khi kiếp nạn đến, mong rằng những người tốt như chúng ta đều có thể sống sót. Những người ra đi trong kiếp nạn, về cơ bản không phải là người rất tốt hoặc người có tu hành. Ví dụ: trong một trận động đất, có một số thiệt mạng là người tốt, những người này nhiều nhất chỉ là oan hồn, chứ không thể tính là người tốt, bởi vì người tốt tuyệt đối sẽ không chết trong kiếp nạn. Ví dụ, trong một trận động đất, khi đó có hơn 20 đứa trẻ khi đó không đi học, và chúng đã thoát được một kiếp nạn rồi. Máy bay gặp nạn, nhưng vẫn có một đứa trẻ sống sót, điều này nói lên điều gì? Cũng có người vì đột nhiên sức khỏe không tốt nên không lên được máy bay, kết quả là máy bay gặp nạn rồi. Những người như vậy có được coi là người tốt không? Đây chính là người có phúc khí. Đại phúc, đại lượng, đại công đức. Sư phụ cũng không khuyên quý vị, quý vị hãy tận năng lực của chính mình làm thật tốt, nếu khi thời điểm tai kiếp đến rồi, Đại chúng hãy hảo tự vi chi. Sư phụ không dọa quý vị, ngay cả khi quý vị đang ở bên cạnh sư phụ, sư phụ cũng chưa chắc cứu được quý vị. Khi tai kiếp ập đến, chỉ có thể dựa vào công lực và công đức của chính mình. Lúc đó, người mà Bồ Tát cứu là những ai có thể cứu được, còn những ai không thể cứu họ sẽ rời đi, bất kể là nam nữ hay già trẻ. Quý vị hãy nhìn lại những việc mình đã làm, xem chính mình có tu hành, tu tâm hay không, tu đến trình độ nào, vẫn còn đang cầu xin điều gì, quý vị liền minh bạch rồi. Nếu quý vị quỳ ở đây, vẫn đang dốc sức cầu xin cho gia đình mình được bình an, hoặc cầu xin bản thân kiếm được tiền, công việc thuận lợi, phát tài…, thì đó chính là đang tu theo Phật pháp Tiểu thừa ở nhân gian. Đợi một chút sư phụ sẽ nói cụ thể về những vấn đề này, bây giờ chỉ là phần mở đầu.

Sư phụ trước tiên sẽ nói với quý vị về câu “Đa dục vi khổ”. Dục vọng càng nhiều, quý vị sẽ càng khổ. Hôm nay tôi muốn cái này, nhưng không đạt được; ngày mai tôi muốn cái kia, lại cũng không đạt được. Ví dụ, dục vọng của sư phụ là gì? Sư phụ muốn cứu nhiều người hơn, nhưng không cứu được, sư phụ sẽ cảm thấy rất buồn. Còn dục vọng của quý vị là gì? Đơn vị làm việc tốt một chút, đừng bị “sa thải”. Thực tế, sau khi có dục vọng này, quý vị người sẽ cảm giác được khổ rồi. Nếu một người có thể buông bỏ dục vọng, họ sẽ không khổ như thế nữa. Nhân sinh có thể được gọi là “sinh tử bì lao”, nghĩa là sống cũng mệt mỏi, chết cũng mệt mỏi. Khoảnh khắc quý vị lìa đời là vô cùng thống khổ, rất buồn bã. Khi một người sắp chết, họ cảm thấy cả đời mình đã kết thúc rồi, rất mệt mỏi rồi. Trong rất nhiều tiểu thuyết và phim điện ảnh đều miêu tả như vậy, cuối cùng, một người khi nằm trên giường và nói: “Tôi ở nhân gian đã quá mệt mỏi rồi, tôi muốn ra đi rồi”.

Mặt khác, “thiểu dục vô vi”. Ý muốn nói rằng một người cần ít dục vọng một chút, buông bỏ ý niệm về thành tựu hay danh vọng, khi không còn chấp trước vào điều gì, như vậy thân tâm sẽ được tự tại. Quý vị người không nên hàng ngày bị quấy nhiễu bởi những chuyện vụn vặt, gọi là “tâm vô yếm túc” (tâm không biết đủ). Nghĩa là tâm của quý vị người vĩnh viễn không biết thoả mãn, cũng vĩnh viễn không biết chán ghét sự thoả mãn của bản thân. Quý vị có chán ghét một thứ gì đó mà quý vị đạt được không? Hãy nhìn xem, một người làm Kinh doanh, khi hàng hóa đến ồ ạt, họ vẫn cố gắng làm việc không ngừng, nhưng khi không có hàng, họ lại bắt đầu cầu xin mỗi ngày ––”duy đắc đa cầu”. Những người cầu xin quá nhiều cho việc riêng tư sẽ tự làm tăng thêm tội lỗi của mình. Khi một người bắt đầu cầu xin cho việc riêng, trong tâm của họ sẽ sinh ra tội lỗi, và tội lỗi này chính là “tham”. Một khi một người có tâm tham và tâm sân hận, họ có thể làm bất cứ điều gì. Đại chúng cần tôn sư trọng đạo, tôn kính sư phụ, coi trọng Pháp môn, và nhất định phải tu luyện thật tốt.

Quý vị có biết công đức của một người đến từ đâu không? Ví dụ: Chỉ cần đăng một bài viết trên blog của sư phụ, có người nhấp vào xem, người viết bài và đăng blog sẽ có công đức rồi. Hai cuốn sách của Lương Tiêu tiên sinh viết, “Nhất Mệnh Nhị Vận Tam Phong Thuỷ” và “Thiên Địa Nhân”, công đức của chúng lớn đến mức không cần phải nói. Chỉ cần có người đọc sách của Lương Tiêu tiên sinh, công đức và phúc phần của họ sẽ tự động tăng lên. Một người chỉ cần độ người, viết tâm đắc và đăng lên rồi, phúc phần của họ sẽ tự động tăng lên. Đây gọi là nhân duyên của phúc phần. Phúc phần là do chính mình gieo trồng từng ngày. Viết ra những trải nghiệm niệm Kinh và cứu người của mình, giống như dựng một biển chỉ đường ở ngã tư phức tạp, có thể dẫn phương hướng cho người lạc đường, như vậy sẽ có phúc đức rồi. Đồng thời, những người xem và đọc bài tâm đắc này sẽ kết duyên với quý vị. Đọc sách của sư phụ, họ sẽ kết duyên với sư phụ; đọc những bài viết tâm đắc của quý vị viết, họ sẽ kết duyên với quý vị.

Rất nhiều người đều muốn có quý nhân giúp đỡ. Sư phụ nói cho quý vị biết, quý nhân đến từ đâu? Quý nhân đến từ việc bố thí. Khi một người đang bố thí, chính là đang gieo duyên quý nhân. Khi một người giúp đỡ người khác, có thể họ không nghĩ rằng một ngày nào đó người đó cũng sẽ giúp đỡ lại mình. Một người giúp đỡ người khác càng nhiều, thì đồng thời càng nhận được nhiều sự giúp đỡ. Khi quý vị nhận được sự giúp đỡ từ người khác, có phải quý vị đã gặp được quý nhân rồi không? Quý nhân chính là do cách làm người của chính mình đạt được. Sư phụ từng quen một người khi đi nước ngoài không thể làm được hộ chiếu, nhưng không ngờ rằng một đứa trẻ mà anh ấy từng giúp đỡ trước đây, giờ đang làm việc tại Cục xuất nhập cảnh, đã giúp anh ấy. Đây chính là duyên quý nhân, không thể ngờ được. Sư phụ nói với quý vị, khi giao tiếp với bất kỳ ai, đừng coi thường họ, biết đâu một ngày nào đó họ sẽ trở thành ai đó quan trọng rồi. Thái độ xu nịnh là không nên có, phải đối xử tốt với tất cả mọi người. Đại chúng nói xem, đây có phải là Phật pháp không? Đây cũng là Phật pháp. Đây chính là duyên, làm thế nào kết duyên quý nhân.

Sư phụ tiếp tục giảng cho quý vị, Cúng dường Phật và cúng dường người nghèo, phúc phần có giống nhau không? Có người nói không giống nhau, có người nói giống. Thực ra, quý vị chưa tách bạch rõ ràng về vấn đề này. Nếu tâm quý vị là tâm Phật, lời quý vị nói là Phật Ngữ, nếu quý vị sau khi tu tâm tu hành đến một cảnh giới nhất định, thì việc cúng dường Phật và cúng dường người nghèo là như nhau. Tâm bình đẳng được thể hiện ở đây. Hôm nay quý vị lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, quý vị mua trái cây, và quý vị mua trái cây cho người nghèo ăn, tâm của quý vị là bình đẳng. Trong nhân gian học Phật, tâm bình đẳng rất quan trọng. Tại sao rất nhiều người gọi trẻ nhỏ là Tiểu Bồ Tát, người lớn tuổi là Lão Bồ Tát? Bởi vì quý vị không biết ngày nào đó họ sẽ tu thành Bồ Tát. Chẳng lẽ khi họ chưa tu thành Bồ Tát, quý vị có thể đối xử không tốt với họ sao? Hãy dùng chánh tư duy để đối đãi với mọi việc, mà phúc phần là vô lượng. Cúng dường Phật, cúng dường Bồ Tát và cúng dường người tốt, phúc phần đều rất lớn.

Có một số người chỉ tu trí huệ mà không tu phúc. Tu trí huệ là niệm Kinh, nhưng không chịu dùng hành động để làm. Ngày ngày niệm Kinh, không chịu ra ngoài giúp đỡ mọi người, chỉ có thể tu thành A La Hán, đây là Phật pháp Tiểu thừa. Sư phụ thấy nhiều người trong quý vị cũng như vậy, tự mình niệm Kinh đạt rất tốt, nhưng không độ người. Khi thính giả gọi điện hỏi vấn đề, đó chính là cơ hội tốt nhất để độ người là làm công đức. Nắm bắt một cơ hội, quý vị sẽ đạt được một phần công đức. Đại chúng cần hiểu rằng trồng phúc điền, chính là gieo trồng phúc khí trong tâm điền của mình. Nếu không hiểu đạt trồng phúc điền, quý vị sẽ không có phúc khí, và tâm quý vị sẽ trở nên trống rỗng. Không chịu làm việc thiện, không chịu giúp đỡ mọi người, chỉ biết niệm Kinh, giống như lên núi tu hành để tìm sự thanh tịnh, muốn tránh xa phiền não của nhân gian, không muốn tiếp xúc với phàm nhân. Vì vậy, A La Hán có duyên rất mỏng với chúng sinh, không thể chỉ biết tu cho riêng mình. Một trường hợp khác là dốc sức cứu độ chúng sinh nhưng bản thân lại không tu trí huệ. Giống như rất nhiều Pháp môn, chỉ cố gắng làm việc thiện mà không có trí huệ, không biết làm nhiều như thế vì điều gì. Như vậy cũng không được. 

Có một phương pháp tu hành rất tốt gọi là “lấy quả tương nhân”, tức là dùng nhân của quý vị để biết quả của quý vị, nghĩa là trước khi chưa làm việc gì, hãy nghĩ đến quả trước. Ví dụ, hôm nay sư phụ đối xử tốt với quý vị rồi, sư phụ có thể biết được quả mà quý vị sẽ đối xử với sư phụ. Có một câu nói rằng: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Bồ Tát sợ gieo nhân xấu, vì thực ra Bồ Tát đã biết quả sẽ như thế nào. Còn quý vị người thì sao, đi làm việc trước, đợi khi quả xấu đến thì sợ hãi rồi. Khi quý vị tín Phật, làm bất kỳ việc thiện nào, làm công đức, quý vị nên nghĩ đến quả trước, sau đó mới nghĩ xem có nên gieo nhân này hay không. Đây là một phương pháp tốt. Bởi vì khi gieo nhân, quý vị không biết quả sẽ như thế nào. Nhưng khi quý vị biết quả sẽ như thế nào rồi mới gieo nhân thì sẽ khác rồi. Ví dụ, nếu quý vị ngày nào cũng bị chồng mắng, cậu ta gieo nhân này, một ngày nào đó quý vị sẽ mắng lại cậu ta hoặc phản kháng cậu ta. Hãy nghĩ xem, nếu quý vị ngày nào cũng mắng cậu ta, cứ tiếp tục mắng như vậy, một ngày nào đó cậu ta có thể sẽ xách vali ra đi rồi. Nghĩ đến quả có thể xảy ra, quý vị sẽ không tiếp tục mắng cậu ta nữa. Quý vị sẽ không gieo nhân này. Hôm nay khi tôi nói xấu anh ấy, tôi nhất định phải hiểu rằng sau khi anh ấy biết được, tôi sẽ nhận quả gì, như vậy tôi sẽ không nói xấu anh ấy nữa. 

Sư phụ từng giảng cho quý vị về sự khác biệt giữa việc thiện và công đức. Hôm nay, sư phụ nói với quý vị: “Kiến tánh là công, bình đẳng là đức”. Làm bất cứ việc gì mà thấy được bản tánh của mình rồi, làm ra chính là công đức. Dùng tâm để làm chính là công đức. Học Phật cần bình đẳng, sự bình đẳng này không đơn thuần là bình đẳng trong nhân gian, mà bình đẳng trong tâm mới là quan trọng nhất. Hãy dùng tâm bình đẳng để đối đãi với người khác. Nếu hôm nay có người gọi điện cho sư phụ với giọng nói dễ nghe, sư phụ nói nhiều hơn một chút; nếu là một bà lão, sư phụ nói ít hơn một chút, như vậy gọi là bất bình đẳng. Nếu là một bà cụ gọi điện, nói chuyện không rõ ràng, sư phụ cũng phải giúp đỡ họ một cách chu đáo. Đại chúng đối với mỗi người, mỗi việc đều phải phát ra bình đẳng từ trong tâm, như vậy mới là có đức tánh. 

2. THỰC TU LÀ CẢNH GIỚI, NGHIỆP LỰC LÀ TĂNG THƯỢNG DUYÊN

Sư phụ tiếp tục giảng cho mọi người, hãy nhớ kỹ: Theo đuổi Phật tính, nhìn thấy Phật tính, chứng kiến Phật tính. Phật tính chính là nhìn thấy bản tính của Phật, chỉ khi theo đuổi đến cùng thì mới có thể nhìn thấy, sau đó mới chứng kiến được Phật tính. Ví dụ một cách không chính xác lắm: Theo đuổi bạn khác giới cũng giống như vậy. Đầu tiên nghe nói cô gái này lương tâm rất tốt, sau đó gọi điện hẹn cô ấy đi chơi, đó chẳng phải là theo đuổi sao? Khi gặp rồi thấy cô ấy thật sự hiền lành. Đến khi quen biết, nhận được sự giúp đỡ từ cô ấy, cảm thấy vui vẻ, đó chính là chứng kiến.

Tiếp theo, sư phụ sẽ giảng với mọi người về có công đức và không có công đức. Nhiều người thích nói: “Bạn làm việc này công đức vô lượng.” Sư phụ đã giảng cho quý vị, thế nào là có công đức. Nếu quý vị nói mình có công đức, tức là quý vị không có công đức. Nếu quý vị nói mình không có công đức, tức là quý vị có công đức. Bị người khác khen một câu: “Ôi, công đức vô lượng”, quý vị vui mừng khôn xiết. Thế là công đức tiêu tan. Có công đức tức là không có công đức, không có công đức tức là có công đức. Sư phụ nói với quý vị: “Công đức không thể tùy tiện nói ra, những thứ chân thật đều không nên nói nhiều. Cần tôn kính sư phụ, cần tôn sư trọng đạo, siêng năng tu luyện, những điều này đều là có công đức.

Sư phụ nói rồi: “Chỉ cần sư phụ còn sống một ngày, sư phụ nhất định sẽ hoằng dương Phật pháp, cứu độ tất cả những người hữu duyên trên toàn thế giới.” Đây chính là nguyện lực của sư phụ. Quý vị có dám ngày ngày ở trước mặt Quán Thế Âm Bồ tát nói như vậy không? Sư phụ mỗi ngày đều nói với Quán Thế Âm Bồ tát rằng “Quý vị muốn cứu độ tất cả những người hữu duyên trên thế giới.”. Sư phụ có thể dùng sinh mệnh bản thân để phát nguyện Hoằng pháp. Nguyện lực càng lớn công đức đạt được càng lớn; nguyện lực càng lớn sự hồi đáp càng lớn. Quý vị có biết pháp lực của thầy hiện tại lớn như thế nào không? Đây chính là nhờ công đức mà có. Cứu người càng nhiều, nguyện lực càng lớn pháp lực và công đức của quý vị đều sẽ tỉ lệ thuận mà tăng trưởng.

Tu tâm tu hành chính là cần tu vũ trụ trong tâm của mình. Nếu quý vị không có trải qua thực tu và thực chứng, có nghĩa là nếu như quý vị không có trải qua tu tâm thật sự và nghiệm chứng quả đạt được sau khi tu tâm, quý vị chỉ cảm giác mình tu thành công rồi, thế quý vị vẫn đang giới hạn trong chữ “lý”, giới hạn ở đạo lý trong miệng, mà không có thực hành thực tế.

Người chỉ tu pháp môn mà không tu tâm là càng tu càng chấp trước rơi vào ma đạo mà không biết. Ví dụ một người nào đó đã nói: Người này có thể nhìn thấy rồi, người kia có thể nhìn thấy rồi, tôi tốt nhất cũng có thể được nhìn thấy. Pháp có 2 loại: 1 loại là Phật pháp; vẫn có 1 loại là ma pháp. Người chỉ tu pháp quý vị có thể biết là Phật pháp hay Ma pháp không? Nếu tu không đúng Phật pháp thì chẳng phải là rơi vào Ma pháp sao? Quý vị tu Ma pháp rồi, thì làm sao có thể đạt được Phật pháp ? Chánh hay Ma chỉ cách nhau 1 ranh giới rất mỏng manh. Ví dụ chiếc đồng chạy không đúng giờ thì không phải đồng hồ tốt. Cho nên nhất định cần tu tâm ,không thể chỉ tu pháp.

Chưa đạt đến chỗ rốt ráo. Nếu như tu tâm vẫn chưa đạt đến chỗ rốt ráo, chính là vẫn chưa tu được Chánh, vẫn chưa tu đến tận cùng, tâm của quý vị đã biến đổi, thậm chí đã đánh mất tâm của mình rồi. Cái quý vị cần tìm là tâm thất lạc, nếu không quý vị vĩnh viễn phải ở trong lục đạo luân hồi. Một người tại sao rất thích 1 loại người cụ thể nào đó, đó là vì trong đó có sự si mê. Mê không có gì là sai, nhưng nếu mê quá mức rồi chính là si mê, thì tìm không được bản thân chân chánh rồi. Sư phụ khuyên quý vị đừng đánh mất tâm đã bị lạc lối của mình.

Trên thực tế tu tâm so với tu pháp càng quan trọng. Tu pháp là thứ bề mặt. Ví dụ trong miệng giảng từng bộ từng bộ Phật pháp, nói Pháp môn này tốt pháp môn kia không tốt. Hôm nay đi bái chùa này, ngày mai đi chùa khác dâng hương…Nếu không tu tâm thì ngay cả những đạo lý cơ bản nhất để làm người đều không hiểu, liệu có thể thật sự hiểu Pháp không? Sư phụ mong quý vị tu tâm tốt hơn, cũng đừng chỉ làm thứ bề ngoài cho sư phụ thấy. Tu pháp không như tu tâm, bởi vì Vạn pháp duy tâm tạo. Tất cả những thứ của nhân gian có thể gọi là Pháp Nhân gian, đều là do tâm tạo thành. Tâm đang muốn thế giới này thế nào sẽ biến thành thế ấy. Đưa ví dụ: Trước đây có một số người trước khi vào cuộc họp thường nghĩ: “Hôm nay mình sẽ bị lãnh đạo phê bình rồi.” Khi bước vào phòng họp, nhìn thấy mặt người khác, họ liền cảm thấy người ta muốn đấu tố mình. Tất cả mọi thứ trên thế giới này đều là do tâm quý vị tưởng tượng ra. Quý vị hôm nay muốn kinh doanh rất tốt, trên thực tế kinh doanh hôm nay chính là tốt. Có vài người cảm giác phong thuỷ trong nhà không tốt chuyển đi chuyển lại đồ đạc, nhưng vẫn thấy không ổn, họ chính là không hiểu vấn đề đi niệm Kinh, điều tiết và cải biến phong thuỷ. Tâm của quý vị cũng là thứ rất quan trọng. Có câu nói “Phúc Nhân Chủ Phúc Địa” (ý nghĩa: người có phúc ở đất có phúc) chính là đạo lý này. Nếu tâm của quý vị  không tốt, dù ở nơi phong thuỷ tốt có tốt đến đâu, cũng không có tác dụng. Tâm tức là Pháp, Pháp tức là Tâm.

Người học pháp thường nghĩ đến việc tu ra nhiều thứ phức tạp. Thực tế, tu ra nhiều thứ phức tạp không phải là điều tốt. Chỉ có chư Phật chư Bồ tát là Chánh Pháp Vô Cực Tiên Thiên, tu ra chính là Chánh Pháp. Điều này đã vượt ra khỏi tam giới, không nằm trong ngũ hành nữa. Người học pháp muốn học những thứ này thì sẽ trở thành ma. Vì những điều này đối với họ mà nói thì quá uyên thâm . Ví dụ nói, một học sinh trung học muốn học chương trình tiến sĩ thì sẽ không thể nào học được. Nhưng nếu tôi cứ cố học, có học được không? Có thể học, nhưng sẽ học lệch lạc. Cuối cùng, sư phụ nói với Đại chúng rằng, một ý niệm, tâm thanh tịnh. Hãy giữ tâm mình bình an, mọi chuyện sẽ trôi qua.

Thành tựu trong việc tu tâm hoàn toàn phụ thuộc vào tâm địa. Người có tâm địa thiện lương mới có thể tu chánh; còn người không có tâm địa thiện lương thì dù có tu, thì cũng chỉ tu ra những thứ lệch lạc. Tại sao có người tu lương thiện mà lại sinh ra tà ác? Công phu ở tại tâm. Người tu tâm cần hiểu, phải dùng tâm để kiểm soát thiện lương, ngăn chặn tà ác, và dùng trí huệ của Phật để quán chiếu lương tâm của bản thân. Quán chiếu nghĩa là dùng đôi mắt để nhìn vào lương tâm của bản thân, xem hôm nay mình đang làm việc thiện hay việc ác? có đầy sợ hãi hay không. Hãy dùng pháp ý của Đức Phật Thích Ca để khám phá Phật thức của bản thân. Quý vị cần thường xuyên suy ngẫm: Ý thức của chư Phật và chư Bồ Tát mà tôi học có còn hiện hữu không? Việc tôi làm hôm nay có chứa đựng ý thức của chư Phật chư Bồ Tát hay không?

Ý thức chính là ý niệm. Nếu quý vị hôm nay đã làm 1 việc gì đó mà ý thức của quý vị cho rằng “Tôi làm như vậy là điều tốt, là tu tâm, là tạo công đức”, Đấy chính là có ý thức của chư Phật chư Bồ tát, gọi Phật thức. Cần chú ý trạng thái tâm của bản thân, làm bất kì việc gì, tâm đều đang động. Ý thức của người là điều khiển nhục thể của quý vị . Vì vậy, hãy nhớ rằng: Ý thức của Phật luôn hiện diện trong tâm của quý vị. Quý vị cần kiểm soát ý thức trú trong tâm mình và hành vi của tâm, động thái của tâm, cần điều tâm, chế ngự tâm, như thế quý vị có thể tịnh hoá (ý nghĩa: thanh lọc), chuyển hoá và độ hoá tâm của quý vị. Độ hoá chính là dần dần loại bỏ những thứ không tốt của bản thân. Mỗi người đều có ma trong mình, giống như mỗi người trên thân đều có tế bào ung thư vậy. Chỉ có chiến thắng ma trong chính mình, mớ có thể trở thành Phật.

3. DÙNG CHÁNH TƯ DUY BÀN VỀ QUÁN TƯỞNG

Rất nhiều người hỏi sư phụ, quán tưởng có nghĩa là gì? Quán tưởng là vừa suy nghĩa, vừa dùng mắt để quan sát. Quý vị biết rằng, “quán ” có nghĩa là dùng mắt để nhìn. “Tưởng” có nghĩa là dùng tâm trí để suy nghĩ. “Quán tưởng” là việc thường xuyên nhìn và suy nghĩ, tức là thường xuyên quan sát, thường xuyên suy tưởng. Vậy, chúng ta nên suy nghĩ về điều gì? Không phải bảo quý vị nghĩ về bản thân mình, không phải quý vị nghĩ về cách làm sao để phát tài, cũng không phải khuyên quý vị nghĩ về làm sao để cuộc sống tốt đẹp hơn. Mà là muốn quý vị nhất tâm quán tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát. Thường quán thường tưởng, việc tu dưỡng năng lực quán tưởng rất quan trọng. Thế nào gọi là tu dưỡng năng lực quán tưởng? Chính là phải bồi dưỡng một khả năng – bất cứ lúc nào cũng có thể nghĩ đến Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, đã trở thành một năng lực rồi. Sư phụ chỉ cần khởi niệm quán tưởng đến Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài liền hiện ra trước mắt. Đó chính là kết quả của sự tu dưỡng. Thầy mong quý vị thường xuyên thực hành quán tưởng như vậy.

Sư phụ nhờ sự gia trì của Quán Thế Âm Bồ Tát, năng lực của Sư phụ hiện nay đã rất lớn. Nhiều người trong mộng bị quỷ bắt, họ kêu Lư Đài trưởng cứu quý vị, lập tức liền tỉnh lại. Có vô số trường hợp như thế trong chương trình phát thanh. Sư phụ không muốn quý vị quán tưởng về thầy, mà nên quán tưởng chính mình. Thế nào gọi là quán tưởng chính mình? Chính là quán tưởng Pháp thân của mình. Quý vị có biết Pháp thân của mình là gì không? Pháp thân chính là Bồ Tát thân. Mỗi người đều có Pháp thân riêng. Pháp thân vô cùng quan trọng. Hãy soi gương nhìn xem, đây có phải là quý vị không? Đây có phải là tôi không? Tôi là như thế này sao? Rồi nhìn gương suy ngẫm: Ta là Bồ Tát. Sau đó đừng nhìn gương nữa. Hãy dùng mắt nội tại của quý vị để chiêm ngưỡng Pháp thân của chính mình – Ta là Bồ Tát. Sau một thời gian, quý vị sẽ thấy xung quanh có rất nhiều Hộ pháp thần.

Hôm nay, Sư phụ dạy quý vị những phương pháp. Thật ra, thiền định cũng như vậy. Quý vị phải nghĩ rằng: Vị Bồ Tát mà mình tin tưởng, hình ảnh Bồ Tát mình đang thấy là chân thật. Khi quý vị chăm chú nhìn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, quý vị có thể nhìn thấy không? Trên núi có một vòng tròn lớn, một quầng hào quang rộng. Dù mắt thường không thấy, quý vị vẫn phải dùng mắt nội tâm quý vị mà nói: “Quý vị thấy rồi”. Sư phụ trực tiếp dạy quý vị phương pháp này. Đã thấy chưa? Quầng hào quang đó có chuyển động không? Có chuyển động. Như vậy là quý vị đã thấy Bồ Tát. Đây chính là lòng tin. Chỉ khi ta chân thành tin tưởng, ta mới đạt được những điều này. Quý vị phải nghĩ rằng hào quang của Bồ Tát luôn linh động. Ta tin Bồ Tát là chân thật, rồi tưởng tượng Ngài đang hiện diện trên đỉnh đầu mình. Nhưng phải nhớ kỹ: Phàm phu nghiệp chướng như chúng ta, tuyệt đối không được nghĩ Bồ Tát nhập thẳng vào thân thể. Bồ Tát không thể vào được, vì thân tâm ta còn quá nhiều ô uế. Hiểu chưa? Nếu một người thanh tịnh hoàn toàn, có thể quán tưởng Bồ Tát hiện thân trong cơ thể họ. Nhưng với những người tâm còn đầy tham-sân-si, ý niệm tạp loạn, tuyệt đối không nên quán tưởng Bồ Tát hiện thân trong thân thể. Chỉ nên nghĩ Bồ tát đang ở trên đỉnh đầu mà thôi.

Quý vị thường nghe nhiều người nói “xuống cang đầu (từ “gang”, âm “cang”)” – trong huyền học gọi là “hạ giáng đầu”, tức những thứ giáng xuống. Một khi giáng trúng đỉnh đầu quý vị thì phiền phức rồi. Nhưng nếu trên đỉnh đầu quý vị tự quán tưởng Bồ Tát, đó chính là chân thật của mình. Còn thứ người ta giáng xuống cho quý vị, đó chính là “cang đầu”. Không biết quý vị có hiểu không? Hãy nhớ kỹ, Khi người ta muốn đặt thứ gì lên đỉnh đầu quý vị, thực chất thứ đó đã phiền phức rồi. Bồ Tát do chính mình tu tập hiện trên đỉnh đầu, đó mới là chân thật, chỉ cần có thể chịu đựng những “giáng đầu” không tốt này, sẽ làm cho chúng tiêu tan.

Chỉ cần trên đỉnh đầu có Phật, thì nghiệp chướng không thể giáng xuống thân quý vị. Nếu quý vị khởi niệm như vậy, khổ nạn sẽ không bám được vào mình. Đại chúng hiểu không? Bởi vì “ma” và “nạn” vốn là hai thứ không tốt. Ma bám vào người, tốt chăng? Nạn đeo vào thân, hay ho chăng? Hai thứ hợp lại, ma nạn (nghiệp chướng) ập đến, quý vị liền xui xẻo rồi. Vì thế phải luôn nghĩ, Nghiệp chướng hãy lánh xa ta. Bởi vì ta thanh tịnh, nên khổ nạn không thể xâm nhập trên thân. Mọi người hiểu rõ chưa? Quý vị phải tưởng tượng, quý vị chính là Bồ Tát. Dù Bồ Tát đang hiện trên đỉnh đầu của quý vị, nhưng hãy tưởng mình chính là Bồ tát. Mà quý vị phải tưởng tượng rằng, xung quanh ta có vô số Bồ Tát và Hộ pháp thần. Tất nhiên, tốt nhất nên quán tưởng ban ngày, đêm hôm không nên. Ngoài ra, ở Quán Âm đường có thể quán tưởng, còn nơi khác thì sư phụ không dám chắc. Nếu ở bất kỳ ngôi chùa nào, hoặc am ni cô, nếu có thờ Bồ Tát thì quý vị có thể quán tưởng; nhưng nếu không có thờ Bồ Tát, thì quý vị có phiền phức rồi, hoặc có đôi khi, việc thờ phụng loại nhân nào , sẽ mang đến cho quý vị loại quả ấy.
Phải không ngừng quán chiếu Pháp tướng của chính mình. Sư phụ tạm giảng thô thiển thế này: Ban đầu, quý vị có thể nhìn hình tướng thiện lương của mình trong gương, dần dần tưởng nhớ khuôn mặt mình, rồi nghĩ đến Quán Thế Âm Bồ Tát trên đỉnh đầu của mình. Khi đã thuần thục, hãy buông bỏ hình tướng bên ngoài, chuyên tâm quán tưởng Pháp thân, quán tưởng đến Pháp tướng của bản thân, đó chính là rất đoan trang. Mỗi người đều có thể hiển lộ khuôn mặt đoan trang. Dù là khuôn mặt đùa cợt nhất cũng sẽ trở nên nghiêm túc. Khi quý vị trầm tĩnh lại, đó chính là Pháp tướng. Còn 1 người khi điên đảo vọng tưởng, cười đùa vô độ, ấy không phải là bản tính chân thật của họ. Khi hiển lộ Pháp tướng, quý vị người sẽ không còn cười cợt tầm thường, mà tỏa ra vẻ rất trang nghiêm. Hãy quan sát tướng Bồ Tát, Ba phần mở mắt, bảy phần khép mi – đó là Bồ tát vĩnh viễn nhìn thế gian với ánh mắt như vậy. Thực ra, đó chính là dùng mắt trí huệ để nhìn cõi đời, bởi thế giới này quả thực quá đỗi khổ đau.

Phương pháp quán chiếu Pháp tướng mà Sư phụ vừa truyền dạy, rốt cuộc để đạt đến điều gì? Chính là “bách độc bất xâm” (chính là trăm thứ độc chẳng thể xâm hại). Xung quanh ta có vô số độc hại, ví như trong cuộc sống, kẻ muốn lừa gạt thường trước tiên làm cho quý vị vui vẻ, dùng lời đùa cợt khiến tâm phóng túng, đãi ăn uống, tặng quà cáp để quý vị buông lỏng cảnh giác, sau đó mới dễ bề lừa đảo. Đa phần đều như thế. Họ dùng lời nói đùa giỡn khiến tâm quý vị khai mở, bật cười, rồi sau đó dùng phương pháp của hắn để nói chuyện với quý vị. Nếu quý vị giữ vững Pháp tướng, ví dụ nói, hắn lại tiếp tục nói thế này thế kia với quý vị, thử xem quý vị sẽ bị mắc lừa hay không. Đây chính là điều cần duy trì, thế gian gọi là “uy nghiêm”. Pháp tướng chính là Pháp thân của quý vị. Nếu một người không muốn bị người khác lừa gạt, trước tiên dung mạo của họ phải trang nghiêm, đối phương sẽ không dám khinh thường. Nếu cứ ngông cuồng, không sáng suốt, tất tiểu nhân sẽ đến lừa quý vị. Kẻ gian đều có mắt tinh đời: họ nhìn ra ai dễ bị lừa. Vì vậy Pháp tướng vô cùng trọng yếu, quý vị có hiểu không ? Nếu Pháp tướng của một người không trang nghiêm, sẽ phát ra tín hiệu cho người khác cảm giác quý vị dễ bị lừa. Như một nữ nhân ít cười, rất đoan trang, tự nhiên kẻ xấu sẽ tránh xa.

Nếu quý vị quán tưởng, sẽ thấy hiện ra một số hình tướng, bao gồm hình tướng của chính mình, Bồ Tát trên đỉnh đầu, quán tưởng lâu sẽ hiển lộ một số cảnh giới. Nếu thấy là Quán Thế Âm Bồ Tát, nhiều người sẽ vui mừng: “Ôi, quý vị thấy Bồ Tát rồi!” Phải không? Hiện nay rất nhiều thính giả niệm kinh thường nói: “Vừa nhắm mắt đã thấy Bồ Tát rồi”. Nhưng nếu vị Bồ tát này không phải Quán Thế Âm Bồ Tát, mà là ma hiện tướng thì sao? Quý vị phân biệt thế nào? Nếu những cảnh tượng này hiện ra trước mắt mà không phải Bồ Tát thực sự , giống như có rất nhiều người thì thầm bên tai quý vị “Ta là Quán Thế Âm Bồ tát, ta kêu ngươi làm thế này, ngươi phải làm theo lời ta”, quý vị có tin theo không ?

Lúc này cần dựa vào hai phương pháp. Thứ nhất chính là nương tựa nơi Sư phụ của quý vị. Sư phụ để làm gì? Kỳ thực, pháp danh của Sư phụ vô cùng quan trọng, quý vị có thể xưng niệm pháp danh Sư phụ. Nếu đã quy y Sư phụ mà quý vị gọi Sư phụ, thiên thượng và địa phủ lập tức biết ngay quý vị là đệ tử của sư phụ. Còn nếu chưa làm lễ bái sư, dù có gọi Sư phụ, thì cách xưng hô “sư phụ’ này cũng chỉ là cách xưng hô tôn kính thôi, quý vị có thể tự mình nghiệm chứng điều này. Sư phụ nói một câu vô cùng quan trọng: Nếu thấy Quán Thế Âm Bồ Tát, muốn biết thật hay giả, hãy xưng niệm pháp danh Sư phụ, sau đó quan sát xem hình tướng đó có biến mất không? Nếu “Quán Thế Âm Bồ Tát” đó biến mất, tức là giả; nếu “Quán Thế Âm Bồ Tát” vẫn hiện diện, đó chính là chân thật. Bởi quý vị đang tu học Tâm Linh Pháp Môn do Sư phụ truyền dạy, cũng chính là Pháp Môn Tâm Linh của Quán Thế Âm Bồ tát , nên Quán Thế Âm Bồ Tát đương nhiên không rời đi. Đó là lý do Sư phụ dạy quý vị phương pháp này. Đại chúng đã rõ chưa?

Phương pháp thứ hai chính là vận dụng Chánh tư duy của quý vị. Chánh tư duy kỳ thực chính là Chánh trí huệ. Dùng trí huệ để phân biệt những lời đối phương nói. Ví dụ, có thính giả Mạch Khảo từng nghe trong tai có tiếng nói: “Ta là XXX”. Cũng thường có nhiều thính giả thưa với Sư phụ: “Quý vị nghe Quán Thế Âm Bồ tát nói chuyện rồi?”. Vậy Quán Thế Âm Bồ tát đã nói gì? Có người kể với Sư phụ rằng Quán Thế Âm Bồ tát bảo họ xuống tầng dưới chơi, nói dưới đó đông người, chơi vui lắm. Quý vị có đủ trí huệ để nhận ra vấn đề không? Nghe câu này, quý vị có nghĩ đó thực sự là Quán Thế Âm Bồ tát? Nếu tâm trí quý vị mê muội, bị hắn khống chế rồi, thì quý vị cũng nhảy xuống thôi. Đây chính là lý do vì sao tu tâm tu đến 1 mức độ nào đó, rất nhiều người rơi vào tình trạng tẩu hỏa nhập ma, lý do là như vậy. Bởi họ không phân biệt được đâu là Chánh Phật Pháp, đâu là Giả Phật Pháp. Như Sư phụ thường dạy: Mê tín không phải chánh tín.

Thực tế, Phật pháp tuyệt đối không thể mê tín. Phật pháp là chánh tín, chính là PHật pháp về chân lý giáo dục quý vị , giúp đỡ quý vị . Một vị Pháp sư từng khai thị: “Phật pháp bản chất là nền giáo dục, là đạo lý”. Hãy ghi nhớ: Chân lý chân chính luôn mang tính giáo dục. Muốn quý vị người hướng thiện, có cần giáo dục không? Muốn chữa lành vết thương tâm hồn, có cần giáo huấn không? Khi đứa trẻ phạm lỗi, nghĩ không thông rồi, trong quá trình sư phụ giúp họ phản bổn quy chân (chính là trở về với chân thật nguyên sơ), chẳng phải đang giáo hóa sao? Kỳ thực, tôn giáo có thể xem là nền giáo dục, cũng là liệu pháp chữa lành tâm bệnh. Nhiều người thốt lên: “Đài trưởng ơi, ngài còn giỏi hơn bác sĩ tâm lý”. Bởi lẽ, những người từng muốn tự sát, bệnh nhân ung thư tuyệt vọng, khi đến gặp Sư phụ trong đau khổ, chỉ cần trò chuyện nửa giờ hay một giờ, rời đi với tâm an lạc. Đó là vì mỗi chúng sanh vốn sẵn có nguồn năng lượng đặc biệt, nguồn năng lượng này trên thực tế chính là nguyên linh của Bồ tát. Sư phụ chỉ khơi dậy nguyên linh ấy, giúp họ tự chống chọi bệnh tật, buông bỏ toàn bộ các thứ ô uế và không tốt, toàn bộ quên đi. Bất cứ ai làm được như vậy, người ấy chính là hiện thân của Bồ Tát.

Vừa rồi đã giảng về dùng trí huệ phân biệt thật giả của hình tướng. Nếu âm linh bảo quý vị hành hạ thân thể, những điều phi lý ấy tuyệt đối không nên làm. Khi ấy, vong linh đã bảo Mạch Khảo “ngươi không được đứng dậy”, nên anh cứ thế ngồi xổm, ôm bụng đau đớn. Lúc đó trong văn phòng Sư phụ, anh thốt ra câu khiến Sư phụ lập tức nhận ra không phải lời của Mạch Khảo. Sư phụ dùng ý niệm nói với vong linh: “Ngươi đừng hành hạ hắn nữa. Hãy buông tha, tha thứ cho lỗi lầm của hắn. Ta sẽ bảo hắn chuyên tâm niệm kinh siêu độ cho ngươi.” Ngay lập tức, miệng Mạch Khảo nói: “Đài trưởng, hắn bảo không dễ dàng thế đâu. Hắn sẽ không bao giờ rời bỏ con.” Bạn của Mạch Khảo lúc đó cũng chứng kiến. Sư phụ khuyên quý vị nên chân thành tin tưởng những sự thực này.

Sư phụ tiếp tục khai thị: Nếu hình tướng đó bảo quý vị làm việc gì, chỉ nên thực hiện khi hợp đạo đức. Bởi chư Phật, Bồ Tát không bao giờ dạy người làm điều phi nghĩa. Nếu có tiếng nói xúi giục hành ác, tuyệt đối không phải đến từ Bồ Tát. Phải dùng trí huệ để đối trị những hiện tượng này – điểm then chốt vô cùng quan trọng. Mặt khác, cần quán tưởng bản thân và Bồ Tát là nhất thể. Vậy muốn quán tưởng hoà hợp cùng Bồ tát, có phương pháp nào tốt không? Kỳ thực lúc này chính là lúc quý vị trì chú. Nói cách bình dân, trì chú chính là niệm kinh. Khi niệm Kinh mà tâm tưởng hòa hợp cùng Bồ Tát, ấy gọi là trì chú. Vừa đồng hành cùng Bồ Tát, vừa chuyên tâm niệm Kinh, tâm của quý vị sẽ lắng lại, quý vị sẽ dần nhập vào cảnh giới định. Sau khi tu tâm nhập định, mọi vọng niệm đều tiêu tan, đầu óc trống rỗng. Sư phụ hỏi quý vị: Trong trạng thái “định” này, có còn tồn tại “niệm” không? Khi tâm đã định, trong ấy có còn khởi lên ý tưởng? Cái “không” của phàm phu thực chất chỉ là “giả không”. Sau khi tu luyện đến mức tâm thức hoàn toàn trống rỗng, bề ngoài dường như không khởi niệm, nhưng thực tế vẫn còn tồn tại vi tế.

Niệm khởi lên sau khi tâm định và niệm khởi lúc tâm chưa định là hai khái niệm hoàn toàn khác biệt. Ví như người mẹ hiểu rõ quý vị mình muốn gì, bà ấy có cần phải hỏi han gì nữa không? Mẹ biết ý quý vị, nhưng quý vị chẳng thể hiểu hết ý mẹ, phải không? Cách tốt nhất chính là đừng nghĩ. Nhưng sau khi “không nghĩ”, thật sự có còn nghĩ không? Không nghĩ, có niệm hay không? Có niệm – “Vô tưởng hữu niệm”. Nhiều người cố gắng không suy nghĩ, nhưng niệm vẫn tự nhiên hiện ra – đó chính là “niệm”. Chẳng hạn, khi quý vị ngồi thiền, mong cầu tĩnh lặng, muốn dứt bặt mọi suy nghĩ. Vừa nhập tọa, chưa kịp nghĩ gì, trong đầu đã vang lên: “Đừng nghĩ, không, không, không!” – thế mà khởi niệm cứ lần lượt hiện ra.

Lên đầu trang