Bạch Thoại Phật Pháp – Quyển 3
<Bộ 12 Quyển>

(白话佛法 )

Tự (Lời Tựa)

TỰ (LỜI TỰA)

Các bài viết trong “Bạch Thoại Phật Pháp” đều là của sư phụ Lư Quân Hoành của chúng ta, sau khi thuyết giảng và khai thị cho đệ tử ở Quán Âm Đường của Đài phát thanh Đông Phương Hoa Ngữ ở Úc, dựa theo ghi âm và văn bản để sắp xếp. Sư phụ dùng ngôn ngữ đời thường để giảng giải Phật pháp cao thâm, vừa giải thích qua triết lý nhân sinh, vừa dùng những ví dụ rõ ràng từ cuộc sống hàng ngày. Qua Bạch Thoại Phật pháp, chúng ta có thể lĩnh hội những cao cấp và thâm sâu của Phật học. Sư phụ dùng trí huệ linh hoạt và phương pháp dễ hiểu, hướng dẫn chúng đệ tử phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, giải thoát rốt ráo.

Sư phụ dạy chúng ta cách học Phật, cách tu tâm, cách tu hành, cách buông bỏ những tập khí vô minh nơi bản thân, và tại sao phải trì giới thủ pháp, v.v. Mục đích là để khai mở Phật tánh trong mỗi chúng sinh, phát triển trí huệ của chúng ta, nâng cao giác ngộ, tu sửa những hành vi sai lầm, thay đổi vận mệnh của chúng ta, và làm cho thế giới tràn ngập tình yêu từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát. 

Sư phụ còn dạy chúng đệ tử cách áp dụng lý luận Phật pháp vào cuộc sống hàng ngày để giải quyết các vấn đề cần đối diện như về sinh hoạt, học tập, sức khỏe, công việc của chính mình, v.v. Cách sử dụng từ bi và trí huệ của chư Phật, chư Bồ Tát để khiến cho chúng ta ở trong xã hội hiện đại tiêu tai cát tường, cuộc sống thanh tịnh an vui. 

Những bài viết trong quyển “Bạch Thoại Phật Pháp”, Sư phụ đều đã vận dụng trí huệ viên dung (một cách trọn vẹn) của Bồ Tát, dùng ngôn ngữ dễ hiểu rõ ràng, để diễn giải sâu sắc về định luật nhân quả trong nhân gian. Sau khi được công bố, những bài giảng này đã giúp hàng vạn chúng sinh hữu duyên như bừng tỉnh, phát khởi tín tâm học Phật, tu tâm, hành trì, cải mệnh, và nhận được sự đón nhận nồng nhiệt từ mọi tầng lớp trên thế giới. Với mong muốn giúp nhiều người hữu duyên thọ nhận lợi ích từ giáo pháp, bộ sách này đã được chỉnh lý, tái bản và phát hành miễn phí để quảng kết thiện duyên cùng chúng sinh. 

Tháng 12 năm 2011 
Sydney

1. DÙNG TÂM BÌNH ĐẲNG, TÍCH PHÚC ĐIỀN, GIEO NHÂN QUẢ

Về vấn đề về ngày tận thế: Ngày tận thế là một đại kiếp nạn, đại kiếp nạn này chắc chắn sẽ xảy ra. Khi nào nó xảy ra? Không ai biết được. Bởi vì kiếp khí vẫn chưa hình thành. Điều này cho thấy vẫn còn rất nhiều người đang làm người tốt, làm việc tốt, làm việc thiện, đang tu tâm, niệm Kinh và đang cứu người. Trước đây đã có nhiều dự đoán rằng ngày tận thế sẽ là năm 2000, hiện tại đã là năm 2010 rồi, ít nhất đã bị hoãn lại 10 năm. Sư phụ từng nói với quý vị rằng, đại kiếp là đại tai nạn, còn tiểu kiếp là tiểu tai nạn. Tiểu tai nạn đối với một người mà nói, chỉ cần họ chết ở nơi này, hoặc bị thảm hoạ tàn phá rồi, đối với họ mà nói đó chính là ngày tận thế. Ví dụ, một chiếc máy bay sắp rơi, đối với hành khách trên máy bay thì đó chính là ngày tận thế. Chúng ta nhất định phải cố gắng nổ lực tu tâm, để khi kiếp nạn đến, mong rằng những người tốt như chúng ta đều có thể sống sót. Những người ra đi trong kiếp nạn, về cơ bản không phải là người rất tốt hoặc người có tu hành. Ví dụ: trong một trận động đất, có một số thiệt mạng là người tốt, những người này nhiều nhất chỉ là oan hồn, chứ không thể tính là người tốt, bởi vì người tốt tuyệt đối sẽ không chết trong kiếp nạn. Ví dụ, trong một trận động đất, khi đó có hơn 20 đứa trẻ khi đó không đi học, và chúng đã thoát được một kiếp nạn rồi. Máy bay gặp nạn, nhưng vẫn có một đứa trẻ sống sót, điều này nói lên điều gì? Cũng có người vì đột nhiên sức khỏe không tốt nên không lên được máy bay, kết quả là máy bay gặp nạn rồi. Những người như vậy có được coi là người tốt không? Đây chính là người có phúc khí. Đại phúc, đại lượng, đại công đức. Sư phụ cũng không khuyên quý vị, quý vị hãy tận năng lực của chính mình làm thật tốt, nếu khi thời điểm tai kiếp đến rồi, Đại chúng hãy hảo tự vi chi. Sư phụ không dọa quý vị, ngay cả khi quý vị đang ở bên cạnh sư phụ, sư phụ cũng chưa chắc cứu được quý vị. Khi tai kiếp ập đến, chỉ có thể dựa vào công lực và công đức của chính mình. Lúc đó, người mà Bồ Tát cứu là những ai có thể cứu được, còn những ai không thể cứu họ sẽ rời đi, bất kể là nam nữ hay già trẻ. Quý vị hãy nhìn lại những việc mình đã làm, xem chính mình có tu hành, tu tâm hay không, tu đến trình độ nào, vẫn còn đang cầu xin điều gì, quý vị liền minh bạch rồi. Nếu quý vị quỳ ở đây, vẫn đang dốc sức cầu xin cho gia đình mình được bình an, hoặc cầu xin bản thân kiếm được tiền, công việc thuận lợi, phát tài…, thì đó chính là đang tu theo Phật pháp Tiểu thừa ở nhân gian. Đợi một chút sư phụ sẽ nói cụ thể về những vấn đề này, bây giờ chỉ là phần mở đầu.

Sư phụ trước tiên sẽ nói với quý vị về câu “Đa dục vi khổ”. Dục vọng càng nhiều, quý vị sẽ càng khổ. Hôm nay tôi muốn cái này, nhưng không đạt được; ngày mai tôi muốn cái kia, lại cũng không đạt được. Ví dụ, dục vọng của sư phụ là gì? Sư phụ muốn cứu nhiều người hơn, nhưng không cứu được, sư phụ sẽ cảm thấy rất buồn. Còn dục vọng của quý vị là gì? Đơn vị làm việc tốt một chút, đừng bị “sa thải”. Thực tế, sau khi có dục vọng này, quý vị người sẽ cảm giác được khổ rồi. Nếu một người có thể buông bỏ dục vọng, họ sẽ không khổ như thế nữa. Nhân sinh có thể được gọi là “sinh tử bì lao”, nghĩa là sống cũng mệt mỏi, chết cũng mệt mỏi. Khoảnh khắc quý vị lìa đời là vô cùng thống khổ, rất buồn bã. Khi một người sắp chết, họ cảm thấy cả đời mình đã kết thúc rồi, rất mệt mỏi rồi. Trong rất nhiều tiểu thuyết và phim điện ảnh đều miêu tả như vậy, cuối cùng, một người khi nằm trên giường và nói: “Tôi ở nhân gian đã quá mệt mỏi rồi, tôi muốn ra đi rồi”.

Mặt khác, “thiểu dục vô vi”. Ý muốn nói rằng một người cần ít dục vọng một chút, buông bỏ ý niệm về thành tựu hay danh vọng, khi không còn chấp trước vào điều gì, như vậy thân tâm sẽ được tự tại. Quý vị người không nên hàng ngày bị quấy nhiễu bởi những chuyện vụn vặt, gọi là “tâm vô yếm túc” (tâm không biết đủ). Nghĩa là tâm của quý vị người vĩnh viễn không biết thoả mãn, cũng vĩnh viễn không biết chán ghét sự thoả mãn của bản thân. Quý vị có chán ghét một thứ gì đó mà quý vị đạt được không? Hãy nhìn xem, một người làm Kinh doanh, khi hàng hóa đến ồ ạt, họ vẫn cố gắng làm việc không ngừng, nhưng khi không có hàng, họ lại bắt đầu cầu xin mỗi ngày ––”duy đắc đa cầu”. Những người cầu xin quá nhiều cho việc riêng tư sẽ tự làm tăng thêm tội lỗi của mình. Khi một người bắt đầu cầu xin cho việc riêng, trong tâm của họ sẽ sinh ra tội lỗi, và tội lỗi này chính là “tham”. Một khi một người có tâm tham và tâm sân hận, họ có thể làm bất cứ điều gì. Đại chúng cần tôn sư trọng đạo, tôn kính sư phụ, coi trọng Pháp môn, và nhất định phải tu luyện thật tốt.

Quý vị có biết công đức của một người đến từ đâu không? Ví dụ: Chỉ cần đăng một bài viết trên blog của sư phụ, có người nhấp vào xem, người viết bài và đăng blog sẽ có công đức rồi. Hai cuốn sách của Lương Tiêu tiên sinh viết, “Nhất Mệnh Nhị Vận Tam Phong Thuỷ” và “Thiên Địa Nhân”, công đức của chúng lớn đến mức không cần phải nói. Chỉ cần có người đọc sách của Lương Tiêu tiên sinh, công đức và phúc phần của họ sẽ tự động tăng lên. Một người chỉ cần độ người, viết tâm đắc và đăng lên rồi, phúc phần của họ sẽ tự động tăng lên. Đây gọi là nhân duyên của phúc phần. Phúc phần là do chính mình gieo trồng từng ngày. Viết ra những trải nghiệm niệm Kinh và cứu người của mình, giống như dựng một biển chỉ đường ở ngã tư phức tạp, có thể dẫn phương hướng cho người lạc đường, như vậy sẽ có phúc đức rồi. Đồng thời, những người xem và đọc bài tâm đắc này sẽ kết duyên với quý vị. Đọc sách của sư phụ, họ sẽ kết duyên với sư phụ; đọc những bài viết tâm đắc của quý vị viết, họ sẽ kết duyên với quý vị.

Rất nhiều người đều muốn có quý nhân giúp đỡ. Sư phụ nói cho quý vị biết, quý nhân đến từ đâu? Quý nhân đến từ việc bố thí. Khi một người đang bố thí, chính là đang gieo duyên quý nhân. Khi một người giúp đỡ người khác, có thể họ không nghĩ rằng một ngày nào đó người đó cũng sẽ giúp đỡ lại mình. Một người giúp đỡ người khác càng nhiều, thì đồng thời càng nhận được nhiều sự giúp đỡ. Khi quý vị nhận được sự giúp đỡ từ người khác, có phải quý vị đã gặp được quý nhân rồi không? Quý nhân chính là do cách làm người của chính mình đạt được. Sư phụ từng quen một người khi đi nước ngoài không thể làm được hộ chiếu, nhưng không ngờ rằng một đứa trẻ mà anh ấy từng giúp đỡ trước đây, giờ đang làm việc tại Cục xuất nhập cảnh, đã giúp anh ấy. Đây chính là duyên quý nhân, không thể ngờ được. Sư phụ nói với quý vị, khi giao tiếp với bất kỳ ai, đừng coi thường họ, biết đâu một ngày nào đó họ sẽ trở thành ai đó quan trọng rồi. Thái độ xu nịnh là không nên có, phải đối xử tốt với tất cả mọi người. Đại chúng nói xem, đây có phải là Phật pháp không? Đây cũng là Phật pháp. Đây chính là duyên, làm thế nào kết duyên quý nhân.

Sư phụ tiếp tục giảng cho quý vị, Cúng dường Phật và cúng dường người nghèo, phúc phần có giống nhau không? Có người nói không giống nhau, có người nói giống. Thực ra, quý vị chưa tách bạch rõ ràng về vấn đề này. Nếu tâm quý vị là tâm Phật, lời quý vị nói là Phật Ngữ, nếu quý vị sau khi tu tâm tu hành đến một cảnh giới nhất định, thì việc cúng dường Phật và cúng dường người nghèo là như nhau. Tâm bình đẳng được thể hiện ở đây. Hôm nay quý vị lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, quý vị mua trái cây, và quý vị mua trái cây cho người nghèo ăn, tâm của quý vị là bình đẳng. Trong nhân gian học Phật, tâm bình đẳng rất quan trọng. Tại sao rất nhiều người gọi trẻ nhỏ là Tiểu Bồ Tát, người lớn tuổi là Lão Bồ Tát? Bởi vì quý vị không biết ngày nào đó họ sẽ tu thành Bồ Tát. Chẳng lẽ khi họ chưa tu thành Bồ Tát, quý vị có thể đối xử không tốt với họ sao? Hãy dùng chánh tư duy để đối đãi với mọi việc, mà phúc phần là vô lượng. Cúng dường Phật, cúng dường Bồ Tát và cúng dường người tốt, phúc phần đều rất lớn.

Có một số người chỉ tu trí huệ mà không tu phúc. Tu trí huệ là niệm Kinh, nhưng không chịu dùng hành động để làm. Ngày ngày niệm Kinh, không chịu ra ngoài giúp đỡ mọi người, chỉ có thể tu thành A La Hán, đây là Phật pháp Tiểu thừa. Sư phụ thấy nhiều người trong quý vị cũng như vậy, tự mình niệm Kinh đạt rất tốt, nhưng không độ người. Khi thính giả gọi điện hỏi vấn đề, đó chính là cơ hội tốt nhất để độ người là làm công đức. Nắm bắt một cơ hội, quý vị sẽ đạt được một phần công đức. Đại chúng cần hiểu rằng trồng phúc điền, chính là gieo trồng phúc khí trong tâm điền của mình. Nếu không hiểu đạt trồng phúc điền, quý vị sẽ không có phúc khí, và tâm quý vị sẽ trở nên trống rỗng. Không chịu làm việc thiện, không chịu giúp đỡ mọi người, chỉ biết niệm Kinh, giống như lên núi tu hành để tìm sự thanh tịnh, muốn tránh xa phiền não của nhân gian, không muốn tiếp xúc với phàm nhân. Vì vậy, A La Hán có duyên rất mỏng với chúng sinh, không thể chỉ biết tu cho riêng mình. Một trường hợp khác là dốc sức cứu độ chúng sinh nhưng bản thân lại không tu trí huệ. Giống như rất nhiều Pháp môn, chỉ cố gắng làm việc thiện mà không có trí huệ, không biết làm nhiều như thế vì điều gì. Như vậy cũng không được. 

Có một phương pháp tu hành rất tốt gọi là “lấy quả tương nhân”, tức là dùng nhân của quý vị để biết quả của quý vị, nghĩa là trước khi chưa làm việc gì, hãy nghĩ đến quả trước. Ví dụ, hôm nay sư phụ đối xử tốt với quý vị rồi, sư phụ có thể biết được quả mà quý vị sẽ đối xử với sư phụ. Có một câu nói rằng: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Bồ Tát sợ gieo nhân xấu, vì thực ra Bồ Tát đã biết quả sẽ như thế nào. Còn quý vị người thì sao, đi làm việc trước, đợi khi quả xấu đến thì sợ hãi rồi. Khi quý vị tín Phật, làm bất kỳ việc thiện nào, làm công đức, quý vị nên nghĩ đến quả trước, sau đó mới nghĩ xem có nên gieo nhân này hay không. Đây là một phương pháp tốt. Bởi vì khi gieo nhân, quý vị không biết quả sẽ như thế nào. Nhưng khi quý vị biết quả sẽ như thế nào rồi mới gieo nhân thì sẽ khác rồi. Ví dụ, nếu quý vị ngày nào cũng bị chồng mắng, cậu ta gieo nhân này, một ngày nào đó quý vị sẽ mắng lại cậu ta hoặc phản kháng cậu ta. Hãy nghĩ xem, nếu quý vị ngày nào cũng mắng cậu ta, cứ tiếp tục mắng như vậy, một ngày nào đó cậu ta có thể sẽ xách vali ra đi rồi. Nghĩ đến quả có thể xảy ra, quý vị sẽ không tiếp tục mắng cậu ta nữa. Quý vị sẽ không gieo nhân này. Hôm nay khi tôi nói xấu anh ấy, tôi nhất định phải hiểu rằng sau khi anh ấy biết được, tôi sẽ nhận quả gì, như vậy tôi sẽ không nói xấu anh ấy nữa. 

Sư phụ từng giảng cho quý vị về sự khác biệt giữa việc thiện và công đức. Hôm nay, sư phụ nói với quý vị: “Kiến tánh là công, bình đẳng là đức”. Làm bất cứ việc gì mà thấy được bản tánh của mình rồi, làm ra chính là công đức. Dùng tâm để làm chính là công đức. Học Phật cần bình đẳng, sự bình đẳng này không đơn thuần là bình đẳng trong nhân gian, mà bình đẳng trong tâm mới là quan trọng nhất. Hãy dùng tâm bình đẳng để đối đãi với người khác. Nếu hôm nay có người gọi điện cho sư phụ với giọng nói dễ nghe, sư phụ nói nhiều hơn một chút; nếu là một bà lão, sư phụ nói ít hơn một chút, như vậy gọi là bất bình đẳng. Nếu là một bà cụ gọi điện, nói chuyện không rõ ràng, sư phụ cũng phải giúp đỡ họ một cách chu đáo. Đại chúng đối với mỗi người, mỗi việc đều phải phát ra bình đẳng từ trong tâm, như vậy mới là có đức tánh. 

2. THỰC TU LÀ CẢNH GIỚI, NGHIỆP LỰC LÀ TĂNG THƯỢNG DUYÊN

Sư phụ tiếp tục giảng cho mọi người, hãy nhớ kỹ: Theo đuổi Phật tính, nhìn thấy Phật tính, chứng kiến Phật tính. Phật tính chính là nhìn thấy bản tính của Phật, chỉ khi theo đuổi đến cùng thì mới có thể nhìn thấy, sau đó mới chứng kiến được Phật tính. Ví dụ một cách không chính xác lắm: Theo đuổi bạn khác giới cũng giống như vậy. Đầu tiên nghe nói cô gái này lương tâm rất tốt, sau đó gọi điện hẹn cô ấy đi chơi, đó chẳng phải là theo đuổi sao? Khi gặp rồi thấy cô ấy thật sự hiền lành. Đến khi quen biết, nhận được sự giúp đỡ từ cô ấy, cảm thấy vui vẻ, đó chính là chứng kiến.

Tiếp theo, sư phụ sẽ giảng với mọi người về có công đức và không có công đức. Nhiều người thích nói: “Bạn làm việc này công đức vô lượng.” Sư phụ đã giảng cho quý vị, thế nào là có công đức. Nếu quý vị nói mình có công đức, tức là quý vị không có công đức. Nếu quý vị nói mình không có công đức, tức là quý vị có công đức. Bị người khác khen một câu: “Ôi, công đức vô lượng”, quý vị vui mừng khôn xiết. Thế là công đức tiêu tan. Có công đức tức là không có công đức, không có công đức tức là có công đức. Sư phụ nói với quý vị: “Công đức không thể tùy tiện nói ra, những thứ chân thật đều không nên nói nhiều. Cần tôn kính sư phụ, cần tôn sư trọng đạo, siêng năng tu luyện, những điều này đều là có công đức.

Sư phụ nói rồi: “Chỉ cần sư phụ còn sống một ngày, sư phụ nhất định sẽ hoằng dương Phật pháp, cứu độ tất cả những người hữu duyên trên toàn thế giới.” Đây chính là nguyện lực của sư phụ. Quý vị có dám ngày ngày ở trước mặt Quán Thế Âm Bồ tát nói như vậy không? Sư phụ mỗi ngày đều nói với Quán Thế Âm Bồ tát rằng “Quý vị muốn cứu độ tất cả những người hữu duyên trên thế giới.”. Sư phụ có thể dùng sinh mệnh bản thân để phát nguyện Hoằng pháp. Nguyện lực càng lớn công đức đạt được càng lớn; nguyện lực càng lớn sự hồi đáp càng lớn. Quý vị có biết pháp lực của thầy hiện tại lớn như thế nào không? Đây chính là nhờ công đức mà có. Cứu người càng nhiều, nguyện lực càng lớn pháp lực và công đức của quý vị đều sẽ tỉ lệ thuận mà tăng trưởng.

Tu tâm tu hành chính là cần tu vũ trụ trong tâm của mình. Nếu quý vị không có trải qua thực tu và thực chứng, có nghĩa là nếu như quý vị không có trải qua tu tâm thật sự và nghiệm chứng quả đạt được sau khi tu tâm, quý vị chỉ cảm giác mình tu thành công rồi, thế quý vị vẫn đang giới hạn trong chữ “lý”, giới hạn ở đạo lý trong miệng, mà không có thực hành thực tế.

Người chỉ tu pháp môn mà không tu tâm là càng tu càng chấp trước rơi vào ma đạo mà không biết. Ví dụ một người nào đó đã nói: Người này có thể nhìn thấy rồi, người kia có thể nhìn thấy rồi, tôi tốt nhất cũng có thể được nhìn thấy. Pháp có 2 loại: 1 loại là Phật pháp; vẫn có 1 loại là ma pháp. Người chỉ tu pháp quý vị có thể biết là Phật pháp hay Ma pháp không? Nếu tu không đúng Phật pháp thì chẳng phải là rơi vào Ma pháp sao? Quý vị tu Ma pháp rồi, thì làm sao có thể đạt được Phật pháp ? Chánh hay Ma chỉ cách nhau 1 ranh giới rất mỏng manh. Ví dụ chiếc đồng chạy không đúng giờ thì không phải đồng hồ tốt. Cho nên nhất định cần tu tâm ,không thể chỉ tu pháp.

Chưa đạt đến chỗ rốt ráo. Nếu như tu tâm vẫn chưa đạt đến chỗ rốt ráo, chính là vẫn chưa tu được Chánh, vẫn chưa tu đến tận cùng, tâm của quý vị đã biến đổi, thậm chí đã đánh mất tâm của mình rồi. Cái quý vị cần tìm là tâm thất lạc, nếu không quý vị vĩnh viễn phải ở trong lục đạo luân hồi. Một người tại sao rất thích 1 loại người cụ thể nào đó, đó là vì trong đó có sự si mê. Mê không có gì là sai, nhưng nếu mê quá mức rồi chính là si mê, thì tìm không được bản thân chân chánh rồi. Sư phụ khuyên quý vị đừng đánh mất tâm đã bị lạc lối của mình.

Trên thực tế tu tâm so với tu pháp càng quan trọng. Tu pháp là thứ bề mặt. Ví dụ trong miệng giảng từng bộ từng bộ Phật pháp, nói Pháp môn này tốt pháp môn kia không tốt. Hôm nay đi bái chùa này, ngày mai đi chùa khác dâng hương…Nếu không tu tâm thì ngay cả những đạo lý cơ bản nhất để làm người đều không hiểu, liệu có thể thật sự hiểu Pháp không? Sư phụ mong quý vị tu tâm tốt hơn, cũng đừng chỉ làm thứ bề ngoài cho sư phụ thấy. Tu pháp không như tu tâm, bởi vì Vạn pháp duy tâm tạo. Tất cả những thứ của nhân gian có thể gọi là Pháp Nhân gian, đều là do tâm tạo thành. Tâm đang muốn thế giới này thế nào sẽ biến thành thế ấy. Đưa ví dụ: Trước đây có một số người trước khi vào cuộc họp thường nghĩ: “Hôm nay mình sẽ bị lãnh đạo phê bình rồi.” Khi bước vào phòng họp, nhìn thấy mặt người khác, họ liền cảm thấy người ta muốn đấu tố mình. Tất cả mọi thứ trên thế giới này đều là do tâm quý vị tưởng tượng ra. Quý vị hôm nay muốn kinh doanh rất tốt, trên thực tế kinh doanh hôm nay chính là tốt. Có vài người cảm giác phong thuỷ trong nhà không tốt chuyển đi chuyển lại đồ đạc, nhưng vẫn thấy không ổn, họ chính là không hiểu vấn đề đi niệm Kinh, điều tiết và cải biến phong thuỷ. Tâm của quý vị cũng là thứ rất quan trọng. Có câu nói “Phúc Nhân Chủ Phúc Địa” (ý nghĩa: người có phúc ở đất có phúc) chính là đạo lý này. Nếu tâm của quý vị  không tốt, dù ở nơi phong thuỷ tốt có tốt đến đâu, cũng không có tác dụng. Tâm tức là Pháp, Pháp tức là Tâm.

Người học pháp thường nghĩ đến việc tu ra nhiều thứ phức tạp. Thực tế, tu ra nhiều thứ phức tạp không phải là điều tốt. Chỉ có chư Phật chư Bồ tát là Chánh Pháp Vô Cực Tiên Thiên, tu ra chính là Chánh Pháp. Điều này đã vượt ra khỏi tam giới, không nằm trong ngũ hành nữa. Người học pháp muốn học những thứ này thì sẽ trở thành ma. Vì những điều này đối với họ mà nói thì quá uyên thâm . Ví dụ nói, một học sinh trung học muốn học chương trình tiến sĩ thì sẽ không thể nào học được. Nhưng nếu tôi cứ cố học, có học được không? Có thể học, nhưng sẽ học lệch lạc. Cuối cùng, sư phụ nói với Đại chúng rằng, một ý niệm, tâm thanh tịnh. Hãy giữ tâm mình bình an, mọi chuyện sẽ trôi qua.

Thành tựu trong việc tu tâm hoàn toàn phụ thuộc vào tâm địa. Người có tâm địa thiện lương mới có thể tu chánh; còn người không có tâm địa thiện lương thì dù có tu, thì cũng chỉ tu ra những thứ lệch lạc. Tại sao có người tu lương thiện mà lại sinh ra tà ác? Công phu ở tại tâm. Người tu tâm cần hiểu, phải dùng tâm để kiểm soát thiện lương, ngăn chặn tà ác, và dùng trí huệ của Phật để quán chiếu lương tâm của bản thân. Quán chiếu nghĩa là dùng đôi mắt để nhìn vào lương tâm của bản thân, xem hôm nay mình đang làm việc thiện hay việc ác? có đầy sợ hãi hay không. Hãy dùng pháp ý của Đức Phật Thích Ca để khám phá Phật thức của bản thân. Quý vị cần thường xuyên suy ngẫm: Ý thức của chư Phật và chư Bồ Tát mà tôi học có còn hiện hữu không? Việc tôi làm hôm nay có chứa đựng ý thức của chư Phật chư Bồ Tát hay không?

Ý thức chính là ý niệm. Nếu quý vị hôm nay đã làm 1 việc gì đó mà ý thức của quý vị cho rằng “Tôi làm như vậy là điều tốt, là tu tâm, là tạo công đức”, Đấy chính là có ý thức của chư Phật chư Bồ tát, gọi Phật thức. Cần chú ý trạng thái tâm của bản thân, làm bất kì việc gì, tâm đều đang động. Ý thức của người là điều khiển nhục thể của quý vị . Vì vậy, hãy nhớ rằng: Ý thức của Phật luôn hiện diện trong tâm của quý vị. Quý vị cần kiểm soát ý thức trú trong tâm mình và hành vi của tâm, động thái của tâm, cần điều tâm, chế ngự tâm, như thế quý vị có thể tịnh hoá (ý nghĩa: thanh lọc), chuyển hoá và độ hoá tâm của quý vị. Độ hoá chính là dần dần loại bỏ những thứ không tốt của bản thân. Mỗi người đều có ma trong mình, giống như mỗi người trên thân đều có tế bào ung thư vậy. Chỉ có chiến thắng ma trong chính mình, mớ có thể trở thành Phật.

3. DÙNG CHÁNH TƯ DUY BÀN VỀ QUÁN TƯỞNG

Rất nhiều người hỏi sư phụ, quán tưởng có nghĩa là gì? Quán tưởng là vừa suy nghĩa, vừa dùng mắt để quan sát. Quý vị biết rằng, “quán ” có nghĩa là dùng mắt để nhìn. “Tưởng” có nghĩa là dùng tâm trí để suy nghĩ. “Quán tưởng” là việc thường xuyên nhìn và suy nghĩ, tức là thường xuyên quan sát, thường xuyên suy tưởng. Vậy, chúng ta nên suy nghĩ về điều gì? Không phải bảo quý vị nghĩ về bản thân mình, không phải quý vị nghĩ về cách làm sao để phát tài, cũng không phải khuyên quý vị nghĩ về làm sao để cuộc sống tốt đẹp hơn. Mà là muốn quý vị nhất tâm quán tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát. Thường quán thường tưởng, việc tu dưỡng năng lực quán tưởng rất quan trọng. Thế nào gọi là tu dưỡng năng lực quán tưởng? Chính là phải bồi dưỡng một khả năng – bất cứ lúc nào cũng có thể nghĩ đến Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, đã trở thành một năng lực rồi. Sư phụ chỉ cần khởi niệm quán tưởng đến Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài liền hiện ra trước mắt. Đó chính là kết quả của sự tu dưỡng. Thầy mong quý vị thường xuyên thực hành quán tưởng như vậy.

Sư phụ nhờ sự gia trì của Quán Thế Âm Bồ Tát, năng lực của Sư phụ hiện nay đã rất lớn. Nhiều người trong mộng bị quỷ bắt, họ kêu Lư Đài trưởng cứu quý vị, lập tức liền tỉnh lại. Có vô số trường hợp như thế trong chương trình phát thanh. Sư phụ không muốn quý vị quán tưởng về thầy, mà nên quán tưởng chính mình. Thế nào gọi là quán tưởng chính mình? Chính là quán tưởng Pháp thân của mình. Quý vị có biết Pháp thân của mình là gì không? Pháp thân chính là Bồ Tát thân. Mỗi người đều có Pháp thân riêng. Pháp thân vô cùng quan trọng. Hãy soi gương nhìn xem, đây có phải là quý vị không? Đây có phải là tôi không? Tôi là như thế này sao? Rồi nhìn gương suy ngẫm: Ta là Bồ Tát. Sau đó đừng nhìn gương nữa. Hãy dùng mắt nội tại của quý vị để chiêm ngưỡng Pháp thân của chính mình – Ta là Bồ Tát. Sau một thời gian, quý vị sẽ thấy xung quanh có rất nhiều Hộ pháp thần.

Hôm nay, Sư phụ dạy quý vị những phương pháp. Thật ra, thiền định cũng như vậy. Quý vị phải nghĩ rằng: Vị Bồ Tát mà mình tin tưởng, hình ảnh Bồ Tát mình đang thấy là chân thật. Khi quý vị chăm chú nhìn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, quý vị có thể nhìn thấy không? Trên núi có một vòng tròn lớn, một quầng hào quang rộng. Dù mắt thường không thấy, quý vị vẫn phải dùng mắt nội tâm quý vị mà nói: “Quý vị thấy rồi”. Sư phụ trực tiếp dạy quý vị phương pháp này. Đã thấy chưa? Quầng hào quang đó có chuyển động không? Có chuyển động. Như vậy là quý vị đã thấy Bồ Tát. Đây chính là lòng tin. Chỉ khi ta chân thành tin tưởng, ta mới đạt được những điều này. Quý vị phải nghĩ rằng hào quang của Bồ Tát luôn linh động. Ta tin Bồ Tát là chân thật, rồi tưởng tượng Ngài đang hiện diện trên đỉnh đầu mình. Nhưng phải nhớ kỹ: Phàm phu nghiệp chướng như chúng ta, tuyệt đối không được nghĩ Bồ Tát nhập thẳng vào thân thể. Bồ Tát không thể vào được, vì thân tâm ta còn quá nhiều ô uế. Hiểu chưa? Nếu một người thanh tịnh hoàn toàn, có thể quán tưởng Bồ Tát hiện thân trong cơ thể họ. Nhưng với những người tâm còn đầy tham-sân-si, ý niệm tạp loạn, tuyệt đối không nên quán tưởng Bồ Tát hiện thân trong thân thể. Chỉ nên nghĩ Bồ tát đang ở trên đỉnh đầu mà thôi.

Quý vị thường nghe nhiều người nói “xuống cang đầu (từ “gang”, âm “cang”)” – trong huyền học gọi là “hạ giáng đầu”, tức những thứ giáng xuống. Một khi giáng trúng đỉnh đầu quý vị thì phiền phức rồi. Nhưng nếu trên đỉnh đầu quý vị tự quán tưởng Bồ Tát, đó chính là chân thật của mình. Còn thứ người ta giáng xuống cho quý vị, đó chính là “cang đầu”. Không biết quý vị có hiểu không? Hãy nhớ kỹ, Khi người ta muốn đặt thứ gì lên đỉnh đầu quý vị, thực chất thứ đó đã phiền phức rồi. Bồ Tát do chính mình tu tập hiện trên đỉnh đầu, đó mới là chân thật, chỉ cần có thể chịu đựng những “giáng đầu” không tốt này, sẽ làm cho chúng tiêu tan.

Chỉ cần trên đỉnh đầu có Phật, thì nghiệp chướng không thể giáng xuống thân quý vị. Nếu quý vị khởi niệm như vậy, khổ nạn sẽ không bám được vào mình. Đại chúng hiểu không? Bởi vì “ma” và “nạn” vốn là hai thứ không tốt. Ma bám vào người, tốt chăng? Nạn đeo vào thân, hay ho chăng? Hai thứ hợp lại, ma nạn (nghiệp chướng) ập đến, quý vị liền xui xẻo rồi. Vì thế phải luôn nghĩ, Nghiệp chướng hãy lánh xa ta. Bởi vì ta thanh tịnh, nên khổ nạn không thể xâm nhập trên thân. Mọi người hiểu rõ chưa? Quý vị phải tưởng tượng, quý vị chính là Bồ Tát. Dù Bồ Tát đang hiện trên đỉnh đầu của quý vị, nhưng hãy tưởng mình chính là Bồ tát. Mà quý vị phải tưởng tượng rằng, xung quanh ta có vô số Bồ Tát và Hộ pháp thần. Tất nhiên, tốt nhất nên quán tưởng ban ngày, đêm hôm không nên. Ngoài ra, ở Quán Âm đường có thể quán tưởng, còn nơi khác thì sư phụ không dám chắc. Nếu ở bất kỳ ngôi chùa nào, hoặc am ni cô, nếu có thờ Bồ Tát thì quý vị có thể quán tưởng; nhưng nếu không có thờ Bồ Tát, thì quý vị có phiền phức rồi, hoặc có đôi khi, việc thờ phụng loại nhân nào , sẽ mang đến cho quý vị loại quả ấy.
Phải không ngừng quán chiếu Pháp tướng của chính mình. Sư phụ tạm giảng thô thiển thế này: Ban đầu, quý vị có thể nhìn hình tướng thiện lương của mình trong gương, dần dần tưởng nhớ khuôn mặt mình, rồi nghĩ đến Quán Thế Âm Bồ Tát trên đỉnh đầu của mình. Khi đã thuần thục, hãy buông bỏ hình tướng bên ngoài, chuyên tâm quán tưởng Pháp thân, quán tưởng đến Pháp tướng của bản thân, đó chính là rất đoan trang. Mỗi người đều có thể hiển lộ khuôn mặt đoan trang. Dù là khuôn mặt đùa cợt nhất cũng sẽ trở nên nghiêm túc. Khi quý vị trầm tĩnh lại, đó chính là Pháp tướng. Còn 1 người khi điên đảo vọng tưởng, cười đùa vô độ, ấy không phải là bản tính chân thật của họ. Khi hiển lộ Pháp tướng, quý vị người sẽ không còn cười cợt tầm thường, mà tỏa ra vẻ rất trang nghiêm. Hãy quan sát tướng Bồ Tát, Ba phần mở mắt, bảy phần khép mi – đó là Bồ tát vĩnh viễn nhìn thế gian với ánh mắt như vậy. Thực ra, đó chính là dùng mắt trí huệ để nhìn cõi đời, bởi thế giới này quả thực quá đỗi khổ đau.

Phương pháp quán chiếu Pháp tướng mà Sư phụ vừa truyền dạy, rốt cuộc để đạt đến điều gì? Chính là “bách độc bất xâm” (chính là trăm thứ độc chẳng thể xâm hại). Xung quanh ta có vô số độc hại, ví như trong cuộc sống, kẻ muốn lừa gạt thường trước tiên làm cho quý vị vui vẻ, dùng lời đùa cợt khiến tâm phóng túng, đãi ăn uống, tặng quà cáp để quý vị buông lỏng cảnh giác, sau đó mới dễ bề lừa đảo. Đa phần đều như thế. Họ dùng lời nói đùa giỡn khiến tâm quý vị khai mở, bật cười, rồi sau đó dùng phương pháp của hắn để nói chuyện với quý vị. Nếu quý vị giữ vững Pháp tướng, ví dụ nói, hắn lại tiếp tục nói thế này thế kia với quý vị, thử xem quý vị sẽ bị mắc lừa hay không. Đây chính là điều cần duy trì, thế gian gọi là “uy nghiêm”. Pháp tướng chính là Pháp thân của quý vị. Nếu một người không muốn bị người khác lừa gạt, trước tiên dung mạo của họ phải trang nghiêm, đối phương sẽ không dám khinh thường. Nếu cứ ngông cuồng, không sáng suốt, tất tiểu nhân sẽ đến lừa quý vị. Kẻ gian đều có mắt tinh đời: họ nhìn ra ai dễ bị lừa. Vì vậy Pháp tướng vô cùng trọng yếu, quý vị có hiểu không ? Nếu Pháp tướng của một người không trang nghiêm, sẽ phát ra tín hiệu cho người khác cảm giác quý vị dễ bị lừa. Như một nữ nhân ít cười, rất đoan trang, tự nhiên kẻ xấu sẽ tránh xa.

Nếu quý vị quán tưởng, sẽ thấy hiện ra một số hình tướng, bao gồm hình tướng của chính mình, Bồ Tát trên đỉnh đầu, quán tưởng lâu sẽ hiển lộ một số cảnh giới. Nếu thấy là Quán Thế Âm Bồ Tát, nhiều người sẽ vui mừng: “Ôi, quý vị thấy Bồ Tát rồi!” Phải không? Hiện nay rất nhiều thính giả niệm kinh thường nói: “Vừa nhắm mắt đã thấy Bồ Tát rồi”. Nhưng nếu vị Bồ tát này không phải Quán Thế Âm Bồ Tát, mà là ma hiện tướng thì sao? Quý vị phân biệt thế nào? Nếu những cảnh tượng này hiện ra trước mắt mà không phải Bồ Tát thực sự , giống như có rất nhiều người thì thầm bên tai quý vị “Ta là Quán Thế Âm Bồ tát, ta kêu ngươi làm thế này, ngươi phải làm theo lời ta”, quý vị có tin theo không ?

Lúc này cần dựa vào hai phương pháp. Thứ nhất chính là nương tựa nơi Sư phụ của quý vị. Sư phụ để làm gì? Kỳ thực, pháp danh của Sư phụ vô cùng quan trọng, quý vị có thể xưng niệm pháp danh Sư phụ. Nếu đã quy y Sư phụ mà quý vị gọi Sư phụ, thiên thượng và địa phủ lập tức biết ngay quý vị là đệ tử của sư phụ. Còn nếu chưa làm lễ bái sư, dù có gọi Sư phụ, thì cách xưng hô “sư phụ’ này cũng chỉ là cách xưng hô tôn kính thôi, quý vị có thể tự mình nghiệm chứng điều này. Sư phụ nói một câu vô cùng quan trọng: Nếu thấy Quán Thế Âm Bồ Tát, muốn biết thật hay giả, hãy xưng niệm pháp danh Sư phụ, sau đó quan sát xem hình tướng đó có biến mất không? Nếu “Quán Thế Âm Bồ Tát” đó biến mất, tức là giả; nếu “Quán Thế Âm Bồ Tát” vẫn hiện diện, đó chính là chân thật. Bởi quý vị đang tu học Tâm Linh Pháp Môn do Sư phụ truyền dạy, cũng chính là Pháp Môn Tâm Linh của Quán Thế Âm Bồ tát , nên Quán Thế Âm Bồ Tát đương nhiên không rời đi. Đó là lý do Sư phụ dạy quý vị phương pháp này. Đại chúng đã rõ chưa?

Phương pháp thứ hai chính là vận dụng Chánh tư duy của quý vị. Chánh tư duy kỳ thực chính là Chánh trí huệ. Dùng trí huệ để phân biệt những lời đối phương nói. Ví dụ, có thính giả Mạch Khảo từng nghe trong tai có tiếng nói: “Ta là XXX”. Cũng thường có nhiều thính giả thưa với Sư phụ: “Quý vị nghe Quán Thế Âm Bồ tát nói chuyện rồi?”. Vậy Quán Thế Âm Bồ tát đã nói gì? Có người kể với Sư phụ rằng Quán Thế Âm Bồ tát bảo họ xuống tầng dưới chơi, nói dưới đó đông người, chơi vui lắm. Quý vị có đủ trí huệ để nhận ra vấn đề không? Nghe câu này, quý vị có nghĩ đó thực sự là Quán Thế Âm Bồ tát? Nếu tâm trí quý vị mê muội, bị hắn khống chế rồi, thì quý vị cũng nhảy xuống thôi. Đây chính là lý do vì sao tu tâm tu đến 1 mức độ nào đó, rất nhiều người rơi vào tình trạng tẩu hỏa nhập ma, lý do là như vậy. Bởi họ không phân biệt được đâu là Chánh Phật Pháp, đâu là Giả Phật Pháp. Như Sư phụ thường dạy: Mê tín không phải chánh tín.

Thực tế, Phật pháp tuyệt đối không thể mê tín. Phật pháp là chánh tín, chính là PHật pháp về chân lý giáo dục quý vị , giúp đỡ quý vị . Một vị Pháp sư từng khai thị: “Phật pháp bản chất là nền giáo dục, là đạo lý”. Hãy ghi nhớ: Chân lý chân chính luôn mang tính giáo dục. Muốn quý vị người hướng thiện, có cần giáo dục không? Muốn chữa lành vết thương tâm hồn, có cần giáo huấn không? Khi đứa trẻ phạm lỗi, nghĩ không thông rồi, trong quá trình sư phụ giúp họ phản bổn quy chân (chính là trở về với chân thật nguyên sơ), chẳng phải đang giáo hóa sao? Kỳ thực, tôn giáo có thể xem là nền giáo dục, cũng là liệu pháp chữa lành tâm bệnh. Nhiều người thốt lên: “Đài trưởng ơi, ngài còn giỏi hơn bác sĩ tâm lý”. Bởi lẽ, những người từng muốn tự sát, bệnh nhân ung thư tuyệt vọng, khi đến gặp Sư phụ trong đau khổ, chỉ cần trò chuyện nửa giờ hay một giờ, rời đi với tâm an lạc. Đó là vì mỗi chúng sanh vốn sẵn có nguồn năng lượng đặc biệt, nguồn năng lượng này trên thực tế chính là nguyên linh của Bồ tát. Sư phụ chỉ khơi dậy nguyên linh ấy, giúp họ tự chống chọi bệnh tật, buông bỏ toàn bộ các thứ ô uế và không tốt, toàn bộ quên đi. Bất cứ ai làm được như vậy, người ấy chính là hiện thân của Bồ Tát.

Vừa rồi đã giảng về dùng trí huệ phân biệt thật giả của hình tướng. Nếu âm linh bảo quý vị hành hạ thân thể, những điều phi lý ấy tuyệt đối không nên làm. Khi ấy, vong linh đã bảo Mạch Khảo “ngươi không được đứng dậy”, nên anh cứ thế ngồi xổm, ôm bụng đau đớn. Lúc đó trong văn phòng Sư phụ, anh thốt ra câu khiến Sư phụ lập tức nhận ra không phải lời của Mạch Khảo. Sư phụ dùng ý niệm nói với vong linh: “Ngươi đừng hành hạ hắn nữa. Hãy buông tha, tha thứ cho lỗi lầm của hắn. Ta sẽ bảo hắn chuyên tâm niệm kinh siêu độ cho ngươi.” Ngay lập tức, miệng Mạch Khảo nói: “Đài trưởng, hắn bảo không dễ dàng thế đâu. Hắn sẽ không bao giờ rời bỏ con.” Bạn của Mạch Khảo lúc đó cũng chứng kiến. Sư phụ khuyên quý vị nên chân thành tin tưởng những sự thực này.

Sư phụ tiếp tục khai thị: Nếu hình tướng đó bảo quý vị làm việc gì, chỉ nên thực hiện khi hợp đạo đức. Bởi chư Phật, Bồ Tát không bao giờ dạy người làm điều phi nghĩa. Nếu có tiếng nói xúi giục hành ác, tuyệt đối không phải đến từ Bồ Tát. Phải dùng trí huệ để đối trị những hiện tượng này – điểm then chốt vô cùng quan trọng. Mặt khác, cần quán tưởng bản thân và Bồ Tát là nhất thể. Vậy muốn quán tưởng hoà hợp cùng Bồ tát, có phương pháp nào tốt không? Kỳ thực lúc này chính là lúc quý vị trì chú. Nói cách bình dân, trì chú chính là niệm kinh. Khi niệm Kinh mà tâm tưởng hòa hợp cùng Bồ Tát, ấy gọi là trì chú. Vừa đồng hành cùng Bồ Tát, vừa chuyên tâm niệm Kinh, tâm của quý vị sẽ lắng lại, quý vị sẽ dần nhập vào cảnh giới định. Sau khi tu tâm nhập định, mọi vọng niệm đều tiêu tan, đầu óc trống rỗng. Sư phụ hỏi quý vị: Trong trạng thái “định” này, có còn tồn tại “niệm” không? Khi tâm đã định, trong ấy có còn khởi lên ý tưởng? Cái “không” của phàm phu thực chất chỉ là “giả không”. Sau khi tu luyện đến mức tâm thức hoàn toàn trống rỗng, bề ngoài dường như không khởi niệm, nhưng thực tế vẫn còn tồn tại vi tế.

Niệm khởi lên sau khi tâm định và niệm khởi lúc tâm chưa định là hai khái niệm hoàn toàn khác biệt. Ví như người mẹ hiểu rõ quý vị mình muốn gì, bà ấy có cần phải hỏi han gì nữa không? Mẹ biết ý quý vị, nhưng quý vị chẳng thể hiểu hết ý mẹ, phải không? Cách tốt nhất chính là đừng nghĩ. Nhưng sau khi “không nghĩ”, thật sự có còn nghĩ không? Không nghĩ, có niệm hay không? Có niệm – “Vô tưởng hữu niệm”. Nhiều người cố gắng không suy nghĩ, nhưng niệm vẫn tự nhiên hiện ra – đó chính là “niệm”. Chẳng hạn, khi quý vị ngồi thiền, mong cầu tĩnh lặng, muốn dứt bặt mọi suy nghĩ. Vừa nhập tọa, chưa kịp nghĩ gì, trong đầu đã vang lên: “Đừng nghĩ, không, không, không!” – thế mà khởi niệm cứ lần lượt hiện ra.

4. ĐOẠN TRỪ NGHIỆP LỰC, TƯ DUY SAU KHI ĐỊNH

Sư phụ tiếp theo sẽ giảng cho mọi người về tư duy sau khi định và tư duy trước khi định, trong đó tư duy trước khi định là khi ta chưa an định, ví dụ như khi xảy ra một việc gì đó ta sẽ rất lo lắng, buồn bã, liên tưởng đủ điều, rồi những suy nghĩ bất chợt loé lên ấy, chắc chắn không chín chắn và sẽ gây ra hậu quả xấu nhất định. Còn tư duy sau khi định là khi mọi thứ đã được suy nghĩ thấu đáo, đều nghĩ đúng đắn, đều nghĩ thông, nhìn thấu, buông bỏ, về bản chất cùng với tư duy trước khi định có khác biệt, lúc này quý vị tiếp tục suy nghĩ, những niệm khởi lên của quý vị thì gọi là tư duy sau khi định

Tư duy chính là tiếng nói phát ra từ trí huệ mà trí huệ càng lớn thì tư duy của quý vị càng sâu sắc. Ví dụ: nếu quý vị là một con ngựa, tư duy của quý vị không có trí huệ thì chỉ biết nghe tiếng có người huýt sáo, thì đó là chủ nhân đến rồi, bất luận là ở đâu, thì sẽ lao đầu chạy đến, bởi vì nó không có trí huệ, mà con người là có trí huệ. Tư duy phát xuất từ âm thanh của trí huệ phát ra, mà âm thanh này chính là âm thanh của tâm niệm, trong tâm. Quý vị nói, ai trong lòng mà chẳng từng mắng người, không từng nói gì cả sao? Khi người khác mắng quý vị, trong lòng quý vị nhất định sẽ lên tiếng. Ví dụ như khi bị chồng quý vị ức hiếp, trong lòng quý vị sẽ mắng anh ta, vì lúc đó quý vị không còn sợ gì nữa. Bởi vì quý vị dùng trí huệ trong tâm, dùng tư duy sau khi đã định để đối mặt với cuộc đời, cho nên quý vị không còn sợ hãi gì cả. Quý vị tự tại, mọi việc đều không còn ngăn ngại. “Mọi việc không ngăn ngại” có nghĩa là con đã nhổ bỏ hết những hòn đá cản đường, đã dọn sạch mọi chướng ngại, thì mới có thể đạt được trạng thái an định. Khi tâm đã định, những ý niệm khởi lên gọi là Chánh niệm; còn khi tâm chưa định mà ý niệm khởi lên thì đó gọi là tạp niệm.

Nếu quý vị nhìn thấu và buông bỏ hết thảy mọi thứ trên thế gian, hiểu rõ được đạo lý này, thì trên thực tế quý vị sẽ có thể an định, sẽ bước vào cảnh giới gọi là “Như như thật tướng”. Vậy “như như thật tướng” là gì? “Thật tướng” nghĩa là một thế giới có hình tướng thật sự tồn tại. Nhưng khi thêm chữ “như như” vào, thì cái “thật tướng” đó cũng không còn là thật nữa. “Như như” nghĩa là dường như là một thế giới thật tại, nhưng thực chất, thế giới này có thật sự tồn tại không? Chắc chắn là không. Thế giới này là không.

Quý vị phải nắm được tính chân thật của Pháp giới. Pháp giới là thật, còn thế giới là giả, ngay cả “thật tướng” cũng là giả. Sư phụ từng giảng rằng: quý vị nhất định phải nắm lấy Pháp giới này trong thế gian này. Dù đang sống ở nhân gian, quý vị cũng có thể nói rằng Pháp giới và tu vi mà quý vị nắm được, pháp giới quý vị tu được là không. Nhưng trên thực tế, Pháp giới này tồn tại chân thật trong thế gian, điều đó cho thấy quý vị đã tu đến một trình độ nhất định rồi. Tuy nhiên, nếu quý vị thật sự muốn siêu thoát khỏi Tam giới, thì ngay cả pháp cũng là “không”. Ví dụ như sư phụ hiện nay có một Pháp thân. Khi sư phụ để Pháp thân hiện ra ở đây, quý vị có thấy sư phụ không? Thấy chứ. Vậy sư phụ thật sự có mặt ở đây, Pháp thân cũng ở đây. Quý vị thấy rồi, vậy đó có phải là giả không? Đó là Pháp thân phải không? Trong thế gian, như vậy đã là rất cao rồi. Nhưng nếu thật sự vượt khỏi Tam giới, thì ngay cả thân đó cũng là giả, hoàn toàn không còn gì nữa. Cho nên, Phật pháp là chân pháp giúp hiểu rõ chân tướng của vạn vật trong vũ trụ. Nếu quý vị nắm được tính chân thật của nó, giữ vững lý niệm không buông, tức là kiên trì tu tâm, thì gặp bất cứ vấn đề gì cũng có thể giải thoát. Ví dụ như trước khi quý vị gặp được sư phụ, quý vị rất sợ hãi đủ thứ trên đời, trong nhà chuyện không ngừng xảy ra, không biết ngày mai còn chuyện gì nữa. Nhưng hôm nay, quý vị đã gặp được sư phụ rồi, gặp được pháp môn này của sư phụ, quý vị hiện tại trở nên an vui. Vậy giờ quý vị còn sợ hãi nữa không? Bây giờ, bất kể gặp chuyện gì, điều đầu tiên quý vị nghĩ là tìm đến sư phụ, “sư phụ sẽ giúp mình giải quyết”. Sư phụ kể ví dụ này không phải để quý vị cứ đi tìm sư phụ, mà là để nói rằng: Sau khi quý vị nhận ra được tính chân thật của thế giới này, quý vị không còn sợ gì nữa rồi. Bởi vì quý vị đã nắm được pháp môn chân chánh, chỉ cần kiên trì đi tiếp, chẳng phải mọi vấn đề đều được giải quyết rồi sao? Vì vậy, kiên trì lý niệm là điều vô cùng quan trọng. Khi gặp vấn đề, quý vị sẽ có thể giải thoát, không sợ hãi, mà còn tự tại.

Sư Phụ tiếp tục giảng về cảnh giới “Nhất thiết vô ngại”. Tất cả chúng sinh và vạn vật trong thế giới đều tồn tại trong trạng thái “hữu ngại” – tức là có chướng ngại, có cản trở. Ví dụ, trong nhân gian, thường gặp phải: thân thể bệnh tật, đồ đạc hư hỏng, mọi việc quý vị muốn làm đều gặp trở ngại. Nhưng khi đạt đến cảnh giới “vô ngại”, nghĩa là mọi việc ta làm đều không còn chướng ngại, theo ngôn ngữ thế gian gọi là “một đường thuận buồm xuôi gió”. Khi đạt đến trạng thái thuận lợi, không chướng ngại này, chính là lúc ta thực hành Phật pháp Đại thừa. Phật pháp Tiểu thừa chú trọng tự độ bản thân, trong khi Phật pháp Đại thừa nhấn mạnh việc cứu độ chúng sanh. Ví dụ: Nếu sư phụ thường xuyên giúp đỡ người này, giúp đỡ người kia, sư phụ đều tận lực đi giúp đỡ tất cả bạn bè ,những người này ở trong nhiều cương vị khác nhau như bác sĩ, luật sư, quan chức… thì khi sư phụ cần làm việc gì, liệu có gặp chướng ngại không? Khi sư phụ đã cứu giúp nhiều người như thế, những người đó sẽ quay lại hỗ trợ sư phụ, như vậy còn chướng ngại nào có thể cản trở sư phụ không? Đây chính là Phật pháp Đại thừa. Cứu độ càng nhiều chúng sanh, công đức càng lớn, phước báo nhân thiên của quý vị càng dày, và mọi việc làm đều trở nên thuận lợi vô ngại.

Sư Phụ nói với quý vị, nhất định phải nhớ rằng: Nếu quý vị có trí huệ, quý vị sẽ đạt được vô ngại. Vô vi, có nghĩa là không có hành động, không làm gì cả, không can thiệp vào mọi việc. Vô vi giúp quý vị đạt đến một cảnh giới khác. Cảnh giới này là gì? Đó chính là khai giải. Khai giải có nghĩa là gì? Khi quý vị đối diện với một vấn đề, quý vị sẽ giải quyết nó. Khi gặp khó khăn, quý vị có thể giải quyết ngay, thì không còn vấn đề gì nữa rồi. Khi quý vị tiếp tục gặp phải vấn đề thì sao?  Khi quý vị thường xuyên đối diện được vấn đề khai giải rồi, sau đó vô ngại rồi, có trí huệ rồi, thì dần dần toàn bộ linh hồn của quý vị chuyển hoá rồi. Sau khi chuyển hóa, quý vị sẽ đạt đến một cảnh giới cơ bản, gọi là lý ngộ, tức là thông qua lý luận mà ngộ ra đạo lý. Đó là sự ngộ theo lý thuyết, nhưng chưa phải là sự khai ngộ chân chánh. Sự khai ngộ chân chánh là rất khó đạt được. Từ một góc độ khác mà nói, quý vị có thể lý giải vấn đề từ trên lý luận, quý vị ngộ ra đạo lý, nhưng quý vị vẫn chưa ”hành” được. Cho nên, việc tu tâm và tu hành là hai việc khác nhau. 

Tiếp theo, Sư phụ sẽ giảng giải cho Đại chúng về “thần thông” trong nhân gian. Chẳng phải ở nhân gian ai cũng có một phần thần thông sao? Sư phụ có thần thông, điều này Đại chúng đều biết. Thế còn quý vị, có thần thông không? Thần thông thực ra ai cũng có. Có thể biết người khác đang nghĩ gì — đó chính là một loại thần thông. Biết con mình hôm nay muốn ăn gì — cũng là thần thông. Biết rằng hôm nay mình thuyết pháp, bên dưới có người đang lắng nghe hay không, hoặc Đại chúng có ai sẽ đứng lên bỏ đi — đó cũng là thần thông. Thần thông lực còn được gọi là “đạo bối xả”.Vậy “bối xả” là gì? Nghĩa là dù là ác duyên hay thiện duyên, quý vị đều có thể đạt được giải thoát. Việc tốt đến rồi, thiện duyên đến, ta có thể giải thoát. Việc xấu đến rồi, ác duyên đến rồi, ta cũng có thể giải thoát. Trên thực tế, thiện duyên cũng chưa hẳn là điều tốt, bởi sau khi thiện duyên đến rồi, thường sẽ kéo theo ác duyên. Ví như khi yêu nhau — đó là thiện duyên, hai người thể non hẹn biển, vô cùng hạnh phúc. Nhưng sau khi kết hôn, dần dần có thể biến thành ác duyên, hai người xung đột, cãi vã, tổn thương. Chỉ khi cả thiện duyên và ác duyên đều đạt được giải thoát, thì con người quý vị mới chân chánh bước vào con đường giải thoát.

Thần thông phải biết buông bỏ. Thần thông của Sư phụ và thần thông Sư phụ đang giảng cho quý vị là khác nhau. Thần thông của quý vị chính là nói quý vị có năng lực này, có thần lực này, có thông lực này, muốn làm mọi việc trong thế gian thuận lợi hơn. Còn cái mà sư phụ muốn giảng là thần thông. Quý vị có thể buông bỏ phiền não của mình không? Vừa thấy phiền não đến tay chân đã hoảng hốt, không biết xử lý thế nào, chỉ biết khóc lóc. Sư phụ từng nói với thính giả một câu: “Con muốn hiểu chân tướng của thế giới này không? Nước mắt của chính con đang giúp con nhận ra chân tướng của thế giới này đó. Bởi vì mỗi lần con rơi nước mắt, thực chất không phải con bị lừa gạt thì cũng là bị thiệt thòi, hoặc đau khổ buồn phiền, từ đó con hiểu ra rằng hoá ra thế giới này ô trọc như thế, thế giới này thật bất lực, thế giới này trói buộc và lôi kéo ta đi. Đó chính là con đang dần dần nhận thức được tính chân thật của thế giới Ta-bà này.”

Hiện tại, những điều Sư phụ đang giảng cho quý vị cũng chính là đạo lý này. Muốn đạt được giải thoát, thì phải biết buông xả phiền não của chính mình, phải biết cắt đứt sự ràng buộc của nghiệp lực. Sự ràng buộc của nghiệp lực rất phiền toái. Ví như, Rõ ràng là điều mình không muốn, nhưng lại cứ phải có cho bằng được; Rõ ràng là không muốn nhìn, nhưng vẫn không kiềm được mà nhìn; Rõ ràng là người yêu mình, lại phải rời xa; Rõ ràng tiền đã gần trong tầm tay, cuối cùng vẫn chẳng giữ được. Quý vị biết không, có rất nhiều câu chuyện liên quan đến xổ số. Ví dụ, có người mua hai tờ vé số, rồi tặng một tờ cho hàng xóm bên cạnh. Không ngờ, sau khi xổ số, hai nhà trở thành kẻ thù. Vì người hàng xóm sau khi trúng số,không chia cho anh ta dù chỉ một đồng. Từ đó về sau, trên khuôn mặt anh ta không còn nụ cười. Quý vị cũng vậy thôi. Nếu mua vé số rồi tặng người khác, mà người ấy trúng mười triệu, chắc chắn quý vị cũng sẽ thấy khó chịu suốt nửa tháng. Cho dù là người có tu hành công phu đi nữa, ít nhất cũng phải mất một tuần để nhắc không ngừng về việc này. Hễ gặp ai cũng kể lể, đó chính là một hình thức phát tiết, cũng chính là để bày tỏ nỗi lòng, lấy phiền não trong tâm cần nói ra, nhưng cũng đồng thời là một loại phiền não.

Con người ngày nay, khi trong lòng có điều không vui, lại muốn người khác cũng không vui theo mình, đó gọi là sức cảm nhiễm. Hôm nay tôi không vui, tôi liền kể cho hết người này đến người khác nghe, nói đến mức ai cũng vì tôi mà thấy buồn theo. Quý vị nhìn xem, lòng vị kỷ của con người hiện nay đã sâu đậm đến mức nào? Những điều Sư phụ giảng cho quý vị đều là Phật pháp trong nhân gian. Quý vị nhất định phải ghi nhớ: dù trong hoàn cảnh nào cũng không được để mình bị nghiệp lực ràng buộc, phải nỗ lực để đạt được giải thoát. Vậy nghiệp lực là gì? Hôm nay, khi tai họa xảy đến, thực chất đó chính là nghiệp chướng của quý vị trổ hiện. Hiện nay, quý vị đã trở nên sáng suốt hơn, có thể niệm kinh, có thể tu tâm, có thể giải thoát phần nào phiền não thế gian.Nhưng vấn đề là quý vị vẫn cần phải buông xả triệt để. Khi quý vị niệm kinh, nhưng trong đầu vẫn nghĩ đến những nỗi khổ ấy. Khi muốn buông bỏ những điều đó, quý vị phải dứt khoát mà buông, rồi thêm vào việc niệm kinh để hoàn trả nghiệp, thì mới có thể thành tựu. Vấn đề là quý vị niệm kinh một bên, mà trong đầu vẫn không thể dứt được.

5. PHÁP HỶ CHUYỂN HÓA, CHIẾN THẮNG DỤC VỌNG

Hiện tại, Sư phụ chỉ dạy Đại chúng vài phương pháp giúp buông xả và quên đi. Thứ nhất là tu hành — dùng sự tu tập để giúp quý vị quên đi, buông xả những phiền não của nhân gian. Những gì Sư phụ giảng cho quý vị đều là vấn đề thực tế, là những điều cần được giải quyết ngay trong đời sống này. Thứ hai gọi là bái sám, tức là bái Bồ Tát, sám hối. Thật ra, bái sám là việc rất tốt “Quán Thế Âm Bồ Tát, xin Ngài hãy tha thứ cho con, con đã làm sai rồi. Xin Ngài hãy cứu giúp con, từ nay về sau con nhất định không tái phạm nữa”. Thứ ba là gia trì. Gia trì thật ra rất đơn giản. Sư phụ yêu thương các chúng sinh hữu duyên, và Sư phụ có pháp lực để gia trì cho quý vị. Đồng thời quý vị cũng có thể khẩn cầu Quán Thế Âm Bồ Tát gia trì cho mình. Thứ tư là trí huệ — ở đây là trí huệ do tu hành mà có, sau định mới sinh ra được trí huệ này. Muốn buông bỏ những dây dưa từ nghiệp lực, trước tiên phải tiêu trừ nghiệp chướng. Nghiệp chướng càng nhẹ, quý vị sẽ càng dễ buông xả các sự ràng buộc. Khi trên thân còn đầy nghiệp chướng, thì rất khó buông bỏ những phiền não. Thứ năm là tu hành đạt đến nhân duyên nhất định, tức là khi quý vị đã tu hành đến một trình độ và cảnh giới nhất định, mới có thể thật sự buông xả những ràng buộc bất thiện. Lúc ấy, quý vị sẽ cảm ứng được với những vị Bồ Tát và Hộ Pháp khác nhau. Khi muốn buông bỏ những nghiệp chướng trên thân quý vị hoặc những điều trong lòng mà quý vị vẫn chưa thể xả ly, thì hãy cảm ứng với Quán Thế Âm Bồ Tát. Khi quý vị khẩn cầu Bồ Tát và chư vị Hộ Pháp gia hộ, nhất định phải giữ cho tâm thanh tịnh, tuyệt đối không được mang theo bất kỳ tạp niệm hay tâm tổn hại người khác.

Tiếp xúc chân chánh với Đức Phật, Bồ Tát là điều tốt. Nhiều người hỏi: “Con mơ thấy Quán Thế Âm Bồ Tát có tốt không?” Tốt. Nhiều người đến Quan Âm đường, vừa thấy Sư phụ Lư Đài Trưởng ngoài cửa đã vui mừng khôn xiết. Khi chân chính tiếp xúc Phật pháp, tâm con tự nhiên hoan hỷ. Sư phụ khai thị thêm: Nếu quý vị được gặp chân Phật, đại Phật, đại Bồ Tát hay cao tăng đại đức, cảnh giới tu tâm của quý vị sẽ nâng cao rất nhanh. Như hôm nay quý vị đang tu tâm, Sư phụ gia trì, giảng Phật pháp cho quý vị, các quý vị tu hành mau tiến, đúng không? Ngược lại, nếu người bình thường gặp phải linh thể cảnh giới thấp, khi quý vị cầu xin, chúng sẽ hóa thân thành hình tướng Bồ Tát quý vị ưa thích để dụ dỗ, sau đó sẽ khống chế quý vị, thậm chí tà linh nhập thân. Gặp được minh sư, quý vị phải trân quý! Linh thể có thể giả dạng đủ hình tướng Bồ Tát để lừa gạt quý vị. Vì trí huệ chưa đủ, quý vị dễ tin theo; vì không phân biệt thật giả, nên bước vào lầm lạc. Ví dụ khi sức khoẻ không tốt rồi, bệnh tình nguy cấp, quý vị cầu khắp nơi mà không biết thật giả, sau khi lạc vào mê lầm, việc quý vị làm là tà hạnh, pháp quý vị học là tà pháp, sau đó quý vị đã bước vào con đường Tà Đạo. Mọi người đều biết có rất nhiều Đạo, rất nhiều người đi lạc ở đây, có người tẩu hỏa nhập ma. Chuyện của linh giới một khi sai lầm thì cực kỳ nguy hiểm. Đừng tùy tiện! Tự cho mình học được chút ít rồi nghe ngóng khắp nơi. Không có minh sư dẫn đường thật đáng thương!

Hiện giờ quý vị còn đang trong trạng thái thanh tịnh, Sư phụ đem pháp môn tâm linh thù thắng nhất của Quán Thế Âm Bồ Tát trực tiếp truyền dạy cho quý vị, đây là điều vô cùng quý báu. Nếu một người trong quá khứ đã học quá nhiều pháp môn khác nhau, thì khi bắt họ phải thay đổi, họ sẽ cảm thấy rất mệt mỏi. Đôi khi đầu óc họ không chuyển kịp, phải hỏi rất nhiều vấn đề. Cùng một vấn đề, nếu quý vị theo học với Sư phụ, Sư phụ vừa nói đến đâu, quý vị sẽ thuận theo dòng tư duy ấy mà tiếp nhận; còn những người từng học nhiều nơi khác, họ sẽ vừa phải nghĩ đến điều Sư phụ đang giảng, lại vừa phải so sánh với những gì mình đã học trước đây, như vậy trong đầu họ phải chạy theo hai con đường. Nếu một người từng học pháp môn, người ấy gom hết ba pháp môn đã học trước đây để suy nghĩ cùng một lúc — trong tâm liền xuất hiện ba ngã rẽ. Họ sẽ nghĩ rằng: “Giáo lý Tây phương chẳng phải đâu có dạy như vậy? Pháp môn Tịnh độ chẳng phải cũng không nói thế? Thiền tông chẳng phải cũng không giảng như vậy sao?” càng học nhiều pháp môn, suy nghĩ càng nhiều. Sư phụ đưa ra ví dụ: giống như ngày nay có quá nhiều quan chức, bộ phận chồng chéo, một việc cần đóng hơn một trăm con dấu xong xuôi mà cuối cùng vẫn chưa bắt tay vào làm được gì. Có đúng không? Tư duy của quý vị cứ xoay vần mãi như vậy, làm sao có thể thoát ra được? Cho nên, tuyệt đối không được làm việc tà, không được học theo tà pháp. Nhất định phải giữ cho mình luôn chánh! Vì vậy Sư phụ mới dạy quý vị không nên chạy theo thần thông. Không thấy gì, không nghe gì, không sao cả. Tôi tu tâm đến hôm nay, Thầy tôi có thể thấy được, nghe được, còn tôi chẳng thấy chẳng nghe gì cả — vậy thì có gì đáng xấu hổ? Quý vị là đệ tử của Sư phụ, đều là Hộ pháp, được người khác vô cùng kính trọng. Đừng chạy theo những điều đó, chỉ cần nội tâm bình lặng, an nhiên là đủ rồi. Khi trong tâm có được sự bình lặng và an nhiên, quý vị sẽ có thể chuyển hóa thành pháp hỷ, từ đó đạt được thành tựu của pháp hỷ chuyển hóa. Một người có thể giữ cho nội tâm mình được bình an, tĩnh lặng — thật là điều chẳng dễ dàng gì. Dù có gặp phải chuyện gì, đều không quan trọng, nhìn thấu được, thì tự nhiên sẽ ngủ ngon.

Tu hành, điều quan trọng nhất chính là tu tâm.Phải thường xuyên nhắc nhở mình rằng: tu hành chính là tu tâm — phải tu sao cho tâm mình trở nên an tĩnh, ôn hòa, không tham cầu, không chấp trước.Chúng ta đến nhân gian là để trả nghiệp, là để chịu khổ. Chịu chút khổ có là gì đâu? Nghĩ được như vậy, thì tâm sẽ trở nên an ổn, lòng không còn sân hận hay tập khí xấu nữa. Không tham thì không phiền não. Bởi vì tham là nguồn gốc của phiền não. Chấp trước chính là: “Tôi nhất định phải làm việc này, không làm thì không được. Nhưng quý vị hãy thử nghĩ lại: nếu thật sự không làm, thì sẽ ra sao? Khi đối diện với cái chết, có người sẽ nói: “Tôi không thể chết được!” Nhưng rồi thì sao? Chết rồi cũng chính là chết mà thôi. Đừng chấp trước vào tất cả những thứ ở nhân gian, bởi vì tất cả mọi thứ nơi thế gian này đều là giả tạm. Vậy thì tại sao cứ phải vùi đầu trong đó mà không chịu thoát ra? Tại sao cứ nhất định phải đẩy chính mình vào trong ngõ cụt mà không chịu buông?

Tiếp theo, Sư phụ sẽ giảng cho đại chúng về Pháp hỷ và Giải thoát. Pháp hỷ là niềm hoan hỷ khởi sinh khi nghe được Phật pháp, vô cùng thích, cảm nhận được ánh sáng Chánh Pháp giữa cõi Ta Bà, cũng là vô cùng hạnh phúc. Pháp hỷ chính là sau khi hiểu được chân lý  thì niềm hoan hỷ khởi lên từ trong nội tâm. Khi quý vị thấu rõ chân lý, Phật tánh trong quý vị liền hiển lộ, và niềm hoan hỷ phát sinh từ đó mới thật sự gọi là pháp hỷ.Pháp hỷ là một trong những cảm ứng nhiệm mầu nhất ở nhân gian. Nếu quý vị dùng cái tâm thuần tịnh, bản nhiên nhất để cảm ứng với tất cả sự vật trong thế gian, thì tự nhiên sẽ đạt được pháp hỷ sung mãn.Nói cách khác, nếu quý vị lấy tâm của Bồ Tát để đối đãi mọi việc, thì điều quý vị nhận lại cũng sẽ đều là những điều mang phẩm chất của Bồ Tát. Sư phụ dùng tâm từ bi để đối xử với quý vị, thì quý vị nhất định cũng sẽ đối đãi tốt với sư phụ — cảm thấy vui vẻ đúng không? Đó chính là pháp hỷ.Đây chính là đạo lý của sự cho đi và nhận lại.

Giải thoát có nghĩa là buông xả được phiền não trong một mức độ và phạm vi nhất định của thế gian này. Quý vị thử nghĩ xem, có những đại phiền não không? Ví như, mất việc rồi, bị tai nạn gãy chân, hoặc có người thân qua đời — những việc như vậy thì dù muốn giải cũng không giải được, muốn thoát cũng không thoát nổi.Nhiều người hay nói: “Tôi nghĩ thông rồi, tôi đã giải thoát rồi.”Nói như vậy là sai.Quý vị có thật sự giải thoát được không? Vừa về đến nhà, những thứ không nên thấy lại nhìn thấy, phiền não lại nổi lên như cũ. Khi quý vị ở trong Quan Âm Đường, nghe Sư phụ giảng pháp, lúc đó có thể tạm thời buông xả, tạm thời giải thoát— nhưng khi về nhà, đối diện với hoàn cảnh cũ, phiền não lại trỗi dậy, thì lúc ấy quý vị giải thoát bằng cách nào? Cho nên, giải thoát trong cõi người, chính là sự giải thoát tương đối, chỉ có thể đạt được trong một phạm vi và mức độ nhất định.

Sư phụ hỏi quý vị, có thần thông có phải là điều tốt không? Có thần thông, đúng là điều tốt nhưng phải là thần thông chân chánh của chư Phật. Nếu không phải là thần thông của chư Phật Bồ Tát, thì loại thần thông đó có ích gì? Kỳ thực, đó chỉ là do bị quỷ nhập vào thân mà có. Trước đây Sư phụ từng giảng: có đến 90% các loại thần thông đều không phải là thật.
Nếu là bị quỷ nhập mà có thần thông, vậy quý vị nói xem — loại thần thông ấy liệu có thật sự tốt đẹp không? Trên thực tế, sau khi tu hành có thành tựu, quý vị sẽ có khả năng tự làm chủ chính mình. Sau khi quý vị tu hành, quý vị sẽ dần dần làm chủ được bản thân, và khi phiền não cùng nghiệp chướng tiêu trừ, tự nhiên sẽ sinh ra thần thông— đó mới là thần thông gần với cảnh giới của chư Phật. Bởi vì Bồ Tát không có nghiệp chướng, không có phiền não, là vô ngại. Chỉ khi nào giải thoát được nghiệp chướng, giải thoát được phiền não, thoát khỏi vô minh, và chánh niệm tu hành, thì cuối cùng mới có thể chứng đắc Lục Đại Thần Thông. Kỳ thực, thần thông chỉ là thành tựu phụ đi kèm quá trình tu hành mà thôi, đừng đi truy cầu thần thông. Sau khi quý vị chánh niệm tu hành, thần thông sẽ tự nhiên xuất hiện.

Sư phụ sẽ giảng lại cho đại chúng về bốn chữ ”Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Đây là những điều Sư phụ ngày ngày giảng, tháng tháng giảng, năm nào cũng nhắc đi nhắc lại.Trong Phật pháp, Từ – Bi – Hỷ – Xả được gọi là Tứ Vô Lượng Tâm. “Từ” là khi trong tâm luôn nghĩ đến nỗi khổ của người khác, mong muốn họ lìa khổ được vui; “Bi” là cảm ứng khổ nạn của người khác; “Hỷ” là khi chúng ta cho người khác sức mạnh, sinh niềm hoan hỷ trong tâm đi giúp đỡ người khác; “Xả” là xả bỏ thời gian, tiền bạc của bản thân, thậm chí sinh mạng. Sư phụ ngày ngày dốc hết tâm lực để xem đồ đằng, dốc sức giảng pháp, cứu người, quý vị nói xem, Sư phụ có cần sinh mệnh hay không? Sư phụ có đang xả bỏ chính sinh mệnh của mình để cứu độ chúng sinh không? Nhiều người nói, mấy năm gần đây Sư phụ già đi quá nhanh — đó chẳng phải là chữ “Xả” trong Từ – Bi – Hỷ – Xả hay sao? Xả tài, có cơ hội làm quảng cáo cũng không làm, có tiền cũng không nhận, tất cả thời gian đều dành cho việc cứu người.Đến cả tính mạng cũng có thể xả bỏ — đó chính là thực hành Tứ Vô Lượng Tâm. Người nào có thể tu được Tứ Vô Lượng Tâm, thì có thể sinh về những cảnh giới rất cao nơi thiên giới — đó là cảnh giới của chư Phật.Chúng ta nhất định phải kiên trì tu tập Tứ Vô Lượng Tâm.

Tiếp theo, Sư phụ sẽ giảng cho đại chúng một chút về trí huệ trong nhân gian. Chỉ khi chiến thắng được dục vọng, con người mới thật sự trở nên tự do. Nếu quý vị muốn trở thành một người tự do, thì nhất định phải vượt qua được chính những dục vọng của bản thân. Bởi vì khi quý vị còn bị dục vọng khống chế, thì vĩnh viễn không thể là một người tự do được. Bởi vì quý vị muốn mua một căn nhà, vì thế phải ngày ngày lao vào làm việc kiếm tiền, toàn bộ thời gian đều dốc vào việc kiếm tiền để trả nợ — như vậy thì làm sao còn tự do? Chính dục vọng muốn sở hữu căn nhà ấy đã điều khiển quý vị. Nghĩ thử xem, quý vị còn có thể sống một cách tự do được không? Nếu hôm nay quý vị bị một người bạn trai kiểm soát, người này nói gì quý vị cũng phải nghe theo, làm theo — vậy thì quý vị còn thời gian không? Còn tự do không? Muốn trở thành một người tự do thực sự, nhất định phải buông bỏ dục vọng của bản thân.

Khi trong tâm quý vị sinh ra ô nhiễm, thì Đạo của quý vị đi sẽ không bằng phẳng. Tâm quý vị có ô uế, thì con đường quý vị đi sẽ không chánh, không thể bằng phẳng. Bởi vì tâm của quý vị có ô uế, những việc mà quý vị nghĩ, những việc mà quý vị làm vĩnh viễn sẽ không bình thản, vì vậy mà dễ vấp ngã. Tâm người nếu thanh tịnh, đạo tự bằng phẳng, vì vậy mà an lạc. Mệnh do ta tạo, phúc do mình cầu. Vận mệnh của quý vị là do chính quý vị tạo nên, phúc khí không cần đi xin từ người khác, mà phải tự mình tích lũy, tự mình cầu được. Quý vị có phúc hay không, thực chất chính là do tự mình tạo ra cho chính mình. Một người tốt, một người có vận mệnh không tốt, quý vị nói xem — chẳng phải đều là do chính họ tự tạo ra sao? Dù cho một người có số mệnh rất khổ, nhưng nếu người ấy biết tu tâm, hành thiện, học theo hạnh từ bi, chỉ cần khởi tâm niệm kinh, thì vận mệnh cũng sẽ thay đổi. Rất nhiều người vì quá chấp trước mà không chịu sửa đổi. Sư phụ thường giảng một câu: Tính cách của một người quyết định vận mệnh của người đó trong suốt cuộc đời.Có người hay nói: ”Tôi chính là có tính cách như vậy.” Vậy thì — quý vị sẽ có đúng vận mệnh như vậy. Trong quá khứ, có biết bao đại tướng không chết nơi chiến trường, mà lại chết bởi chính tính cách của mình. Họ vô cùng dũng cảm nơi chiến trường, nhưng chỉ vì một câu nói, chết không chịu cúi đầu, cuối cùng lại bị người khác giết chết.

Cảnh giới cao nhất là gì? Hằng ngày chúng ta thường nói đến cảnh giới của con người: cao, thấp, sạch sẽ hay thanh tịnh v.v…Mỗi người đều có một cảnh giới. Vậy đại chúng thử nghĩ xem, cảnh giới cao nhất là gì? Cảnh giới cao nhất chính là không còn cảnh giới. Đại chúng phải học cho thật tốt, bởi vì những điều này đều là ngôn ngữ của trí huệ. Còn một câu nữa Sư phụ muốn chia sẻ với đại chúng: Phật là sự thăng hoa đến tột cùng của cảm tính và lý tính. Quý vị hãy suy nghĩ: Tại sao Phật có thể thành Phật? Bởi vì lý tính của Ngài vô cùng thanh tịnh, vô cùng sáng suốt, và cảm tính của Ngài thì vô cùng từ bi, vô cùng cảm động. Ngài thấy chúng sinh đau khổ, thì chính Ngài là người đau lòng nhất. Cho nên, Phật là sự kết hợp viên mãn giữa lý tính và cảm tính, không vì bản thân mà cứu người, nhưng lại là người lý tính nhất, biết vận dụng Đại thừa Phật pháp để cứu độ tất cả chúng sinh hữu duyên trên thế giới. Một người trên căn bản hoàn toàn không vì mình, thì mới có thể thành Phật. Sư phụ dùng bạch thoại mà nói cho quý vị hiểu: Một người ích kỷ, một người chỉ nghĩ đến bản thân mình — thì vĩnh viễn không thể thành Phật. Tôi ra sao, gia đình tôi thế nào, đất nước tôi thế nào… thì đều không được. Dù quý vị có nói: “Cả nhân loại đang đau khổ, làm sao bây giờ?” — thì cũng vẫn chưa đủ. Phật là gì? Phật là vị có thể thương tất cả chúng sinh, thương tất cả chúng sinh có tình trong thế gian này — kể cả loài quỷ cũng muốn cứu. Như Địa Tạng Vương Bồ Tát, vào tận địa ngục để độ ác quỷ — đó mới gọi là cảnh giới cao nhất, đó mới thật sự gọi là Phật.

Còn quý vị thì sao? Hãy cứu lấy chính mình trước, rồi cứu gia đình, cứu bạn bè, cứu người thân. Hôm nay Sư phụ nói: chỉ cứu thính giả của Đài Phát thanh Đông Phương thôi thì chưa phải là Phật. Dù có cứu cả một quốc gia, cứu cả thế giới — vẫn chưa phải là Phật.Hiện nay, Sư phụ đã rời khỏi nước Úc, bắt đầu ra toàn thế giới để cứu những chúng sinh hữu duyên. Tuy số lượng người được cứu chưa nhiều, nhưng trên phương diện hành động, đã là hành vi của một vị Phật rồi. Quý vị đi theo Sư phụ khắp thế giới — chẳng phải cũng đang hành đạo cứu người đó sao? Trong một chương trình phát sóng, có một vị nữ thính giả mộng thấy con mình rơi xuống một vực sâu thăm thẳm. Người mẹ hốt hoảng nói: “Phải làm sao bây giờ?” Ngay lúc ấy, Sư phụ xuất hiện, đưa tay tiếp đón đứa bé và bế nó lên khỏi vực sâu. Quý vị có nghe thấy không? Đó mới gọi là Phật, đó mới gọi là Đại thừa Phật pháp. Còn bây giờ, chỉ cần kêu quý vị hy sinh một chút lợi ích cá nhân — như thời gian, danh dự, địa vị, tài sản… Chưa nói đến chuyện hy sinh sinh mạng đâu — vậy mà quý vị có chịu hy sinh như Bồ Tát không?

Sư phụ nói với quý vị: hôm nay Sư phụ đã bước ra đây, mọi thứ đều đã chuẩn bị sẵn sàng.Vậy ai trong quý vị, ai đã chuẩn bị xong rồi? Phải học Phật! học Phật chân chánh, học tinh thần vô úy của chư Phật! Còn quý vị ở trong thế giới này, cái gì cũng muốn có, ở trong thế giới này cái gì đều không có, vậy mà quý vị lại muốn có tất cả — như vậy có phải là quá si mê không? Cho rằng bản thân  Quý vị tưởng rằng mình cái gì cũng phải có, nhưng quý vị còn có thể có được bao nhiêu năm nữa? Dù hôm nay có trúng số độc đắc, được cho mười triệu, quý vị cũng chỉ tiêu xài được mấy năm nữa? Quý vị có thể mang hết số tiền đó theo khi rời khỏi thế gian không? Đây chính là học Phật . Là phải học lấy lý niệm (ý nghĩa: tư tưởng) của Phật, phải học cảnh giới tối thượng trong Phật. Mà cảnh giới tối thượng là cái gì đều không có,  đó mới thật sự là cảnh giới.

Sư phụ vì độ thoát chúng sinh mà rất giàu tình cảm, và Sư phụ đã chuẩn bị tâm lý thật kỹ càng từ trước.Mỗi lần lễ lạy trước đức Quán Thế Âm Bồ Tát, Sư phụ đều phát nguyện rằng: Sư phụ nguyện cứu độ tất cả chúng sinh hữu duyên trên khắp thế giới. Sư phụ làm được bao nhiêu thì sẽ dốc hết sức để làm bấy nhiêu. Dù không chắc có thể làm đến nơi đến chốn, nhưng Sư phụ nguyện hết lòng mà làm. Sư phụ mong rằng quý vị đệ tử hãy cùng học theo Sư phụ,nỗ lực hơn nữa để cứu độ chúng sinh khắp thế gian.

Quý vị có biết không? Hiện nay, khi Sư phụ khuyên người tu hành, Sư phụ đã bắt đầu yêu cầu tất cả thính giả và các thiện hữu trên mạng phải phát tâm cứu độ chúng sinh.Sư phụ đối với họ nay đã nâng cao yêu cầu, không còn là chỉ cần tự mình tu tốt là đủ. Nếu quý vị đã được lợi lạc, thì càng phải đem pháp môn thù thắng này cho người hữu duyên được biết đến. Hãy nỗ lực tu hành! Hiện nay ngoài xã hội, biết bao nhiêu người vẫn còn mờ mịt không phương hướng, đừng đợi đến khi tai nạn xảy đến mới tỉnh ngộ. Khi Bồ Tát cứu quý vị, phải thấy trên thân quý vị có ánh sáng, thì Bồ Tát mới có thể cứu được.Tối thứ Bảy vừa rồi có một vị thính giả chia sẻ rằng, anh ấy đã nhìn thấy một đám mây trên trời biến thành bàn tay vươn xuống để cứu người. Ánh sáng trên thân quý vị càng sáng, thì khi tai họa xảy đến, Bồ Tát sẽ có thể đưa quý vị ra khỏi vòng nguy nan. Hãy tinh tấn tu hành.

6. DANH LỢI LÀ KHỔ, KHỔ LẠC LÀ KHÔNG

Hôm nay Sư phụ giảng cho đại chúng về tu hành – khổ hạnh và lạc hạnh. Quý vị cảm thấy tu tâm có khổ không? Có lạc không? Thế nào là khổ? Thế nào là lạc? Khi Sư phụ yêu cầu nghiêm khắc với quý vị, có thể quý vị cảm thấy khổ, nhưng kết quả sau cùng lại là lạc – là khoái lạc, là hỷ lạc. Trước tiên, Sư phụ giảng cho đại chúng rằng: “Lạc”, trong con mắt của chư Phật Bồ Tát, là “không”. Bởi vì tất cả khoái lạc đều là tạm thời, không vững vàng. Ví dụ đơn giản: Hôm nay quý vị tổ chức một bữa tiệc, quý vị là nữ chủ nhân, vui mừng khôn xiết. Mọi người tặng quà, chúc mừng, ca ngợi quý vị – nhưng vài giờ sau khi yến tiệc kết thúc, quý vị vẫn chỉ là chính mình. Khoái lạc ấy đi đâu rồi? Có giữ lại được chăng? Trong mắt Phật Bồ Tát, mọi niềm vui nhân gian đều là “không”,bởi vì tất cả những khoái lạc trong nhân gian đều là không.  Hôm nay quý vị đi xem phim, rất vui. Nhưng đến khi phim hết, không còn gì cả, mọi thứ đều tan biến. Kế tiếp, những điều quý vị phải đối diện là khổ đau thật sự. Từ trong mắt của Phật Bồ Tát, tất cả khoái lạc của nhân gian là không.Điều mà sư phụ hiện tại giảng cho Đại chúng đều là khái niệm. Kế đến, khổ trong mắt Phật Bồ Tát cũng là không. Một người trong đời chịu bao khổ nạn: bị ức hiếp, bị lừa gạt, cảm thấy thiếu thốn tiền tài, danh vọng, sức khỏe… Hết thảy toàn bộ những khổ này, trong mắt Phật Bồ Tát, đều là không. Bởi vì hết thảy mọi thứ này đều là tạm thời. Quý vị có khổ cả đời không? Khổ đến bao giờ là cùng? Đợi đến lúc xả bỏ thân xác, có khi quý vị liền siêu thoát, thoát khỏi lục đạo luân hồi. Quý vị nay đã 60, 70 tuổi… quý vị khổ bao nhiêu năm, Quý vị thử nghĩ xem, những khổ đau mà quý vị đã trải qua khi còn trẻ, hiện tại còn tồn tại nữa không? Ví như hồi nhỏ quý vị không may gãy chân, lúc đó đau vô cùng. Nhưng bây giờ quý vị còn cảm nhận được nỗi đau khi ấy không? Không còn cảm thấy nữa. Vì vậy, Chư Phật Bồ Tát thấy rằng khoái lạc ở nhân gian là không, khổ nạn ở nhân gian cũng là không. Sư phụ hôm nay giảng cho quý vị đều là những khái niệm căn bản của việc học Phật – là để giúp quý vị hóa giải khổ não trong đời sống. Sư phụ cảm thấy, mỗi lần giảng đến cảnh giới của chư Phật Bồ Tát, rất ít người thật sự hiểu được toàn vẹn, cho nên Sư phụ mới đem Phật pháp kéo về nhân gian để giảng cho quý vị, quý vị mới có thể hiểu, mới có thể tiến bộ. Sư phụ từng đăng cảnh giới của Nhị địa Bồ Tát, Tam địa Bồ Tát lên blog, nhiều vị thiện hữu trên mạng đều nói đọc mà không hiểu rõ. Nếu một người có thể hiểu thấu chân lý của chư Phật Bồ Tát, có thể hóa giải oán khí trong tâm, thì người ấy chính là Bồ Tát. Sư phụ giảng cho quý vị về khổ và lạc, là để quý vị xem hai pháp này như những khái niệm tương đương, tức là: khổ chính là lạc, lạc cũng chính là khổ. Vì khi quý vị vui quá mức, thực chất trong đó đã tiềm ẩn khổ đau. hiểu không? Ví như quý vị xem chương trình Tết Nguyên Đán, tại sao đạo diễn luôn lồng vào vài hình ảnh thiên tai? Ví dụ, đột nhiên có nơi gặp lũ lụt, có nơi lại có động đất. Rồi sau đó hướng về họ kính lễ và mặc niệm? Đó là một trong những nguyên nhân vì sao một chương trình không thể chỉ toàn là niềm vui.

Ở nhân gian này, khoái lạc của quý vị được xây dựng trên cơ sở nào? Rất nhiều khoái lạc đều được xây dựng trên cơ sở của khổ. Chính vì có khổ đau làm nền, quý vị mới biết thế nào là khoái lạc. Một người chưa từng trải qua thống khổ, họ sẽ không hiểu được khoái lạc. Nếu một đứa trẻ mới sinh ra đã được nuôi dưỡng như một vị hoàng đế, chưa từng chịu bất kỳ khổ cực nào, thì đứa trẻ ấy sẽ không thể hiểu thế nào là hạnh phúc. Một người từng nghèo khổ, khi sau này có tiền, họ sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Vậy khổ và lạc ở nhân gian là cảm giác như thế nào? Có rất nhiều người cho rằng mình đang rất vui vẻ, nhưng cũng có không ít người cảm thấy mình đang rất khổ sở. Ví như lúc đại chúng đi du lịch, có khoái lạc không? Có. Nhưng trên đường đi, ngồi xe hoặc lái xe năm sáu tiếng đồng hồ, có mỏi mệt không? Ngồi đến mức toàn thân đau nhức, đại chúng nói xem có khổ không? Vậy thì, có khoái lạc nào không kèm theo khổ? Tu tâm cũng là như vậy. Khi chưa tu thành, sẽ cảm thấy rất khổ cực; nhưng một khi đã tu thành rồi, thì sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Có phải như vậy không? Khi quý vị niệm kinh, cảm giác rất thống khổ; nhưng khi niệm kinh xong, những khó khăn và phiền não của quý vị đều giải quyết rồi, thì hỏi quý vị có cảm thấy khoái lạc không?

Khi còn chưa ngộ đạo ở thế giới này, tức là khi quý vị vẫn chưa cảm nhận được sự khai tâm (hoan hỷ nội tâm), thì lúc ấy trong lòng mới còn phân biệt khổ – lạc. Nhưng một khi thật sự ngộ ra đạo lý, quý vị sẽ không còn sự phân biệt giữa khổ và lạc nữa. Trước đó, sư phụ đã từng giảng cho đại chúng rằng: chịu khổ chính là niềm vui, mà khi quý vị đang hưởng lạc, thì cũng đồng nghĩa là quý vị đang chịu của khổ. Cho nên, mới có câu: ”Trong khổ có lạc, cái lạc ấy là vô tận.” Chịu khổ nhiều một chút, quý vị mới biết khoái lạc quý giá nhường nào. Chịu khổ nhiều một chút, quý vị mới cảm nhận được giá trị của cái “ngọt”. Hôm nay nếu quý vị không chịu niệm kinh, thì lấy đâu ra khoái lạc? Cho nên, phải nhìn nhận đúng đắn về khổ và vui của bản thân, đó chính là nền tảng rất quan trọng trong việc học Phật.

Tiếp theo, sư phụ xin giảng thêm vài câu: khổ chẳng phải nên quán là “không” hay sao? Thật ra, đây gọi là “khổ không” – nghĩa là cái khổ vốn là không. Lạc cũng là không – gọi là “lạc không”. Khổ là không, mà lạc cũng là không. Quý vị đang sống trong thế giới này, vốn dĩ tất cả đều là “không”, vậy có gì đáng để vui mừng? Có gì đáng để oán than? Tất cả những đau khổ quý vị đang gánh chịu hôm nay cũng chỉ là không. Vậy quý vị còn oán than điều gì nữa? Khoái lạc hôm nay đến với quý vị cũng chỉ là tạm thời, vậy thì có gì đáng để quá đỗi vui mừng? Cho nên trong Phật pháp thường nói: ”Khổ không” và “lạc không” đều chỉ là hiện tướng mà thôi.

Tất cả khoái lạc trên thế gian đều xuất phát từ dục vọng của nhân gian. Vui vẻ gì chứ, chẳng phải chỉ là một chút dục vọng của quý vị hay sao, ăn uống thấy ngon miệng, là do miệng tham vị ngon – gọi là thực dục, tức là dục vọng đối với ăn uống. Tài, sắc, danh, thực, thụy gọi là ngũ dục. Có nhiều tiền thì vui – đó là tài dục. Mà ít tiền thì không vui, cũng là tài dục – tất cả đều là dục vọng. Muốn ăn ngon – đó là thực dục nổi lên. Danh là khi mình muốn làm quan lớn, muốn trở thành người nổi tiếng – đó gọi là danh dục. Sắc ở đây là chỉ nam nữ chi sắc, khi dục vọng này khởi lên thì chính là sắc dục. Còn thụy – tức là ngủ – cũng là một loại dục vọng. Có người không mê tiền, không mê danh, chỉ mê ngủ – đó cũng là một dạng dục vọng, điều này cũng không tốt, người cả ngày muốn ngủ, không muốn động, chính là tham — tham hưởng thụ, tham cầu cho thân tâm mình được yên ổn, chính cái lòng tham ấy khiến quý vị sống trong thế gian này mà lãng phí biết bao thời gian quý báu của chính mình. Bởi vì trong khi quý vị ngủ, thì thời gian quý báu, thời gian làm công đức, thời gian cứu độ chúng sinh đều bị quý vị ngủ trôi mất. Những người lớn tuổi  theo y học  chỉ cần ngủ đủ 6–7 tiếng mỗi đêm là đủ. Nếu một người già mà suốt ngày chỉ ngủ thì gọi là hôn trầm. Sư phụ bây giờ đang giảng cho quý vị là Phật pháp, quý vị đừng tưởng đang là kiến thức y học. Tài, sắc, danh, thực, thụy – những thứ ấy đều là dục vọng của nhân gian.

Khoái lạc ở nhân gian cũng là một dạng dục vọng, mà dục vọng thì hôm nay có thể có, ngày mai lại có thể không, điều mà nó mang đến cho quý vị chỉ là những khoái lạc tạm thời. Những khoái lạc này đều là khoái lạc thế tục, mà khoái lạc thế tục thì mang tính tạm thời và hẹp hòi nhất định.Hẹp hòi tức là tầm nhìn nông cạn, tấm lòng và khí độ không rộng lớn. Như ếch ngồi đáy giếng chính là chỉ sự hẹp hòi đó. Bởi vì nó ở dưới đáy giếng, người ta hỏi nó: “Ngươi có thấy bầu trời không?” Nó trả lời: “Thấy rồi, bầu trời chính là cái lỗ tròn trên đỉnh giếng đó.” – đây chính là ví dụ của kẻ ếch ngồi đáy giếng.Hiện nay quý vị học Phật, đã học được gì? Chính là phải học cái tâm bao dung rộng lớn như biển trời, phải học trí huệ của chư Phật. Sư phụ thường dạy quý vị rằng cần phải học trí huệ của chư Phật Bồ Tát, nhưng quý vị vẫn chưa thật sự thấu được chân lý thực sự của các chư Phật Bồ tát. Vì vậy, sư phụ buộc phải dùng một chút thường thức Phật học phổ thông để điểm hoá quý vị có thể thật sự hiểu rõ. Nếu không thì dù có giảng bao nhiêu cũng là uổng phí, chẳng có ích gì.

Trước hết, người học Phật cần phải giảm bớt những khoái lạc thuộc về thế tục. Tức là: giấc ngủ của quý vị nên bớt lại một chút; món ngon vật lạ nên ăn ít lại một chút; đối với tình ái nam nữ nên giảm bớt, gọi là “thanh tâm quả dục”; đối với danh lợi nên nhạt bớt, không nên truy cầu danh lợi. Tiền tài đủ dùng là được. Một người phải hiểu rằng: tiền tài là vực sâu không đáy, vật thực cũng là vực sâu không đáy, có được danh thì lại muốn thêm danh, đã có quan thì lại muốn lên chức cao hơn nữa… Những dục vọng như vậy thì ngày nào mới dừng lại? Hôm nay có được người phụ nữ (hoặc đàn ông) này, ngày mai lại nghĩ đến người phụ nữ (hoặc đàn ông)  kia – dục vọng như thế là một quá trình phình trướng ác tính không hồi kết. Do đó, chư Phật Bồ Tát dạy chúng ta học Phật, điều đầu tiên là phải chế ngự lòng dục vọng của con người, không nên nuôi dưỡng những ham muốn trần tục ấy. Bởi vì chỉ sau khi quý vị có thể giảm thiểu được những thế lạc thế tục, thì mới có thể sanh khởi sự cảm ứng, mới có thể cảm ứng được khoái lạc trong tâm của chính mình.

Thế nào gọi là khoái lạc trong tâm? Chính là khoái lạc phát khởi từ nội tâm. Hôm nay tôi không tham luyến việc này nữa, trong lòng tôi cảm thấy tri túc thường lạc (ý nghĩa là người biết đủ thường xuyên vui vẻ), tâm tôi tự nhiên vui vẻ. Hôm nay được chọn làm chủ tịch cũng tốt, không được chọn cũng không sao, tôi chẳng bận tâm, trong lòng an ổn — đó mới thật sự là hạnh phúc và niềm vui. Hôm nay tôi có tiền cũng tốt, không có tiền cũng chẳng sao, tôi vẫn cứ một lòng tu tâm cho tốt, thì quý vị chính là người học Phật với nội tâm vô cùng hoan hỷ.Phải ghi nhớ: giảm bớt dục vọng, đó là điều vô cùng quan trọng.

Chúng ta phải cảm ứng được khoái lạc từ nội tâm. Thế nào gọi là cảm ứng được khoái lạc từ nội tâm? Chính là tâm quý vị có thêm một phần khoái lạc, thì nhục thể, tinh thần, và hết thảy mọi thứ của quý vị, hoàn cảnh bên ngoài cũng sẽ theo đó mà thay đổi. Tinh thần của một người chỉ khi phát khởi từ trong tâm mới thật sự là “tinh thần”. Còn nếu ngược lại, thì sẽ thành “thần kinh” mất rồi. Người trong lòng vui vẻ thì có thể mỉm cười thật sự, nụ cười đó phát ra từ nội tâm. Tôi đã tri túc, tôi thường lạc, tôi không còn vướng bận, tôi đã buông xuống được. Năm dục — cho dù quý vị đã buông được tài, buông được danh, thậm chí buông được sắc, buông được ăn uống — thì vẫn còn một cái chưa buông được chính là thuỵ. Rất nhiều người rất thích ngủ, mà ngủ quá mức thì không tốt. Quý vị hiểu điều này chứ? Ngủ quá nhiều thì con người rơi vào trạng thái hôn trầm. Nếu quý vị không tin, cứ thử ở nhà ngủ liền năm ngày xem, sau khi thức dậy quý vị thậm chí không phân biệt được đông tây nam bắc (tìm không được phương hướng), có thể cả ký ức cũng mơ hồ. Đó cũng là một loại khổ. Ngủ cũng là một dạng dục vọng, và dục vọng đó cũng phải được đoạn trừ. Chỉ muốn ngủ thì còn thời gian đâu mà niệm kinh? Chỉ muốn ngủ thì làm sao cứu độ người? Phải ghi nhớ: người quá tham đắm ngũ dục sẽ không thể nào nghĩ đến việc tu tâm cho nghiêm túc. Ngày ngày đều bận bịu chạy theo những dục vọng đó, thì làm sao có thể giữ được một tâm thái tốt để tu tâm?

Hãy ghi nhớ, làm người thì phải tự giữ giới luật. Vậy tự giữ giới luật là gì? Chính là quý vị phải hiểu rõ việc nghiêm khắc với chính mình. Rất nhiều người cho rằng bản thân ở nhân gian làm những việc đó là không sai. Đúng vậy, quý vị không sai – vì quý vị vẫn là người. Nhưng hiện giờ, thầy muốn dẫn dắt quý vị trở thành Bồ Tát. Yêu cầu của quý vị đối với chính mình vẫn chưa đủ, hoàn toàn chưa đủ, cần phải nỗ lực làm công đức mới được. Ví dụ đơn giản như thế này: khi quý vị đang leo núi, có phải cần phải tăng tốc nỗ lực hơn không? Tuy rằng đã cố gắng tăng tốc rồi, nhưng vẫn cảm thấy rất chậm – đó chính là đạo lý này. Nếu quý vị không tiến về phía trước, thử xem liệu có bị tụt lùi không? Đó chính là không tiến tức là thoái. Người học Phật đã bước lên con đường này, nếu không tiến tới thì tức là đang thoái lui.

Người quá đắm chìm trong những thú vui thế tục thì sẽ không có thời gian để tu tâm. Quý vị phải tự đặt ra tiêu chuẩn cao cho bản thân, tuyệt đối không được nuôi dưỡng bất kỳ lòng tham nào. Sinh mệnh là hữu hạn, tinh thần cũng là hữu hạn, chỉ khi quý vị biến cuộc đời hữu hạn ấy thành hành trình cứu độ vô lượng chúng sinh, thì sinh mệnh ấy mới trở nên vô hạn. Ví dụ đơn giản thì hiểu ngay: một cô giáo giữ trẻ đã lớn tuổi, nhưng mỗi lần nhìn thấy lũ trẻ, chơi đùa cùng chúng, cô giáo không cảm thấy mệt mỏi mà ngược lại chỉ thấy niềm vui. Đó chính là lúc bà dùng sinh mệnh già yếu có hạn của mình để hóa thành tấm lòng trẻ thơ như các em nhỏ, nên thời gian đối với cô giáo không còn là gánh nặng nữa. Ngày nay, nếu quý vị học theo hạnh Bồ Tát để cứu người, thì chính sinh mệnh của quý vị cũng sẽ tự nhiên được kéo dài. Sư phụ thường răn dạy quý vị là vì muốn tốt cho quý vị, giống như cha mẹ dạy dỗ con cái vậy. Không dạy quý vị thì tức là không tốt với quý vị, không có trách nhiệm với quý vị, không thật lòng muốn quý vị tu hành. Nếu không có ai chỉ dạy, quý vị làm sao học Phật? Quý vị lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng có tự mình ngộ ra được không? Quán Thế Âm Bồ Tát hiện nay chính là thông qua sư phụ nơi nhân gian này để chỉ dạy quý vị, dạy quý vị cách tu tâm tu hành.

Vì vậy, những người tham đắm vào thú vui thế tục thì căn bản không còn thời gian để tu hành. Vậy tại sao chúng ta phải “khổ tu”? Chẳng lẽ chúng ta không thể tu hành một cách vui vẻ sao? Khổ tu là để thúc đẩy quý vị bước vào con đường tu hành, bởi vì khi quý vị biết khổ, khi quý vị tự tiết chế rồi, thì quý vị mới có thể tìm thấy ánh sáng, mới có thể tìm ra phương hướng. Ví dụ đơn giản: rất nhiều người vào quán bar uống rượu, sau khi say xỉn thì thấy “vui vẻ”không? Họ cười ha hả. Nhưng bước ra khỏi quán bar rồi thì sao? Đường đâu? Không tìm được phương hướng rồi, không biết đường về nhà nữa, đúng không? Nếu lúc ở trong quán bar uống ít rượu thôi, bản thân tiết chế rồi. Nếu đầu óc tỉnh táo bước ra, thì sẽ biết mình đang ở đâu, biết mình nên đi về hướng nào. Còn nếu uống say quá mức rồi, vui vẻ quá đà, thì sẽ tìm không được đường của chính mình.

7. TIẾT CHẾ DỤC VỌNG, NHẪN ĐIỀU NGƯỜI KHÁC KHÔNG THỂ NHẪN

Tại sao chúng ta cần khổ tu hành? Bởi vì khổ tu hành có thể nâng cao cảnh giới của quý vị, khiến cho cảnh giới ngày càng được nâng lên. Miệng quý vị nói là muốn nâng cao cảnh giới, vậy cảnh giới đó được nâng cao thế nào? Cảnh giới là gì? Cảnh giới là thứ không nhìn thấy được, không sờ vào được, giống như có một số người vừa đến Úc chưa lâu thì chưa có cảnh giới, vào nhà vệ sinh công cộng lấy giấy vệ sinh mang về nhà, đổ xăng rồi không trả tiền mà đi, nhổ nước bọt bừa bãi… đây chính là không có cảnh giới. Ở Úc lâu dần, cảnh giới tự nhiên được nâng lên. Giờ quý vị còn lấy giấy vệ sinh của người khác không? Còn đổ xăng không trả tiền không? Còn nhổ bừa bãi nữa không? Đây gọi là cảnh giới vô hình, bởi vì họ biết rằng bảo vệ vệ sinh môi trường là trách nhiệm của mọi người, nên cảnh giới của họ cùng với hoàn cảnh thay đổi mà tự nhiên được nâng cao. Nơi chốn sạch sẽ thế này, không ai nhổ bậy, tự nhiên quý vị cũng không còn muốn nhổ bậy nữa – đây chính là cảnh giới. Bởi vì quý vị hiểu rằng hiện nay có rất nhiều người đang chịu khổ, chúng ta nhất định phải cứu độ họ. Khi cảnh giới của quý vị được nâng cao, quý vị mới có được cảnh giới của Bồ Tát. Đạo lý rất đơn giản. Nhưng nhất định phải nâng cao cảnh giới của chính mình trước. Đừng quá xem trọng hưởng thụ vật chất. Hôm nay lái xe tốt rồi, lại muốn xe tốt hơn; hôm nay đã có cái ăn, lại muốn có nhiều hơn; hôm nay đã ngủ rồi, lại muốn ngủ thêm một chút. Rất nhiều người khi không thể gượng dậy được lại nghĩ: “Giá mà có thể nằm thêm một chút thì tốt biết mấy. Những ý nghĩ như vậy đều thuộc về lòng tham dục.

       Thời gian vui vẻ thì trôi qua rất nhanh, còn thời gian đau khổ thì lại trôi chậm, đây chính là lý do vì sao ở địa phủ thời gian trôi chậm, còn trên thiên thượng thì thời gian lại trôi rất nhanh. Thật ra, nhân gian đã có thiên đường và địa ngục. Người bị giam trong tù, mỗi ngày sống như một năm; còn người ngày ngày vui vẻ, ăn uống vui chơi, thì thời gian trôi qua rất nhanh – đó chính là thiên đường và địa ngục ở nhân gian. Khổ tu hành trên thực tế nói đến một vấn đề rất quan trọng, đó là ước thúc ( ràng buộc ) chính mình. Khổ tu hành là để trói buộc bản thân lại, khiến tinh thần của quý vị có thể chuyên nhất. Ví như hôm nay tôi là một học sinh đang ở nhà làm bài tập, vì muốn thi đậu đại học, tôi tự trói buộc mình lại. Trói buộc này chính là đóng cửa, dẹp ti vi, tắt máy chơi game, cắt mọi cuộc gọi, mục đích là để mình học tập một cách chuyên chú, tinh thần có thể tập trung. Sư phụ kể cho đại chúng một câu chuyện có thật: Có một người vì muốn con mình thi đậu một trường đại học tốt nhất ở Sydney, nên suốt 4 năm ông không xem ti vi, chỉ đọc báo. Ông dẹp hết ti vi trong nhà, không cho ai trong nhà xem, đó gọi là ước thúc  ( ràng buộc ) chính mình. Quý vị theo sư phụ học Phật, sư phụ có cần ước thúc  ( ràng buộc )quý vị không? Nếu sư phụ không ước thúc ( ràng buộc ) quý vị, thì quý vị sẽ nhìn ngó lung tung, tư tưởng sẽ không chuyên nhất, không thể tinh tiến tu học. Tự mình ước thúc ( ràng buộc ) bản thân, khiến tinh thần chuyên chú thì mới có thể đạt đến “định”, nghĩa là: người có thể tự ước thúc ( ràng buộc ) mình thì mới có định lực. “Tôi muốn học Phật, tôi phải ước thúc  ( ràng buộc )bản thân, không được nhìn bậy, không được nghĩ bậy, không được nói bậy, không được có vọng niệm, cầu xin Quán Thế Âm Bồ Tát giúp con trừ bỏ vọng niệm.”Quán Thế Âm Bồ Tát nhất định sẽ giúp quý vị. Hãy ghi nhớ: ước thúc ( ràng buộc ) bản thân, khổ tu hành chính là để có được trí huệ Như Lai, tức là có được trí huệ của chư Phật Bồ Tát. Chỉ khi một người có thể giữ định, thì mới có thể sinh ra trí huệ.

 Bất cứ lúc nào cũng phải tự ước thúc ( ràng buộc ) bản thân. Quý vị là Bồ Tát, là người có hình tướng, ngay cả nụ cười cũng không thể cười tùy tiện. Phải học cách khắc chế chính mình – đó mới gọi là tự ước thúc ( ràng buộc ) , đó mới gọi là học Phật. Con người phải có tôn nghiêm, mà sự ước thúc  ( ràng buộc )  là vô cùng quan trọng. Định lực chính là dựa vào việc tự ước thúc  ( ràng buộc ) mà có được,muốn làm điều gì thì không thể làm bậy, muốn ăn cái gì thì không thể ăn bậy. Theo sư phụ học Phật pháp thì phải biết  ( ràng buộc ) ước thúc bản thân. Nếu muốn tu thành chánh quả thì phải ước thúc ( ràng buộc )  bản thân, khắc chế bản thân, mới có thể mang đến pháp hỷ trong tâm. Bởi vì sau khi khắc chế rồi, niềm vui đó là từ nội tâm sinh ra, chứ không phải là loại niềm vui dễ dàng nhìn thấy từ bề ngoài, từ các giác quan. Ví dụ như khi quý vị ăn một món gì đó rồi, cái vui đó là tạm thời, chỉ xảy ra trong mấy tấc của cổ họng. Khi vừa ăn vào thì có cảm giác, nhưng vừa nuốt xuống thì cảm giác ấy liền mất đi, đúng không? Vậy thì, chỉ vì mấy tấc cổ họng mà quý vị hưởng thụ, niềm vui đó có ý nghĩa gì? Niềm vui từ nội tâm mới gọi là an tĩnh mà vui vẻ, bởi vì tâm an tĩnh, rất bình an, loại niềm vui này có thể giữ được trong một khoảng thời gian nhất định. Hãy học những điều này. Sư phụ hôm nay không phụ lòng Quán Thế Âm Bồ Tát. Chỉ cần toàn thế giới có người xưng sư phụ là Bồ Tát, thì sư phụ đã làm đúng, đã không thẹn với Quán Thế Âm Bồ Tát rồi. Nếu cả thế giới đều chửi mắng sư phụ, thì đó là sư phụ làm sai rồi. Sư phụ hiện giờ đang dốc cả sinh mệnh ra để khiến đại chúng tôn kính Bồ Tát, yêu kính Quán Thế Âm Bồ Tát, chính là đang cứu độ chúng sinh.

Chúng ta tu theo lạc hạnh. Lạc hạnh là gì? Chính là tu hành trong niềm vui, niềm hỷ lạc. Chúng ta phải dùng niềm vui để tu hành, lấy niềm vui làm động lực để hành trì. Tu hành trong niềm vui, người ngoài nhìn vào tưởng như chúng ta đang khổ tu hành, nhưng thực ra trong nội tâm chúng ta lại rất hoan hỷ – đó mới thật sự là lạc tu, là lạc hạnh. Ví dụ hôm nay quý vị giúp đỡ người khác, quý vị có vui không? Dĩ nhiên là vui chứ. Có người từng nói với sư phụ: “Lư Đài Trưởng à, thầy ăn chay bao nhiêu năm nay, khổ quá rồi, đến cả hải sản cũng không được ăn, vậy chẳng phải sống một đời ở nhân gian mà uổng phí rồi sao?” Vậy quý vị nói sư phụ sống có vui không? Sư phụ đương nhiên là rất vui. Người ta nói sư phụ gầy, sư phụ lại nói: “Đây là cái đẹp của sự khỏe mạnh, nhiều người muốn gầy mà còn không được nữa là! Chúng ta sống rất vui vẻ. Người khác nhìn vào thấy chúng ta không quan trọng, nhưng điều quan trọng là bản thân cho rằng vui vẻ thì đó mới là vui vẻ. Hiểu rồi chứ? Cứu độ chúng sinh là việc vui sướng nhất, là việc vĩ đại nhất. Ngày hôm nay quý vị có thể cứu một mạng người, công đức ấy còn hơn cả việc xây bảy tầng tháp phù đồ. Chúng ta phải sống một cuộc đời có ý nghĩa: khi còn sống thì được người ta tôn kính, ngưỡng mộ quý vị; khi đã mất đi rồi, vẫn được người tưởng niệm quý vị.

Trên thế gian này có năm loại dục vọng, chúng ta cần phải biết khống chế, biết tiết chế. Tu hành một cách có quy luật, thì đó chính là “khoái lạc hạnh”. Năm loại dục vọng thì đại chúng đều đã biết rồi, phía trước cũng đã giảng qua rồi. Chúng ta không nên tham cầu danh lợi, phải biết tiết chế và khống chế nó. Ví dụ, rõ ràng tôi không nên ăn đồ tanh mặn, nhưng lại không kiểm soát được bản thân. Vậy thì cần bắt đầu từ việc tiết chế – ăn ít lại một chút. Nếu vẫn chưa khống chế được, thì cần tuân theo quy luật để khống chế nó. Có quy luật nghĩa là khống chế có tiết chế: bắt đầu từ việc ăn chay vào mùng một và ngày rằm, đây chính là tiết chế có quy luật, khống chế bản thân ăn chay 2 ngày, rồi dần dần ăn chay 10 ngày, rồi một tháng ăn chay , và cuối cùng là ăn chay trường. Sự tu tâm tự nhiên mà đến,chính là tu tâm đến rất tự nhiên. Tôi một cách rất tự nhiên tiếp nhận như việc ăn chay, cũng tự nhiên tiết chế được tham dục, thực dục… Đó chính là “lạc hạnh”, là hành vi của khoái lạc, tu hành khoái lạc.

Mỗi ngày nếu ngủ một giấc mà tự nhiên tỉnh dậy, có phải rất dễ chịu không? Nếu bị đánh thức không tự nhiên, chuông báo thức vừa reo là phải dậy, quý vị có cảm thấy khó chịu không? Tu tâm chính là phải tu cái “tự nhiên”. Đối nhân xử thế cũng như vậy, cũng phải tự nhiên. Ăn chay cũng cần tự nhiên. Tôi không tham tiền, cũng là rất tự nhiên. Tôi không tham ngủ, cũng là rất tự nhiên. Đó mới gọi là tu tâm, mới là dưỡng tánh. Có người không hiểu còn tưởng rằng Sư phụ đang giảng Đạo dưỡng sinh. Nhưng thực chất Đạo tu tâm với Đạo dưỡng sinh là một. Người tu tâm sống rất thọ — sống thọ đây là nói ở cõi dương gian (nhân gian). Nếu quý vị không bị cuốn vào ngũ dục lục trần của thế gian, quý vị sẽ sống thọ. Tục ngữ có câu: “Ăn xong đi bộ trăm bước, sống thọ đến chín mươi chín”. Đó là dưỡng sinh. Khi gặp chuyện mà không nổi giận, cũng là đạo lý dưỡng sinh. Vì vậy chúng ta phải tìm kiếm niềm vui ở phương diện tinh thần, chứ không phải là ở xác thịt. Niềm vui của thân xác rất nhanh kết thúc, còn niềm vui tinh thần là vĩnh viễn. Chúng ta theo đuổi là tình yêu về mặt tinh thần, chứ không phải là tình yêu thể xác, không phải là thứ tình ngắn ngủi ở nhân gian, lại càng không phải là thứ tình yêu kèm theo đau khổ. Thật sự, niềm vui nằm ở đâu? Phải hiểu rằng, niềm vui thật sự nằm trong tinh thần của con người. Khi tinh thần được thỏa mãn rồi, quý vị sẽ có được niềm vui rồi. Mọi đau khổ đều đến từ việc tinh thần không được thỏa mãn, mới mang đến thống khổ. Niềm vui nên được sinh ra một cách tự nhiên. Một người khi khí đủ thì sẽ phát sinh niềm vui. Vì khí đủ tức là thân tâm trong sạch, vì tôi vui vẻ, cho nên khí tôi đầy đủ. Người có khí đầy đủ thì sẽ không bệnh, sẽ rất hạnh phúc. Quý vị hãy thử lắng nghe xem, giọng nói của người bệnh đều yếu ớt vô lực, đó là khí không đủ. Vì sao khí không đủ? Vì có đau khổ, nghĩ không thông, nên khí bị suy. Cho nên người học Phật cần phải thấu hiểu khí đủ. Khi khí đầy đủ sẽ sinh ra niềm vui tinh thần, đó chính là cảm giác hân hoan. Vì khí đầy là một sự biểu hiện nội tại. Sư phụ nói cho quý vị nghe: hình thức biểu hiện nội tại đó gọi là “khinh an”(tức là nhẹ nhàng an ổn) . Vừa rồi sư phụ đã giảng cho các vị về khái niệm “tĩnh an” (tức là bình an tĩnh lặng). Bây giờ lại nói về “khinh an”. Tức là, khi một người vui vẻ, thì trong tâm họ có sự khinh an, tức là nhẹ nhõm, không phiền não thì sẽ cảm thấy thư thái, nhẹ nhõm. Miệng sao lại ngân nga hát khe khẽ? Bởi vì không còn phiền não nữa, vui vẻ rồi!

Con người không biết chữ thì không sao, nhưng không thể không hiểu đạo lý. Nếu không hiểu đạo lý thì coi như sống uổng một đời. Niềm vui của người thế tục là dựa vào sự tiếp xúc bên ngoài, còn người tu hành thì dựa vào sự mãn nguyện từ nội tâm. Chúng ta là người tu hành, nếu trong lòng biết đủ thì sẽ rất vui vẻ; còn nếu trong tâm không biết đủ thì sẽ cảm thấy rất khó chịu, rất khổ.

Tiếp theo, Sư phụ sẽ giảng cho mọi người nghe về chữ “Thông”. Chúng ta thường nói: “Phải nghĩ cho thông suốt.” Vậy thì cái gì gọi là nghĩ thông? Cái gì gọi là không thông?”Thông” là do quý vị “nghĩ” mà ra, tất cả mọi chuyện đều là do quý vị suy nghĩ, cuối cùng đọng lại ở một chữ: “thông.” Quý vị thử nghĩ xem, nếu cuối cùng quý vị không đạt đến chữ “thông” này, thì dù quý vị có nghĩ bao nhiêu, cũng vĩnh viễn chỉ là “nghĩ” mà thôi. Chữ “thông” nghĩa là quý vị đã nghĩ thông suốt rồi. Thế nào là thông? Là thông kinh lạc. Khi đầu óc quý vị thông suốt rồi, tâm thông suốt rồi, thì cơ thể quý vị cũng thông suốt rồi, và vận trình của quý vị cũng sẽ chuyển tốt.Người nghĩ thông suốt sẽ không dễ sinh bệnh, bởi vì khí mạch của họ đã được khai mở (toàn bộ đều đả thông rồi).

 Sư phụ nói với đại chúng rằng: Quý vị phải triệt để nhận thức chính mình. Một người cần phải thực sự hiểu rõ bản thân mình. Rất nhiều người không hề hiểu mình, cứ nghĩ rằng mình giỏi lắm, tài ba lắm, “Tôi chính là như vậy đó!”,nhưng quý vị là ai chứ? Phải nhận thức triệt để về bản thân mình, mà thực tế quý vị nhận ra được Phật Bồ Tát rồi.Bởi vì khi quý vị thật sự thấu hiểu bổn tánh của mình, gốc rễ nguyên thủy nhất của mình — thì đó chính là lúc quý vị đã nhận ra được Phật Bồ Tát.

Người thường xuyên tự trách mình, thì thường sẽ được người khác tha thứ. Ví dụ: “Ôi, tôi làm sai rồi, xin lỗi nhé.” thì người ta sẽ tha thứ cho quý vị. Còn nếu nói: “Tôi không sai, tôi vốn là như vậy đó.” — vậy thì ai tha thứ cho quý vị đây? Nếu không hiểu rõ chính mình, lại thường hay trách móc người khác, thì cuối cùng chỉ chuốc lấy khổ đau cho bản thân, đến mức ngay cả mình cũng chẳng biết mình đúng hay sai. Lúc nào cũng nói người này không tốt, người kia không tốt, thì cuối cùng mọi người đều nói quý vị không tốt, khiến quý vị đau khổ cùng cực. Đừng vội chỉ trích người khác, vì một khi quý vị nói người khác, thì người khác nhất định cũng sẽ nói lại quý vị.Kết quả bản thân sẽ rất thống khổ. Tại sao quý vị lại bị người khác chỉ trích? Chính là vì miệng quý vị đã chỉ trích người ta trước, nên người ta mới nói lại quý vị.Đây là đạo lý căn bản nhất của nhân gian, đồng thời cũng là Phật lý.  Một người thực sự làm người mà biết thường xuyên tự trách mình, luôn biết tha thứ cho người khác, người ấy chính là Bồ Tát.

Nhẫn những điều người khác không thể nhẫn, làm những việc người khác không thể làm, trong Phật pháp gọi là “Đại Hùng”. Những điều người khác không làm được, sư phụ sẽ làm. Người khác chỉ trích sư phụ, dù sư phụ cảm thấy không thể nhẫn nhịn nổi, sư phụ nhất định cũng phải nhẫn. Rất nhiều tu viện đều có ”Đại Hùng Bảo Điện”, bên trong thờ nhiều vị Phật Bồ Tát. Cốt lõi của Phật Bồ Tát là gì? Chính là: Nhẫn người không thể nhẫn, làm việc người không thể làm. Người sau khi học Phật, nếu quý vị đã rời xa những thói hư tật xấu, không còn làm điều sai trái, không còn nghĩ điều bất thiện thì đã tiến gần đến hạnh phúc rồi. Quý vị có muốn hạnh phúc không? Quý vị có muốn ngày càng tốt đẹp hơn không? Vậy thì hãy sửa đổi những tập khí xấu trên thân tâm mình, quý vị sẽ được hạnh phúc.

Phật Bồ Tát là chúng sinh đã giác ngộ. Sau khi một chúng sinh đạt được giác ngộ, thì quý vị chính là Phật, là Bồ Tát rồi,còn chúng sinh là Bồ Tát chưa giác ngộ. Quý vị có phải chúng sinh không? Trong tâm quý vị có Phật không? Có Bồ Tát không? Nhưng vì quý vị chưa giác ngộ, nên quý vị chưa thể gọi là Bồ Tát — chỉ có thể gọi là phàm nhân.

Người có tâm lượng hẹp hòi thì phiền não nhiều; khí lượng càng nhỏ thì phiền não càng nhiều.”.Người có tâm lượng rộng lớn thì trí huệ dồi dào. Nói cách khác, người có khí lượng lớn chính là người có trí huệ sâu rộng. Có người rất thích tranh cãi, nhưng nếu đối phương không cãi lại quý vị, thì người đó chính là người có trí huệ, có tâm lượng lớn. Còn nếu hai bên đều cãi nhau, cả hai đều là người nhỏ nhen. Nếu vợ chồng cùng nhau tranh cãi, thì cả hai đều là người tiểu nhân.

Đức Phật và các vị Bồ Tát dạy rằng: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý” – nghĩa là, tất cả những điều thiện đều nên tích cực thực hiện , tất cả những việc ác đều không được làm, và phải chuyển hóa tất cả những ý niệm trong tâm mình thành những ý niệm trong sạch, đây mới gọi là Bồ tát. Nếu như mỗi người đều có thể tích cực hành thiện, không làm việc ác. Nếu mỗi người chúng ta đều có thể giữ được tâm niệm thanh tịnh, tích cực hành thiện, không làm điều ác, thì thế gian này sẽ không còn sự tăm tối và tà niệm. Lúc ấy, thế giới nhân loại sẽ trở thành nơi ngập tràn tình thương, ánh sáng và niềm vui. Đó cũng chính là con đường của Bồ Tát đạo – tu sửa chính mình, cứu giúp người khác, cùng nhau xây dựng một thế giới thanh tịnh và an lạc. Nhân gian còn đâu tà ác nữa? Khắp chốn nhân gian sẽ tràn đầy tình thương và niềm hoan hỷ.

Người ngu si luôn mong muốn người khác phải hiểu mình. Đây chính là người ngu si.
“Bạn biết không? Tôi rất tốt, tôi từng như thế này, như thế kia…” — chỉ có người ngu si mới thường xuyên làm như vậy, nói như vậy. Người ngu si lúc nào cũng muốn người khác thấu hiểu mình; Còn người có trí huệ thì luôn nỗ lực tự hiểu chính mình. Chỉ những ai khi hiểu bản thân, thì họ biết bản thân nên làm thế nào rồi, thì họ biết mọi việc bản thân làm là đúng hay sai, đó mới là người có trí huệ. Người không có trí huệ thì ngốc nghếch, cứ mãi mong người khác hiểu mình. Thay vì như vậy, hãy có bản lĩnh tự hiểu rõ bản thân mình, hiểu rõ mình là ai, quý vị cho rằng mình thông minh, rồi chạy đi khoe khoang khắp nơi. Trên thế giới này, quý vị chính là người ngu nhất. Quý vị nói ra, quý chị chính là người ngu xuẩn nhất trên thế giới này, Bồ Tát sẽ không tiếp nhận một người không dám nhận sai, lại còn tạo ra nhân quả vì sự ngã mạn của mình. Nhân quả là phải dám gánh, dám chịu. Cho nên học Phật, phải học được cốt tủy, học được tinh thần.

Lên đầu trang